MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới chúng ta đang sống đã chứng kiến một quá trình lịch sử trải
dài hàng ngàn năm, từ thuở sơ khai với hoạt động hàng đổi hàng giữa những
ngôi làng cho tới những kết nối chằng chịt giữa các quốc gia như ngày nay.
Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Chúng ta biết rằng
thế giới hiện nay có nhiều thay đổi: cách mạng khoa học công nghệ, cách
mạng xanh, vấn đề kinh tế xã hội và toàn cầu hóa. Nghiên cứu những xu
hướng biến đổi của thế giới để tiếp tục khẳng định tính đúng đắn mà những
vấn đề thời đại mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ, trong đó toàn cầu hóa là
một trong những nội dung cần được quan tâm, làm rõ. Bởi vì, toàn cầu hóa sẽ
tác động và ảnh hưởng tới bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Mỗi quốc gia, dân tộc cần biết được mình đang sống trong khung cảnh
nào với những xu hướng biến đổi của nó ra sao từ đó có những quyết sách phù
hợp để tiếp tục đưa quốc gia tiến lên cùng với quá trình hội nhập. Đảng Cộng
sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đang ra sức phát huy những thành tựu đã
đạt được, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới có bước phát triển mới, sáng tạo mô
hình phát triển kinh tế - xã hội đậm nét, đưa đất nước ta vững bức trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế của thời đại. Vì vậy,
việc nghiên cứu những xu hướng biến đổi của thế giới trong giai đoạn hiện
nay là vấn đề quan trọng. Viêc nghiên cứu những tác động của toàn cầu hóa
đến Việt Nam trong bối cảnh hội nhập là một việc làm có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc, góp phần đưa nước ta đạt được những thành công trong
chặng đường đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chính vì các lý do tác giả đã lựa chọn đề tài “Toàn cầu hóa trong
những xu thế của thời đại tại Việt Nam hiện nay” để làm tiểu luận kết thúc
học phần Các phong trào chính trị - xã hội quốc tế.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề của quá trình toàn cầu hóa hiện nay và những
chủ trương của Việt Nam ứng phó với những xu hướng biến đổi của thế giới
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích khái niệm thời đại, toàn cầu hóa;
- Phân tích những xu hướng phát triển của thế giới trong thời đại ngày
nay;
- Những đối sách của Việt Nam trước quá trình toàn cầu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những xu hướng biến đổi của thế giới trong
thời đại ngày nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề lớn của thời
đại như toàn cầu cầu hoá, các vấn đề hội nhập trong thời gian từ năm 2000
đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và
quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Tiểu luận bao gồm: phương pháp logic,
lịch sử; phân tích, tổng hợp, so sánh nghiên cứu tài liệu.
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
tiểu luận đuợc kết theo 2 chương, 6 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VÊ NHỮNG XU HƯỚNG CỦA THẾ GIỚI
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là sự tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh
hưởng tác động đến nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc
gia và các dân tộc trên thế giới.
1.1.2. Thời đại
Theo nghĩa rộng, thời đại là một khái niệm chính trị - kinh tế - xã hội
khái quát tiến trình phát triển của lịch sử loài người, là thời gian rất dài để chỉ
sự phân kỳ lịch sử xã hội và để phân biệt những nấc thang phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội mà theo đó nấc thang cao hơn, tiến bộ hơn sẽ phủ định
nấc thang cũ, lạc hậu để mở đường cho sự phát triển một thời đại mới. Sau
cách mạng tháng Mười Nga, nhân loại bắt đầu một thời đại mới, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Thời đại theo nghĩa hẹp là khái niệm về thời gian để chỉ xu thế và nội
dung phát triển trên các phương diện kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,
công nghệ…
1.2 Những xu hướng lớn của thế giới hiện nay
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, với sự
phát triển mạnh mẽ, đột phá của cách mạng khoa học và công nghệ, của kinh
tế tri thức, cùng với đó là xu thế của toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và
hoà bình, hợp tác, cùng phát triển.
1.2.1 Cách mạng khoa học và công nghệ:
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể. Cuộc cách mạng ấy đã
và đang tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và quan
hệ quốc tế. Điểm nổi bật của cuộc cách mạng này là ở chỗ phát minh khoa
học ra đời chuyển hoá thành công nghệ và đưa công nghệ vào sản xuất. Hai
yếu tố này không tách rời về không gian và thời gian, ngày càng thống nhất
trong một quá trình. Khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhảy vọt, đồng thời bản thân nó ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội.
Những thành tựu khoa học và công nghệ đã góp phần vào việc phi tập
trung hoá sản xuất như các trung tâm nghiên cứu và phát triển, các nhà máy
sản xuất phụ tùng, chi tiết làm cho sản phẩm, dịch vụ cũng như những lợi thế
của quốc gia có thể thực hiện trên phạm vi toàn cầu. Khoảng cách địa lý trong
phát triển đã được thu hẹp dần. Các nhà khoa học cho rằng khoa học và công
nghệ trong thời gian tới được đặc trưng bởi ba cuộc cách mạng lớn: Cách
mạng về lượng tử, cách mạng thông tin và cách mạng sinh học.
Những tiến bộ về khoa học và công nghệ, đặc biệt về công nghệ thông
tin ngày càng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, tức là nền
kinh tế chủ yếu dựa vào khoa học và tri thức, sản phẩm làm ra có hàm lượng
trí tuệ cao.
1.2.2. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế nền kinh tế
Khái niệm này bao hàm sự gia tăng nhanh chóng hoạt động kinh tế
vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực để vươn tới quy mô toàn cầu. Toàn
cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy
các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá. Sự tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá được gọi là hội nhập; hội nhập có thể theo nhiều cấp độ và nội dung khác
nhau như hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, hội nhập văn hoá…
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, tạo ra cơ hội phát triển, nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển. Toàn cầu hoá là quá trình phổ biến trên phạm vi
toàn cầu những giá trị, hoạt động, mô hình (kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ) nhất định. Toàn cầu hoá bắt đầu từ lĩnh vực
kinh tế và cho đến nay, nội dung chủ yếu của nó vẫn là toàn cầu hoá kinh tế.
Ngày nay, bản chất khách quan của toàn cầu hoá được quy định bởi
bốn yếu tố chủ yếu là: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tác động mạnh
mẽ đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại hoá
và xã hội hoá, quốc tế hoá cao; Sự phân công lao động quốc tế tuy đã xuất
hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhưng chỉ bắt đầu phát triển cả về bề
sâu và bề rộng từ một hai thập niên gần đây và được phản ánh bởi các mối
quan hệ kinh tế quốc tế đa tầng, đa dạng, đan xen, chồng chéo và phụ thuộc
lẫn nhau; Sự phát triển mạnh mẽ và phổ biến của kinh tế thị trường làm chấm
dứt cục diện khu biệt, co cụm của nền kinh tế thế giới, làm cho sản xuất, kinh
doanh có quy mô toàn cầu; Sự hiện diện của những vấn đề toàn cầu đòi hỏi có
sự phối hợp các nguồn lực đa phương.
1.2.3 Hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn
Hiện nay thì xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn trên
toàn thế giới. Điều đó được thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất, hiện nay nhiều nước ở các khu vực khác nhau của thế giới đã
sỡ hữu vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí giết người hàng loạt với sức huỷ
diệt ghê gớm. Giả sử như nếu chiến tranh xảy ra thì không có bên thắng bên
thua mà chỉ có sự huỷ diệt toàn cầu, sự tồn tại của vũ khí giết người hàng loạt
và sức mạnh huỷ diệt khủng khiếp của nó làm cho bất cứ giới cầm quyền nào
cũng phải tính toán kỹ trong vấn đề chiến tranh và hoà bình. Điều đó có nghĩa
là cả thế giới đều có trách nhiệm trong việc ngăn ngừa chiến tranh hủy diệt
trên toàn cầu.
Thứ hai, Xu hướng đa cực hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế đang
phát triển. Quan hệ giữa các nước lớn diễn ra phức tạp, nhưng vẫn trong
khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Hợp tác, nhưng
không dẫn tới liên minh mới; đấu tranh nhưng tranh xung đột và đối đầu. Cục
diện thế giới, nhất là sau chiến tranh Irắc tiếp tục có những thay đổi quan
trọng. Mỹ tiếp tục là siêu cường duy nhất có sức mạnh vượt trội về các mặt so
với các cường quốc khác, nhưng thế của Mỹ đang suy giảm tương đối và
không phải muốn làm gì cũng được. Các cường quốc khác đang vươn lên
mạnh làm đối trọng với sức mạnh của Mỹ.
Thứ ba, sự phụ thuộc lẫn nhau, nhất là về kinh tế trong bối cảnh toàn
cầu hoá giữa các quốc gia rất sâu sắc. Hơn bao giờ hết, vấn đề lợi ích kinh tế,
tài chính có tiếng nói quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia. Đại hội lần
thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định, ngày nay các nước dành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với
việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Thứ tư, nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và các mối đe
doạ an ninh phi truyền thống hết sức bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp tác đa
phương để giải quyết. Ngày nay, dường như là hệ quả của quá trình toàn cầu
hoá, các quốc gia ngày càng chịu tác động của các vấn đề toàn cầu: khủng bố
quốc tế cùng với các vấn đề khác như tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia,
phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, thảm hoạ môi trường sinh thái. Mỗi vấn đề
có những nét đặc thù và cách thức riêng; tác động của chúng đối với mỗi quốc
gia, nhóm quốc gia là không đồng nhất, nhưng nhìn chung chúng đan xen và
tác động tiêu cực đến an ninh và phát triển của các quốc gia, đồng thời có
quan hệ mật thiết qua lại với nhau, không thể xem xét giải quyết một cách
riêng rẽ.
Thứ năm, nhu cầu của các nước muốn có hoà bình, ổn định, tăng cường
hợp tác để tập trung nguồn lực cho phát triển gia tăng; phong trào đấu tranh
của nhân dân thế giới chống chiến tranh, cường quyền, áp đặt và can thiệp,
chống chạy đua vũ trang, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển
bền vững ngày càng mạnh.
Tuy nhiên, trên thế giới còn tồn tại nhiều yếu tố căng thẳng, bất trắc và
khó lường khiến các quốc gia – dân tộc phải nâng cao cảnh giác, quan tâm
đến củng cố an ninh, quốc phòng, chống lại sự can thiệp, áp đặt từ bên ngoài.
Nổi bật có một số vấn đề
Một là, đấu tranh và cọ xát giữa các nước lớn về chiến lược và kinh tế
gia tăng, mặc dù ít khả năng đưa đến sự đỗ vỡ trong quan hệ hoặc căng thẳng
trong thời gian dài, nhưng có thể có lúc dẫn đến căng thẳng cục bộ.
Hai là, các cuộc xung đột khu vực cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
biên giới lãnh thổ, vẫn sẽ tiếp diễn. Các nước đế quốc đang và sẽ tiếp tục lợi
dụng, khai thác những mâu thuẫn đó vì lợi ích riêng của mình. Mỹ tiếp tục thi
hành chính sách bá quyền, cường quyền và là một nguyên nhân gây căng
thẳng trên thế giới.
Ba là, khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt tiếp tục
diễn biến phức tạp. Mỹ và một số nước lợi dụng vấn đề khủng bố, ngăn chặn
vũ khí huỷ diệt hàng loạt để thực hiện ý đồ riêng của mình, gây tác động tiêu
cực tới tình hình chính trị, an ninh của các quốc gia và khu vực.
Bốn là, các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, ly khai sẽ còn
diễn biến rất phức tạp và là nguyên nhân gây mất ổn định ở một số nước và
khu vực và cũng là vấn đề nổi cộm trong quan hệ giữa Mỹ, phương Tây với
các nước đang phát triển.
Chương 2: SỰ BIẾN ĐỔI CÁC XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA
THẾ GIỚI TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA TOÀN CẦU HÓA
2.1. Cơ hội và thách thức của quá trình toàn cầu hóa
2.1.1 Về cơ hội
Quá trình toàn cầu hoá về kinh tế cũng tạo ra những cơ hội cho các
nước có thể tận dụng để phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ sở bảo đảm an ninh
quốc gia. Toàn cầu hoá tạo ra cơ hội và điều kiện cho các nước đang phát
triển tiếp nhận các dòng vốn, công nghệ, mở rộng thị trường, tiếp cận kỹ năng
và kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển cao hơn. Các nền kinh tế
đang phát triển và kinh tế chuyển đổi sẽ có cơ hội để rút ngắn khoảng cách
phát triển, thông qua hội nhập quốc tế để đi tắt đón đầu và tiến tới những
bước phát triển cao hơn trên cơ sở tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài kết hợp với phát huy các nguồn lực bên trong.
2.1.2 Thách thức
Về kinh tế, do toàn cầu hoá đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa thị
trường, dỡ bỏ các biện pháp thuế quan, phi thuế quan cũng như những rào cản
thể chế khác nhau ở các nền kinh tế kém phát triển hơn, sản xuất kinh doanh
trong nước sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ hàng hoá, dịch vụ, công
nghệ, nhập khẩu, cũng như dễ bị tác động bởi các cú sốc kinh tế từ bên ngoài,
nhất là các chấn động về tài chính - tiền tệ, khủng hoảng kinh tế toàn cầu…
Về mặt xã hội, các thách thức đặt ra rất đa dạng, thể hiện qua nguy cơ
gia tăng thất nghiệp và xáo trộn công ăn việc làm của một bộ phận do chuyển
đổi kinh tế và cạnh tranh; nguy cơ suy yếu các giá trị cơ bản của cộng đồng,
nền văn hoá và bản sắc dân tộc; các vấn đề an ninh phi truyền thống gia tăng;
nguy cơ an ninh con người liên quan tới sự bảo vệ các quyền cơ bản, vấn đề
dân chủ, nhân quyền…
Về chính trị - an ninh, quá trình toàn cầu hoá đặt ra những vấn đề phải
xử lý liên quan đến độc lập, chủ quyền, sự ổn định chính trị, sự tồn tại các
thiết chế chính trị, hệ thống nhà nước và các ý thức hệ là nền tảng tư tưởng
của các quốc gia. Tính độc lập của mỗi quốc gia bị thu hẹp lại bởi sự phụ
thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các nước, sự hạn chế về thẩm quyền và
khả năng hành xử theo ý muốn riêng của mỗi nước. Toàn cầu hoá còn bị chủ
nghĩa tư bản lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ, xâm nhập và thâu
tóm đời sống kinh tế và chính trị của các dân tộc trên thế giới.
Quá trình toàn cầu hóa cũng đặt ra nhiều thách thức lớn nhưng xây
dựng nền kinh tế thị trường mở và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn phải là đòi hỏi
khách quan đối với tất cả các quốc gia muốn phát triển được. Nếu không hội
nhập được thì sẽ bị loại ra khỏi cuộc đua kinh tế toàn cầu với tất cả hậu quả
của nó. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận
dụng cơ hội của mỗi nước. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để
vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận
dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự
phát triển.
Nhận thức rõ những vấn đề đó, Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam cần chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, nêu rõ tiến trình phát triển đất
nước hội nhập kinh tế quốc tế trên các lĩnh vực khác, nêu rõ tiến trình phát
triển đất nước hội nhập kinh tế quốc tế phải giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ; hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
2.2. Sự vận động và chuyển biến các mâu thuẫn của thời đại trong
toàn cầu hóa
Đây là một vấn đề quan trọng dưới góc độ nghiên cứu quan hệ quốc tế
vì nó tác động đến cục diện thế giới và tập hợp lực lượng quốc tế. Đại hội lần
thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định, các mâu thuẫn lớn của thời
đại vẫn rất gay gắt. Các nhà nghiên cứu lý luận quan hệ quốc tế cho rằng,
trước những chuyển biến lớn lao của thế giới thời gian qua, các mâu thuẫn cơ
bản của thời đại vẫn tồn tại và có mặt sâu sắc hơn, nhưng sự vận động của các
mâu thuẫn đó có những biểu hiện khác trước về hình thức, quy mô và mức độ.
2.2.1 Sự chuyển biến của các mâu thuẫn trong quá trình toàn cầu hóa:
Các thuẫn cơ bản trong quá trình thời đại được đề cập ở đây là: Mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; mâu thuẫn giữa các nước tư
bản; mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển và các nước đế quốc, tư bản
phát triển; mâu thuẫn trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa.
Sau chiến tranh lạnh, mâu thuẫn cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản với tư cách là các hình thái chính trị - tư tưởng đối kháng vẫn
tiếp tục. Tuy nhiên, mâu thuẫn này thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà
bình” và “chống diễn biến hoà bình” và không còn là nhân tố chủ đạo chi phối
quan hệ quốc tế như trước nữa.
Ngày nay, mâu thuẫn giữa các nuớc tư bản phát triển tiếp tục nảy sinh
một cách tất yếu của quy luật tự do cạnh tranh kiểu “cá lớn nuốt cá bé” và sự
phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn vốn có về lợi ích
tiếp tục gia tăng. Cạnh tranh giữa các nước tư bản chủ nghĩa ngày nay còn thể
hiện trong việc xác lập trật tự thế giới “đơn cực” hay “đa cực”. Mâu thuẫn cả
trong lĩnh vực chính trị, địa - chiến lược, nhưng chủ yếu là cạnh tranh kinh tế,
thương mại và khoa học, kỹ thuật. Tuy nhiên, do phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng sâu sắc, các nước tư bản phát triển đều tìm cách thoả hiệp, điều tiết
những mâu thuẫn cả song phương và trong các khuôn khổ đa phương để tránh
nổ ra xung đột làm đổ vỡ mối quan hệ.
Giữa các nước đang phát triển và các nước đế quốc, tư bản phát triển
mâu thuấn tiếp tục diễn ra gay gắt. Đó không chỉ là cuộc đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, chống can thiệp vào công việc nội bộ
của các quốc gia mà còn là cuộc đấu tranh vì một trật tự kinh tế thế giới mới
bình đẳng, dân chủ và phát triển bền vững, chống khoảng cách giàu nghèo
ngày càng tăng. Tuy nhiên, do bị phân hoá, lợi ích khác nhau và phụ thuộc
vào các nước tư bản phát triển về kinh tế, các nước đang phát triển chưa tập
hợp được thành một lực lượng đáng kể chống lại các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển.
Mâu thuẫn trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa được thể hiện tập
trung qua cuộc đấu tranh chống chiến tranh, đòi dân chủ, nâng cao chất lượng
đời sống, chống thất nghiệp, tệ nạn xã hội, chống những tiêu cực của quá
trình toàn cầu hoá…Mặt khác, cũng cần thấy rằng, chủ nghĩa tư bản hiện đại
đã lợi dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, đưa ra
những điều chỉnh về kinh tế - xã hội, nhất là cải cách chế độ an sinh xã hội để
tránh bùng nổ lớn, thích ứng với tình hình mới và tiếp tục phát triển.
2.2.2 Sự phát triển của các mâu thuẫn mới trong quá trình toàn cầu
hóa
Trong bối cảnh hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng thế giới đang nổi
lên một số mâu thuẫn khác rất đáng chú ý:
Một là, mâu thuẫn lợi ích dân tộc. Thế giới hiện nay có khoảng 200
quốc gia lớn nhỏ khác nhau với lợi ích dân tộc rất đa dạng và khác nhau.
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, các nước đều đặt lợi ích dân tộc lên hàng
đầu. Do đó, việc nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước là điều không thể tránh
khỏi. Sự phát triển của các loại mâu thuẩn này làm cho quan hệ quốc tế trở
nên năng động và phức tạp hơn.
Hai là, mâu thuẫn giữa đơn phương và đa phương; mâu thuẫn giữa một
bên là các thế lực hiếu chiến, bá quyền với bên kia là các quốc gia, các lực
lượng tiến bộ, yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới.
Ba là, mâu thuẫn ngày càng nổi lên trong nội bộ từng nước và giữa các
nước với nhau, gây ra các cuộc xung đột, ly khai, khủng bố, phân rã quốc gia,
phá hoại sự ổn định của nhiều nước. Các loại hình rất đa dạng và diễn ra
không chỉ ở các nước đang phát triển. Nhiều cuộc xung đột kéo dài ảnh
hưởng tới an ninh khu vực. Một số thế lực ở các nước phương Tây thường
kích động, lợi dụng mâu thuẫn này trong các nước đang phát triển để can
thiệp hoặc gây sức ép, phục vụ cho những lợi ích riêng của họ.
Bốn là, mâu thuẫn giữa con người với thiên nhiên. Sự khai thác bừa bãi
tài nguyên thiên nhiên đã dẫn đến hậu quả lớn về môi trường. Thiên tai, dịch
bệnh đã trở thành vấn đề toàn cầu đòi hỏi sự hợp tác quốc tế và khu vực vì sự
phát triển bền vững.
Sự chuyển hoá và phát triển các mâu thuẫn đã và đang tác động mạnh
đến cục diện thế giới và sự tập hợp lực lượng quốc tế rất đa dạng, linh hoạt,
tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm cụ thể, theo sự trùng hợp lợi ích của từng
nước hoặc từng nhóm nước.
2.3 Những đối sách của Việt Nam trước toàn cầu hóa
Trong công cuộc đổi mới hiện nay Đảng ta đã xác định những phương
hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm
đạt tới mục tiêu: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là trong đó những
mục tiêu cơ bản là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng một nền kinh tế
độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế; xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thực hiện tốt các chính sách xã hội; chăm lo bồi
dưỡng con người và phát huy nhân tố con người; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội
đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đoàn kết dân tộc là động lực chủ
yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đảng ta cũng đã nhận thức đầy đủ những nguy cơ gây cản trở lớn đến
công cuộc đổi mới và quá trình toàn cầu hóa. Đó là sự tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; sự chệch hướng xã hội
chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng; nạn tham nhũng và tệ quan liêu của cán
bộ trong bộ máy quản lý; "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh chống các tiêu cực xã
hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay đã và đang diễn ra xoay quanh việc
chống lại những nguy cơ ấy.
Trong thực tiễn cách mạng nước ta, những phương hướng cơ bản trên
đây mà Đảng ta xác định đã đưa lại những thành quả to lớn: tình hình chính
trị được ổn định; an ninh quốc phòng được giữ vững; kinh tế, văn hoá, xã hội
có bước phát triển tốt, tạo thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Thực tiễn cũng cho thấy, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay đang đòi hỏi cao bản chất cách mạng và khoa học của
Đảng. Không có ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá, lập trường kiên định,
lòng trung thành vô hạn với lý tưởng, với sự nghiệp của nhân dân thì không
thể vượt qua khó khăn, thử thách trên con đường phấn đấu để đi đến mục tiêu
cách mạng. Nhưng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa còn đòi hỏi Đảng ta phải có tầm cao trí tuệ, thật sự khoa học
mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tụt hậu, không để công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi chệch hướng, không để tệ tham nhũng và các tệ nạn xã hội
khác hoành hành, không để cho các thế lực thù địch thực hiện âm mưu "diễn
biến hoà bình", bạo loạn lật đổ…
Hơn 80 năm lịch sử Đảng là bấy nhiêu năm Đảng ta không ngừng trau
dồi bản lĩnh cách mạng và trí tuệ khoa học. Đó là sự kiên định con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quyết tâm sắt đá đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, không
lung lay trước những diễn biến phức tạp trên thế giới, trước sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở nhiều nơi. Đó là sự tài tình trong việc đề ra mục tiêu đúng đắn
cho từng chặng đường, tìm ra biện pháp thích hợp để đi tới mục tiêu, luôn
luôn phát huy sức mạnh tổng hợp, đoàn kết toàn dân, huy động nỗ lực của
mọi thành viên trong xã hội, phát huy mọi nguồn lực của đất nước vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là chính sách đối ngoại đúng đắn, khôn khéo lợi dụng thời cơ mà
thời đại đã đưa đến để khai thác nguồn lực bên ngoài phục vụ đất nước, đồng
thời nắm chắc bản chất của kẻ thù, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng
đập tan âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch cũng như mọi
kiểu chiến tranh mà chúng có thể gây ra. Tất cả các vấn đề nói trên không chỉ
đòi hỏi ý chí và quyết tâm, mà còn đòi hỏi tư duy khoa học của Đảng ta. Sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thành công
nếu Đảng ta thực sự là trí tuệ, là đạo đức, là văn minh như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy.
Do vậy, chưa bao giờ công tác xây dựng Đảng về phẩm chất cách
mạng, đạo đức và năng lực trí tuệ lại được đặt ra cấp thiết như bây giờ. Đây
không phải là việc làm dễ dàng, nhưng với truyền thống cách mạng và kinh
nghiệm đã có, chắc chắn Đảng ta sẽ thực hiện tốt, đưa sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa tới thành công.
KẾT LUẬN
Trong những điều kiện lịch sử mới, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế được xem như là những yếu tố quan trọng để tạo động lực phát triển cho từng
quốc gia, khu vực cũng như yêu cầu chung của cộng đồng quốc tế. Đây là một
quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, ngày một đầy đủ và hoàn
chỉnh. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng xây dựng nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa và hiện đại hóa áp dụng những thành tựu mới của khoa học và công
nghệ hiện đại của thế giới. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, trong
những năm qua chúng ta đã có những bước phát triển vượt bậc cải thiện và nâng
cao đời sống nhân dân một cách rõ rệt. Nhưng chúng ta không thể thỏa mãn với
mức tăng trưởng như hiện nay mà còn phải phát triển hơn nữa những lợi thế sẵn
có và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài một cách hiệu quả hơn nữa nhằm đưa
nước ta nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đưa đất nước trở thành
nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đi tới mục tiêu ấy của thời đại, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn hiện
nay, nhân dân các nước càng phải ra sức cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống
các thế lực thù địch của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, luôn luôn tỉnh táo
trước âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình" của chúng hòng duy trì vĩnh
viễn sự thống trị của Chủ nghĩa tư bản trên hành tinh này. Toàn cầu hóa vừa
là cơ hội, cũng đồng thời là những thách thức đối với chính chúng ta.
Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho sự
quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bị kéo dài
thêm, song không thể đảo ngược được xu thế của thời đại. Con đường của
thời đại, con đường mà nhân loại đang đi tới chính là con đường thắng lợi của
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và Chủ nghĩa xã hội. Có nhận thức đúng và
làm rõ nội dung, tính chất của quá trình toàn cầu hóa sẽ là cơ sở quan trọng để
chúng ta hoạch định đúng đắn đường lối và sách lược. Và cũng qua đó hạn
chế những thách thức, khó khăn, tận dụng những mặt tích cực của quá trình
toàn cầu hóa để đưa đất nước ta ngày một phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Bình, Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội -2009
2. Vũ Văn Hiền, Vấn đề Thời đại, Nxb thông tấn, Hà Nội - 2007
3. Hội đồng lý luận Trung ương, Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới
đặt ra trong tình hình hiện nay - tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Hữu Tiến, Một số vấn đề về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội - 2009
5. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
6. Ngô Văn Điểm, Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia