BỘ Y TẾ
BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TRUNG ƯƠNG
–––––––––––––––––
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG DINH DƯỠNG IOD Ở
BÀ MẸ MANG THAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN
QUAN ĐẾN SỬ DỤNG MUỐI IOD
Đơn vị thực hiện: Bệnh viện Nội tiết Trung ương
HÀ NỘI, 2014
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BC
Bướu cổ
BVĐK
Bệnh viện đa khoa
BVNTTƯ
Bệnh viện Nội tiết Trung ương
CRLTI
Các rối loạn do thiếu i-ốt
CTPCCRLTI
Chương trình phòng chống các rối loạn do thiếu I-ốt
HGĐ
Hộ gia đình
ICCIDD
Ủy hội Quốc tế phòng chống các rối loạn thiếu iod
KCB
Khám chữa bệnh
MI
Muối I-ốt
PCCRLTI
Phòng chống các rối loạn do thiếu I-ốt
PCBC
Phòng chống bướu cổ
PNCT
Phụ nữ có thai
PNTSĐ
Phụ nữ tuổi sinh đẻ
PVS
Phỏng vấn sâu
SAC
School-age children (Học sinh tuổi học đường)
TCPB
Tiêu chuẩn phòng bệnh
TI
Thiếu i-ốt
UNICEF
Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, WHO/UNICEF/ ICCIDD
và nhiều nhà khoa học Y học trên thế giới kỳ vọng thiếu vi chất- đặc biệt là
thiếu iod- sẽ được thanh toán trên phạm vi toàn cầu trong một thập niên cuối
cùng của thế kỷ này và sẽ được củng cố bền vững vào thế kỷ 21.
Tuy nhiên, cho đến nay, theo báo cáo gần đây nhất của ICCIDD thì thiếu
iod vẫn đang sảy ra dai dẳng tại một số nước và vùng lãnh thổ khác nhau trên
thế giới chủ yếu tập trung ở châu Phi, châu Á, Đông Âu và một số nước đang
phát triển. Theo Michael Z (2012) thì tỷ lệ hộ gia đình sử dụng MI đủ tiêu
chuẩn phòng bệnh trên thế giới tăng từ <20% (1990) lên 70% (2010) và số
nước nằm trong tình trạng thiếu iod cho đến nay vẫn còn 32 nước trên tổng số
140 nước trên thế giới. Đặc biệt nguy cơ thiếu iod vẫn còn là vấn đề cộng
đồng ở Đông nam châu Á, Ấn Độ [21].
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh thiếu iod là nguyên nhân gây nên sự tổn
thương về phát triển não bộ của trẻ nhỏ, đặc biệt trong thời kì bào thai, tùy
từng mức độ thiếu iod sảy ra trong thời kỳ phát triển của bào thai và sau đẻ sẽ
ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của trẻ như câm-điếc, thiểu năng trí tuệ,
đần hoặc giảm sức học của trẻ. L Kristen và CS (2013) tiến hành nghiên cứu:
“ Hậu quả thiếu iod mức độ nhẹ của bà mẹ mang thai và việc suy giảm học
lực của trẻ sau 9 năm theo dõi” tại Tasmania- Australia cho thấy: nhóm trẻ
sinh ra ở các bà mẹ có mức trung vị iod niệu < 150µg/L thì giảm 10% kĩ
năng đọc (p=0.03), 7,3% học ngữ pháp (p=0.04) và 5,7% học văn (p=0,034)
so với nhóm trẻ sinh ra ở bà mẹ có mức trung vị iod niệu >150µg/L [19].
Raschida và CS (2010) tiến hành nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên có đối
chứng việc “Bổ sung iod trực tiếp cho trẻ nhỏ hoặc bổ sung gián tiếp qua
người mẹ cho con bú” tại Moroco cho thấy việc bổ sung iod trực tiếp cho trẻ
tại những vùng thiếu iod trước đây thì khả năng cải thiện tình trạng thiếu iod
không cho kết quả khả quan như bổ sung gián tiếp qua bà mẹ nuôi con bú.
Như vậy, hai nghiên cứu trên được tiến hành vào những năm đầu của thế
kỷ 21 càng minh chứng cho vai trò của iod đối với trẻ nhỏ và bà mẹ mang thai
chũng như hậu quả thiếu iod trong giai đoạn này. Chính vì vậy, ICCIDD
(2013) đã cảnh báo: Thiếu i-ốt hiện vẫn là một vấn đề toàn cầu và ảnh hưởng
đến các nước công nghiệp cũng như nhiều nước đang phát triển. Nguồn cung
cấp i-ốt ở một số nước công nghiệp hóa, bao gồm Mỹ và Úc, đã giảm trong
những năm gần đây. Thiếu i-ốt đã xuất hiện trở lại ở Úc có thể do sự cắt giảm
dư lượng i-ốt trong các sản phẩm sữa vì sử dụng Iodophors giảm của ngành
công nghiệp sữa của nước này. Tại Mỹ, mặc dù dân số nói chung được cung
câp đủ i-ốt, tuy nhiên họ vẫn không khẳng định nguồn i-ốt là đầy đủ trong thai
kỳ của toàn bộ phụ nữ, điều này đã dẫn đến các cuộc vận động rộng rãi về vấn
đề bổ sung i-ốt. Một số nghiên cứu khác cũng thấy rằng ở phụ nữ mang thai
tại Cộng hoà Ireland và Vương quốc Anh hiện đang có biểu hiện thiếu i-ốt
nhẹ, có thể là kết quả của giảm sử dụng Iodophors của ngành công nghiệp sữa
giống như đã thấy ở Úc. Đại diện cơ quan phòng chống tình trạng thiếu hụt iốt ở trẻ em và phụ nữ mang thai của Anh đang khẩn trương có những biện
pháp cần thiết đề xuất các biện pháp về chính sách y tế để đối phó với thực
trạng trên. Trong hầu hết các nước công nghiệp, chiến lược tốt nhất để kiểm
soát tình trạng thiếu i-ốt là i-ốt hoá muối cần được kiểm soát cẩn thận. Tuy
nhiên ở các nước này, do đặc thù khoảng 90% lượng tiêu thụ muối là từ thực
phẩm chế biến, các i-ốt hoá muối trong gia đình sẽ không cung cấp đủ i-ốt. Vì
vậy, để kiểm soát thành công do thiếu i-ốt ở các nước công nghiệp điều quan
trọng là ngành công nghiệp thực phẩm sử dụng muối i-ốt. Việc sử dụng muối
i-ốt còn trở nên vô cùng quan trọng khi hiện nay đang có sự khuyến cáo giảm
mức tiêu thụ muối để ngăn ngừa các bệnh mãn tính [17].
Tại Trung Quốc khu vực nông thôn của Tây Tạng đã đạt được tiến bộ
mạnh mẽ trong việc bao phủ muối i-ốt. Trong năm 2008 có 66% dân số được
tiếp cận với muối i-ốt, năm 2009 con số này đã tăng lên 80%. Trong việc tăng
cường muối i- ốt, Sở Thương mại của khu tự trị Tây Tạng cho biết họ đang
đầu tư 30.000.000 nhân dân tệ để trợ cấp cho việc sử dụng muối i-ốt, giảm giá
muối tới hai phần ba [23].
Có thể thấy rằng tình trạng thiếu hụt I-ốt vẫn còn tồn tại ở mọi nơi trên thế
giới. Với các chiến lược và biện pháp khác nhau, các quốc gia trên thế giới
vẫn đang luôn quan tâm và duy trì việc bảo đảm cung cấp i-ốt cho toàn bộ dân
số.
Năm 2013, đoàn chuyên gia cao cấp của WHO/UNICEF và ICCIDD đã
làm việc với BVNTTW và BYT về CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG
CÁC RỐI LOẠN THIẾU I-ỐT Ở VIỆT NAM: BÀI HỌC QUÁ KHỨ VÀ
KHỞI ĐỘNG LẠI CHƯƠNG TRÌNH TỐT HƠN. Bài báo đã dẫn chứng: Với
mục đích làm sáng tỏ giả thiết phải chăng các rối loạn do thiếu i-ốt trên toàn
quốc đang có dấu hiệu quay trở lại, mức độ của nó như thế nào, để từ đó xây
dựng các căn cứ cho việc thực hiện các biện pháp can thiệp nhằm duy trì bền
vững mục tiêu thanh toán các rối loạn do thiếu i-ốt đã thực hiện thành công
năm 2005. Sự tụt giảm đáng kể của mức bao phủ MI và nồng độ i-ốt niệu đã
gây ra mối quan tâm giữa các cơ quan y tế tại Việt Nam. Hiện tại có sự nhất
trí rằng chương trình PC CRLTI phải được tái xây dựng và phục hồi lại. Trên
toàn thế giới, việc i-ốt hóa muối đã chứng tỏ là một chiến lược hiệu quả để
loại bỏ CRLTI. Do đó mục tiêu của Việt Nam là phải tạo ra được một môi
trường mà việc i-ốt hóa muối là có hiệu quả và bền vững [11].
Việc sử dụng MI không đồng đều, liên tục có tác dụng không tốt đến trẻ
nhỏ và bà mẹ mang thai các nghiên cứu toàn cầu đã chứng minh thiếu iod tác
động rất mạnh đến trẻ nhũ nhi, đặc biệt trong thời ký bào thai.
Vì đối tượng sớm chịu tác động là trẻ nhỏ- đặc biệt những thương tổn do
thiếu iod sảy ra trong thời kỳ mang thai sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
trí tuệ của trẻ nên chúng tôi xây dựng đề tài: “ Nghiên cứu thực trạng dinh
dưỡng iod ở bà mẹ mang thai và một số yếu tố liên quan sử dụng muối iod”
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Xác định mức nồng độ i-ốt niệu của bà mẹ mang thai.
2. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành sử dụng muối i-ốt của bà mẹ mang
thai và một số yếu tố liên quan đến sử dụng muối iod
3. Đề xuất các giải pháp phòng chống các rối loạn thiếu iốt phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay.
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Vai trò của i-ốt và các rối loạn do thiếu i-ốt
1.1.1. Nguồn gốc, nguyên nhân thiếu i-ốt, vai trò của i-ốt đối với cơ thể
1.1.1.1. Nguồn gốc và nguyên nhân thiếu i-ốt
I-ốt là một vi chất dinh dưỡng có trong tự nhiên, nằm ở bề mặt vỏ trái
đất, theo quy luật tự nhiên các hiện tượng tự nhiên mưa lũ, băng hà, rửa trôi
cuốn các chất ở bề mặt trái đất, trong đó có i-ốt cuốn theo các dòng sông, suối
cuốn ra biển, vì thế biển là nơi dự trữ chủ yếu i-ốt của trái đất [3], [12].
I-ốt trong nước biển dưới tác dụng của năng lượng mặt trời bị bay hơi
theo gió vào đất liền, cùng với mưa bổ sung i-ốt cho đất. Theo chu trình tự
nhiên, hàng năm có khoảng 400.000 tấn i-ốt bổ sung cho đất. Nhưng vì nước
mưa lại theo các sông suối mang theo i-ốt chảy ra biển nên quá trình mất i-ốt
trong đất diễn ra liên tục và vĩnh viễn, đặc biệt ở các vùng đồi núi, đồng bằng
phù sa, các vùng hay bị ngập lũ . Khi đất trồng bị thiếu i-ốt, các loài thực vật
sống trên vùng thiếu i-ốt cũng bị thiếu i-ốt. Theo chuỗi và lưới thức ăn con
người, động vật sử dụng các thực phẩm nghèo i-ốt cũng sẽ dẫn đến bị thiếu iốt [3].
1.1.1.2. Vai trò của i-ốt đối với cơ thể
* Hấp thu và chuyển hóa i-ốt trong cơ thể
I-ốt theo thức ăn vào ống tiêu hóa và được hấp thu ở ruột non theo cơ
chế vận chuyển tích cực thứ phát cùng với Na+ vào máu, đến tuyến giáp và
được tế bào tuyến giáp bắt giữ vận chuyển vào lũng nang tuyến theo cơ chế
vận chuyển tích cực nhờ bơm i-ốt. Tuyến giáp là nơi dự trữ i-ốt chủ yếu
(khoảng 80%, tương đương 15 - 20mg i-ốt) của cơ thể. I-ốt được gắn vào các
nhánh Tyrozin nằm trên phân tử Thyroglobulin (Tg), nguồn dự trữ i-ốt của
tuyến giáp đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu của cơ thể trong 2 - 3 tháng.
Kho dự trữ này luôn được bổ sung, đổi mới. Hàng ngày một người bình
thường hấp thu khoảng 100 µg i-ốt từ thức ăn vào tuyến giáp và tuyến giáp
cũng sản xuất và bài tiết vào máu 100 µg i-ốt dưới dạng hormon tuyến giáp.
Sau khi phát huy tác dụng sinh học, i-ốt liên kết hữu cơ bị khử phát sinh
khoảng 100µg i-ốt vô cơ dưới dạng iodua, một phần được tuyến giáp bắt
trở lại để tái tổng hợp nên hormon, một phần được đào thải ra ngoài theo
nước tiểu [3].
Sơ đồ 1.1. Quá trình chuyển hóa i-ốt
I-ốt thức ăn
I-ốt ngoài tuyến giáp
I-ốt trong tuyến giáp
I-ốt liên kết
(T3, T4, MIT, DIT, rT3)
I-ốt tự do
I-ốt nước tiểu
Để tổng hợp ra hormone tuyến giáp T3 và T4, cần phải có hai thành
phần là i-ốt lấy từ môi trường ngoài cơ thể và acid amin tyrosin do cơ thể tự
tổng hợp. Thông qua hormone tuyến giáp, i-ốt đảm nhiệm nhiều chức năng
quan trọng của cơ thể như quá trình phát triển và biệt hóa của não, chuyển hóa
và sự phát triển bình thường của cơ thể .
* Vai trò của i-ốt đối với cơ thể
Tác dụng quan trọng nhất của hormone giáp là ở thời kỳ bào thai và trẻ
nhỏ. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ bào thai, hormone giáp từ mẹ sang con có
vai trò quan trọng trong việc phát triển, trưởng thành của bào thai, hệ dưới đồi
- yên - giáp của thai. Quan trọng nhất từ quý thứ 2 của thời kỳ mang thai đến
3 tuổi sau đẻ. Hormone giáp cần thiết nhất cho sự phát triển của não. Do vậy,
ở vùng bướu cổ địa phương do thiếu i-ốt, nồng độ hormone giáp thấp, càn trở
sự phát triển của não nên đứa trẻ có thể bị thiểu năng trí tuệ. Hormone giáp
của thai nhi chỉ bắt đầu sản xuất sau khi tuyến giáp được cấu tạo và trưởng
thành cùng với trục dưới đồi-yên- giáp. Giảm T4 trong máu xuất hiện sớm ở
thời kỳ bào thai dẫn tới chậm trưởng thành đầu xương bào thai cho tới khi ra
đời. Sự phát triển chiều cao, cân nặng ảnh hưởng ít ở thời kỳ bào thai, nhưng
ngay trong tháng đầu sau đẻ sẽ bị ảnh hưởng rõ rệt [25].
Thiếu i-ốt trong thời kỳ bào thai và trẻ nhỏ là vấn đề cực kỳ quan
trọng, người ta phát hiện rằng ở vùng thiếu i-ốt nặng số trẻ sơ sinh nghi bị
thiểu năng giáp (TSH ≥50µU/ml ) tỷ lệ nghịch với nồng độ i-ốt niệu
( F.Delange1989). Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị thiểu năng giáp ở vùng thiểu i-ốt nặng
là 11% so với 0,025% ở các nước không bị thiếu i-ốt. Thể bệnh thiểu năng
giáp thoáng qua cũng tăng khiến người ta cho rằng chính thể bệnh này gây
chậm phát triển trí tuệ ở vùng thiếu i-ốt.
Trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ sự phát triển cơ thể nhanh, chuyển hóa ở tất
cả các khâu đều mạnh, độ tập trung i-ốt cao nhất ở năm đầu sau đó giảm dần
đến năm 20 tuổi, dự trữ i-ốt tăng dần theo tuổi, chuyển hóa hormone mạnh ở
lứa tuổi đang phát triển, sau đó giảm dần đến ổn định ở tuổi trưởng thành.
1.1.1.3. Nhu cầu i-ốt của cơ thể
Theo kết quả nghiên cứu về khẩu phần ăn của Cơ quan thực phẩm và
dược phẩm Hoa Kỳ (US Food and Drug Administrations) công bố năm 1991,
nhu cầu i-ốt của cơ thể thông qua khẩu phần ăn là 180µg i-ốt/ngày/người. Tuy
nhiên nhu cầu i-ốt thay đổi theo từng lứa tuổi, giai đoạn phát triển, của con
người [26].
Theo hướng dẫn cho chương trình quản lý đánh giá và giám sát CRLTI
của WHO, UNICEF, ICCIDD năm 2007 khuyến cáo về lượng i-ốt nên cung
cấp hàng ngày với các lứa tuổi khác nhau như sau:
Bảng 1.2: Nhu cầu i-ốt hàng ngày đối với cơ thể theo WHO, UNICEF,
ICCIDD năm 2007[26]
Đối tượng
0- 59 tháng
6 – 12 tuổi
Thanh thiếu niên (trên 12 tuổi) và
người trưởng thành
Phụ nữ có thai và cho con bú
Nhu cầu (µg/người/ngày )
90
120
150
250
Nhìn chung nhu cầu i-ốt được coi là tối ưu đối với người trưởng thành
là 150-200µg/ngày. Vì khó xác định khẩu phần i-ốt trong thực phẩm, người
ta dùng phương pháp định lượng i-ốt nước tiểu để đánh giá tình trạng thu
nhập i-ốt của cơ thể.Theo những nghiên cứu sinh lý học, lượng i-ốt thải ra
nước tiểu hàng ngày tương đương với lượng i-ốt thu nhập từ khẩu phần ăn.
Do đó trong thực hành, các tổ chức quốc tế (WHO, UNICEF, ICCIDD...) đề
nghị một người được coi là thiếu i-ốt khi mức i-ốt niệu thải ra nước tiểu <100
µg/ngày hay < 100 µg/lít [26].
1.1.1.4. Các rối loạn thiếu i-ốt (tác hại do thiếu i-ốt )
Khái niệm "Các rối loạn thiếu i-ốt" do B.Hetzet đề xướng năm 1983
nói lên hậu quả của thiếu i-ốt không chỉ gây bướu cổ (BC), còn gây nhiều hậu
quả đặc biệt ở bào thai và trẻ nhỏ, làm chậm sự phát triển trí tuệ ở trẻ em [15].
Thiếu hụt i-ốt được coi là một vấn đề sức khỏe cộng đồng của toàn cầu.
Vì vậy ngày nay các nhà khoa học, các nhà quản lý và các chính trị gia trên
thế giới rất quan tâm giải quyết. Sự thiếu hụt i-ốt trong khẩu phần ăn hàng
ngày là nguyên nhân chính dẫn đến CRLTI. Các RLTI bao gồm:
* Bệnh bướu cổ:
Bướu cổ là tình trạng phì đại của tuyến giáp, một phản ứng thích nghi
của tuyến giáp trước nhiều yếu tố khác nhau, trong đó chủ yếu là thiếu i-ốt ở
tuyến giáp. Bướu cổ là một biểu hiện dễ thấy nhất trong CRLTI, hậu quả của
sự tăng kích thích tuyến giáp dưới tác động của hoc môn TSH để gia tăng khả
năng thu nhận i-ốt trong điều kiện nguồn i-ốt bị thiếu hụt [15], [19].
Tuyến giáp là một tuyến lớn nhất trong cơ thể, nằm trước sụn giáp.
Trọng lượng tuyến giáp lớn dần theo lứa tuổi, ở người trưởng thành nó nặng
khoảng 20 - 25g. Bình thường tuyến giáp bị các cơ ở vùng cổ che khuất,
không sờ nắn thấy. Chỉ khi tuyến giáp to lên có thể sờ nắn hoặc nhìn thấy thì
được gọi là BC [4].
Bệnh BC lưu hành là bệnh rất phổ biến gặp ở nhiều vùng dân cư rộng
lớn và có nhiều người mắc. Theo WHO thì vùng nào có từ 10% dân số trở
lên hoặc từ 5% trẻ em từ 6- 12 tuổi bị mắc BC gọi là vùng BC lưu hành, liên
quan chủ yếu tới tình trạng thiếu i-ốt ở môi trường sống và cơ thể con người.
Bệnh BC lưu hành ở địa phương không phải là hậu quả nặng nề của việc thiếu
i-ốt nhưng nó lại là hậu quả rất phổ biến và thường được dùng như là một chỉ
số đánh giá tình trạng thiếu i-ốt [22].
* Các rối loạn khác do thiếu hụt i-ốt:
Những tiến bộ của khoa học đã chứng minh thiếu i-ốt ngoài gây bệnh
BC lưu hành mà còn gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe
con người, đặc biệt ở giai đoạn bào thai và trẻ nhỏ, nó ảnh hưởng đến sự phát
triển của não bộ làm chậm sự phát triển trí tuệ ở trẻ em và gây nên đần độn.
Đây chính là các tổn thương nghiêm trọng nhất không có khả năng phục hồi
do thiếu hụt i-ốt gây nên, tuy nhiên nó lại là một trong những nguyên nhân có
thể phòng ngừa được bằng cách bổ sung i-ốt vào trog khẩu phần ăn [26].
CRLTI được WHO/ICCIDD sắp xếp theo thứ tự mức độ từ nhẹ đến
nặng như sau: Bệnh BC, thiểu năng trí tuệ, khuyết tật nghe, nói, lác mắt, đảo
tròng mắt, co cứng tròng mắt, co cứng ngoại tháp, yếu thần kinh cơ, bệnh đần
độn, thai chết lưu, sảy thai, đẻ non [13]. Các biểu hiện của CRLTI có thể tóm
tắt ở bảng 1.3 dưới đây [12], [24].
Bảng 1.3: Hậu quả của CRLTI
Thời kỳ
Biểu hiện của CRLTI
- Sẩy thai
- Thai chết lưu
- Bất thường bẩm sinh
- Tăng tử vong chu sinh
- Tăng tử vong ở trẻ nhỏ ( Increased Infant
Thai nhi
Mortality)
- Đần thần kinh
- Giảm trí tuệ, điếc bẩm sinh
- Liệt cứng, lác mắt
- Đần thần kinh: Đần độn, điếc bẩm sinh,
liệt cứng, lác mắt
Trẻ sơ sinh
Thiểu năng giáp sơ sinh
Trẻ em và vị thành niên
Chậm phát triển tinh thần, thể chất
Người lớn
- Bướu cổ và các biến chứng
- Cường giáp do i-ốt
Tất cả các lứa tuổi
- Bướu cổ
- Suy giáp
- Chậm phát triển tinh thần
- Tăng nhạy cảm với bức xạ nguyên tử
Nguồn số liệu: Assessment of iodine deficiency disordors 1994
Đần độn
Phần nổi
1 - 10%
Bướu cổ
5 - 30%
Phần
chìm
30 - 70%
Giảm khả năng lao động
do thiểu năng giáp
Biểu đồ 1.1. Tảng băng IDD
Biểu hiện tình trạng thiếu i-ốt ở cộng đồng được xem như một "tảng
băng", phần nổi có thể nhìn thấy được là bướu cổ và đần độn chiếm khoảng 1
- 30%. Phần chìm của tảng băng mà ta không nhìn thấy được chiếm 70% là
những tổn thương não nhẹ, giảm khả năng lao động do thiểu năng giáp. Đây
chính là những thương tổn làm ảnh hưởng đến khả năng học tập của trẻ em,
trẻ có thể bị lưu ban đôi khi 2, 3 năm một lớp hoặc mất khả năng học tập, lao
động [22].
1.1.1.5. Tiêu chuẩn phân loại mức độ thiếu hụt i-ốt
Trước đây người ta thường xem các yếu tố địa lý như vùng núi cao,
vùng cách xa biển như là những tiêu chí xác định các vùng thiếu hụt i-ốt. Tỷ
lệ hiện mắc BC cao của cộng đồng cũng được sử dụng để đánh giá tình trạng
thiếu hụt i-ốt. Tuy nhiên hiện nay việc sử dụng nồng độ i-ốt niệu cũng như
các phương pháp khác để đánh giá tình trạng thiếu hụt i-ốt cho thấy CRLTI có
thể và đã xảy ra ở cả những vùng mà tỷ lệ BC thấp và không phải là một vấn
đề sức khỏe, ở cả những vùng ven biển, các thành phố lớn, các nước đang
phát triển và ở cả những nơi mà CRLTI được xem như đã bị loại trừ [26].
Để đánh giá tình trạng thiếu hụt i-ốt, WHO, UNICEF, ICCIDD đã dựa
trên 2 chỉ số: tỷ lệ bướu cổ và mức i-ốt niệu trung vị.
Năm 2007 WHO, UNICEF, ICCIDD đã đưa ra các tiêu chí để đánh giá
dịch tễ học dinh dưỡng i-ốt dựa trên nồng độ i-ốt niệu trung vị của trẻ em lứa
tuổi học đường và của phụ nữ mang thai như sau [26], [27]:
Bảng 1.5: Các chỉ số đánh giá mức độ thiếu i-ốt dựa trên i-ốt niệu trung vị
của trẻ em lứa tuổi học đường [26]
Mức I-ốt niệu
trung vị (µg/l)
< 20
20 - 49
50 - 99
100 – 199
200 – 299
Lượng i-ốt
Tình trạng i-ốt
Không đủ
Không đủ
Không đủ
Đầy đủ
Thiếu nặng
Thiều trung bình
Thiếu nhẹ
Đủ lượng i-ốt cần thiết
Phù hợp với PNCT và đang cho con
bú (vượt quá mức cần thiết đối với
quần thể)
Trên mức cần thiết
≥ 300
Vượt quá cao mức
cần thiết
Nguy cơ, hậu quả xấu với sức khỏe
(cường giáp, bệnh tuyến giáp tự miễn)
Bảng 1.6: Các chỉ số đánh giá mức độ thiếu i-ốt dựa trên i-ốt niệu trung vị
của phụ nữ mang thai [25].
Đối tượng
Phụ nữ có thai
Nồng độ I-ốt niệu
trung vị (µg/l)
< 150
150 - 249
250 - 499
≥ 500
Lượng i-ốt
Không đủ
Đầy đủ
Trên mức cần thiết
Vượt quá cao mức cần thiết
1.2. Tình hình thiếu i-ốt trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
Qua hơn hai thế kỷ kể từ khi Courois (1813) phát hiện ra i-ốt và được
Boussingult (1833) đề xướng dùng MI để phòng bệnh bướu cổ ở Nam Mỹ,
nhưng theo ICCIDD hiện nay trên thế giới CRLTI vẫn còn là mối đe dọa tiềm
ẩn.
Liên Hiệp Quốc đã coi thiếu i-ốt là một dạng thiếu vi chất dinh dưỡng một nạn đói tiềm ẩn trên thế giới và kêu gọi các nước cần phải thanh toán vào
năm 2005 [15].
Bảng 1.7 Tỷ lệ dân số thiếu hụt i-ốt và số HGĐ sử dụng MI từ năm 1994 đến
năm 2006 tại các vùng của WHO [27]
Khu vực
Châu Phi
Châu Mỹ
Đông Nam Á
Châu Âu
Đông Địa Trung Hải
Tây Thái Bình Dương
Tổng số
Tình trạng thiếu hụt i-ốt
Tỷ lệ %
Số người (triệu)
41.5
312.9
11.0
98.6
30.0
503.6
52.0
459.7
47.2
259.3
21.2
374.7
30.6
1900.9
Tỷ lệ hộ gia đình
sử dụng MI (%)
66.6
86.8
61.0
49.2
47.3
89.5
70
Theo công bố của WHO/UNICEF/ICCIDD về tình hình dân số thiếu
hụt i-ốt trong quần thể và số HGĐ sử dụng MI ở các vùng trong khoảng thời
gian từ năm 1994 đến năm 2006 cho thấy tỷ lệ HGĐ sử dụng MI đạt TCPB ở
Châu Âu và Đông Địa Trung Hải rất thấp. Trong khi đó khu vực Đông Nam
Á và Châu Phi tỷ lệ này cũng khá thấp so với yêu cầu.
Nghiên cứu của Enkeleda Kadiu và cộng sự xác định nồng độ i-ốt trong muối
của 1027 HGĐ ở Albania năm 2014 cho thấy tỷ lệ hộ gia đình sử dụng MI đạt
TCPB là 60,4% [14].
1.2.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam năm 1993, điều tra Quốc gia đầu tiên được tiến hành, kết
quả cho thấy 94% dân số có nguy cơ bị thiếu i-ốt, tỷ lệ bướu cổ trẻ em lứa
tuổi 8 - 12 tuổi là 22,4%, mức i-ốt niệu trung vị chỉ đạt 32 µg/l. Tại các tỉnh
như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ mức i-ốt niệu trung vị đạt < 20 µg/l [2].
Biểu đồ 2.1: I-ốt niệu của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi
(Nguồn: báo cáo hoạt động PCRLTHI tại Việt Nam, BVNTTW, 07/2012)
Năm 2000 tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8 – 10 tuổi giảm xuống còn 10,1%. Tỷ
lệ bướu cổ cao nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long là 14,1%, các vùng
khác tỷ lệ bướu cổ xấp xỉ 10%. Năm 2003 tỷ lệ này là 6,0% và đến năm 2005
chỉ còn 3,6%. Đến năm 2005, xét trên bình diện toàn quốc Việt Nam đã thanh
toán được các rối loạn do thiếu i-ốt [1].
Từ năm 2006, Nhà nước chủ trương đưa dự án phòng chống BC thành
hoạt động thường xuyên của ngành Y tế. Kết quả sau 3 năm kết thúc chương
trình PCCRLTI, theo điều tra toàn quốc năm 2008 của BVNTTƯ cho thấy
mức i-ốt niệu trung vị trên toàn quốc chỉ đạt 83 µg/l (dưới khoảng an toàn cần
có), độ bao phủ MI đủ TCPB năm 2008 chỉ đạt 70% trong đó thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh đạt rất thấp tương ứng là 26% và 54% [4].
Một điều tra khác cho thấy chưa đến một nửa dân số Việt Nam hiện đang
được dùng MI đủ TCPB, năm 2011 tỷ lệ HGĐ tiêu thụ MI đủ TCPB xuống
còn 45,1% [10].
Biểu đồ 2.2: Tiêu thụ muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh của các hộ gia đình qua
các năm [28]
Ba nghiên cứu thực hiện đo nồng độ i-ốt niệu của PNCT được thực
hiện từ năm 2008 đến năm 2010 tại một tỉnh Miền Bắc, một số tỉnh Miền
Nam và thành phố Hồ Chí Minh cho kết quả đều chỉ ra rằng mức i-ốt niệu
trung vị của PNCT trong nghiên cứu thấp hơn rất nhiều so với mức tối ưu
trong đó đạt mức cao nhất là tỉnh Hà Nam (71µg/l), thấp nhất là thành phố Hồ
Chí Minh (51,5µg/l). Ngoài ra có 83%, 70%, 78% phụ nữ ở tỉnh Hà Nam, tỉnh
Đồng Tháp và các tỉnh miền Nam lần lượt cho kết quả có nồng độ i-ốt thấp
hơn mức tối thiểu được đề nghị 150 µg/l [11].
Như vậy sau 10 năm kết thúc chương trình PCCRLTI, có thể thấy nguy
cơ thiếu hụt i-ốt tại Việt Nam đang có xu hướng quay trở lại trong những năm
gần đây.
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các bà mẹ đang mang thai đến khám thai tại BVĐK tỉnh
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
Thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8 đến tháng 10 năm
2014
Địa điểm: Khoa Sản BVĐK tỉnh Yên Bái và Vĩnh Phúc
2.3. Thiết kế nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, cắt ngang có phân tích
- Nghiên cứu này của chúng tôi tiến hành thu thập và phân tích số liệu
định lượng, sau đó viết báo cáo kết quả.
Bước 1: Thu thập thông tin định lượng bằng cách phỏng vấn những
PNCT để trả lời câu hỏi về kiến thức, thái độ, thực trạng sử dụng MI tại gia
đình.
Bước 2: Lấy mẫu nước tiểu của các PNCT đã phỏng vấn trên để làm
xét nghiệm định lượng mức I-ốt niệu trung vị.
Bước 3: Phiên giải kết quả và viết báo cáo.
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
2.4.1 Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
Z21-α/2. p(1- p)
n =
d2
Z (1-α/2) = 1,96
(Khoảng tin cậy 95%)
p = 0,44 ( Tỷ lệ phụ nữ có thai thiếu iod NC năm 2008-BVNTTW)
d = 0,05 (Độ chính xác mong muốn)
Thay các giá trị trên ta tính được cỡ mẫu n = 379. Dự đoán 10% đối
tượng từ chối tham gia nghiên cứu ta tính được cỡ mẫu n = 420 người
2.4.2. Phương pháp chọn mẫu
- Số sản phụ đến khám thai tại BVĐK tỉnh Yên Bái và Vĩnh Phúc trong
thời gian nghiên cứu được lựa chọn lần lượt theo thứ tự đến khám đủ số mẫu
cần thiết là 184 đối tượng
- Không phân biệt tuổi thai và lần mang thai.
- Số sản phụ loại trừ: Những trường hợp mắc các bệnh cấp cứu, những
trường hợp mắc bệnh tăng năng giáp, những trường hợp không hợp tác.
2.5. Các chỉ số điều tra và phương pháp thu thập số liệu:
2.5.1. Mức i-ốt niệu:
Tình trạng thu nhập i-ốt của các bà mẹ được phản ánh qua kết quả định
lượng hàm lượng i-ốt niệu của từng đối tượng và trung vị i-ốt niệu. Trong
nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp A cải tiến.
2.5.2. Kiến thức, thái độ và thực hành của người mẹ mang thai.
Phỏng vấn toàn bộ đối tượng của người mẹ mang thai tham gia nghiên
cứu bằng bộ câu hỏi định lượng để đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành
về PCCRLTI. Bộ câu hỏi phỏng vấn bệnh nhân bao gồm 4 phần:
- Phần 1: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu.
- Phần 2: Kiến thức về PCCRLTI
- Phần 3: Thái độ của PCCRLTI
- Phần 4: Thực hành TTĐT THA.
2.5.3. Đối tượng thu thập số liệu:
- Để đảm bảo cho số liệu chính xác và khách quan của thông tin thu
được, người thu thập số liệu sẽ phối hợp CB Phòng CĐT và cán bộ khoa
Khám bệnh hoặc Khoa sản. Trước khi thu thập số liệu các điều tra viên
(ĐTV) sẽ được tập huấn về công cụ và cách thức thu thập số liệu. Tiến hành
thu thập số liệu ngay tại các Khoa hoặc một địa điểm khác trong bệnh viện mà
bệnh nhân cảm thấy thỏa mái nhất với lý do:
+ Các PNCT đến khám thai định kỳ để quản lý thai nghén, không đến
chữa bệnh nên việc phỏng vấn tại viện sẽ thuận lợi và dễ dàng do không có
các vấn đề tâm lý và áp lực với CBYT.
2.6. Các biến số nghiên cứu
STT
Biến số
Định nghĩa
biến số
THÔNG TIN CHUNG ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Gồm 6 ký tự: mã câu hỏi (2 ký
Mã số đối tượng
1
tự), số thứ tự của PNCT đến
nghiên cứu (ĐTNC)
khám.
Là họ và tên của PNCT đến
2
Tên ĐTNC
viện
Là số tháng mang thai của
5
Tuổi thai
ĐTNC tính đến thời điểm
phỏng vấn
Là mang thai thứ bao nhiêu
6
Lần mang thai
của ĐTNC
Tính theo năm sinh của ĐTNC
7
Tuổi ĐTNC
đến thời điểm điều tra (năm
dương lịch)
Nghề nghiệp hiện
Công việc hàng ngày tạo ra
8
tại
thu nhập chính của ĐTNC
Bằng cấp cao nhất từ thời
9
Trình độ học vấn
điểm hiên tại của ĐTNC đạt
được tại thời điểm phỏng vấn
Là thành phần dân tộc của
10 Dân tộc
ĐTNC
Theo định nghĩa và phân loại
11 Độ bướu cổ
của WHO
Là lượng i-ốt có trong nước
tiểu được tính bằng µg/l được
12 Nồng độ i-ốt niệu
xét nghiệm bằng phương pháp
A động học xúc tác
KIẾN THỨC VỀ PCCRLTI
Biết về tác hại của Trả lời có hoặc không biết
13
thiếu i-ốt
Các tác hại của Trả lời về các tác hại của thiếu
14
thiếu i-ốt
i-ốt
Biết về lợi ích của Trả lời biết hoặc không biết
15
muối i-ốt
16 Các lợi ích của Trả lời về các lợi ích của muối
Phân loại
Phương pháp
thu thập
Danh mục
Dựa vào danh
sách khám
Danh mục
Phỏng vấn
Rời rạc
Phỏng vấn
Phân loại
Phỏng vấn
Rời rạc
Phỏng vấn
Danh mục
Phỏng vấn
Thứ bậc
Phỏng vấn
Danh mục
Phỏng vấn
Thứ bậc
Siêu âm
Liên tục
Xét nghiệm
Nhị phân
Phỏng vấn
Danh mục
Phỏng vấn
Nhị phân
Phỏng vấn
Danh mục
Phỏng vấn
muối i-ốt
17
Nguồn thông tin
được cung cấp về sử
dụng muối i-ốt
18
Nguồn thông
mong đợi
tin
i-ốt
Ai, phương tiện nào đã cung
cấp thông tin, kiến thức về lợi
ích của việc dùng muối i-ốt và
tác hại của thiếu i-ốt
Ai, phương tiện nào đã cung
cấp thông tin, kiến thức mà
ĐTNC mong đợi
Trả lời có hoặc không
Phân loại
Phỏng vấn
Phân loại
Phỏng vấn
Biết về các quy định
của nhà nước, chính
19
Nhị phân
phủ về buôn bán
muối
Quy định về buôn Các quy định mà ĐTNC trả
20
Danh mục
bán muối
lời
THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG CHỐNG CRLTI VÀ SỬ DỤNG MUỐI I-ỐT
Thái độ của ĐTNC theo thang
Thái độ của ĐTNC
điểm Likert được tính theo 5
về sự cần thiết của
21
mức độ từ rất đồng ý đến rất Thứ bậc
việc phòng bệnh
không đồng ý về sự cần thiết
CRLTI
của việc phòng bệnh CRLTI
Thái độ của ĐTNC theo thang
Thái độ của đối điểm Likert được tính theo 5
22 tượng về sử dụng mức độ từ rất ủng hộ đến rất Thứ bậc
muối i-ốt
không ủng hộ về việc sử dụng
muối i-ốt
THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG MUỐI I-ỐT
Dùng muối để nấu
Trả lời có hoặc không dùng
23
Nhị phân
ăn
muối để nấu ăn
Loại muối thường
Là loại muối được bán trên thị
24
Phân loại
chọn mua
trường.
Là nơi ĐTNC thường mua
25 Nơi mua muối
Phân loại
muối nhất
Loại muối được
Là loại muối ĐTNC sử dụng
26
Nhị phân
đóng gói
có được đóng gói hay không
Nhãn mác của loại
Có nhãn hiệu loại muối i-ôt
27
Nhị phân
muối sử dụng
đang sử dụng hay không
Tần suất ĐTNC
Là tần suất gia đình ĐTNC
28
Phân loại
mua muối
mua muối để sử dụng
Trọng lượng muối
Là trọng lượng muối mà gia
29
Phân loại
mỗi lần mua
đình ĐTNC mua mỗi lần
Lý do dùng muối i- Là các lý do mà ĐTNC trả lời
30 ốt hoặc không dùng dùng hoặc không dùng hoặc Danh mục
muối i-ốt
dùng cả 2 loại muối
Ý định chọn muối i- Là lý do sẽ chọn mua muối i31
Phân loại
ốt để dùng
ốt để sử dụng
Có sử dụng bột canh Trả lời có hoặc không dùng
32
Nhị phân
để ăn
bột canh để ăn
33 Loại bột canh
Là loại bột canh có hoặc Phân loại
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
Phỏng vấn
không có i-ốt mà ĐTNC
thường sử dụng
Tần suất ĐTNC
Là tần suất gia đình ĐTNC
mua bột canh
mua bột canh để sử dụng
Tên loại bột canh
Là tên loại bột canh ĐTNC
thường dùng
thường sử dụng
Lý do dùng bột canh Là các lý do mà ĐTNC trả lời
có i-ốt hoặc không
dùng hoặc không dùng hoặc
có i-ốt
dùng cả 2 loại bột canh
Tiền sử sử dụng
Là năm bắt đầu sử dụng muối
muối i-ốt
i-ốt
Tiền sử về quá trình mang thai
Tiền sử sản khoa
trước đó đã từng bị sảy thay,
đẻ non, thai chết lưu chưa
thường sử dụng
34
35
36
37
38
Phân loại
Phỏng vấn
Danh mục
Phỏng vấn
Danh mục
Phỏng vấn
Nhị phân
Phỏng vấn
Nhị phân
Phỏng vấn
2.7. Tiêu chuẩn đánh giá mức i-ốt niệu trung vị, kiến thức, thái độ, thực hành
về PCCRLTI.
2.7.1. Các chỉ số đánh giá mức độ thiếu i-ốt dựa trên i-ốt niệu trung vị của phụ
nữ mang thai [47], [50]
Đối tượng
Phụ nữ có thai
Nồng độ I-ốt niệu
trung vị (µg/l)
< 150
150 - 249
250 - 499
≥ 500
Lượng i-ốt
Không đủ
Đầy đủ
Trên mức cần thiết
Vượt quá cao mức cần thiết
2.7.2. Quy định về mức độ hiểu biết của đối tượng nghiên cứu
- Hiểu biết đầy đủ: trả lời đúng tất cả các câu hỏi về CRLTI.
- Hiểu biết một phần: trả lời đúng ít nhất 1 câu hỏi về CRLTI trở lên.
- Không biết: trả lời không đúng bất kỳ câu hỏi nào hoặc trả lời không
biết.
2.7.3. Quy định đánh giá thái độ của đối tượng nghiên cứu
Sử dụng thang điểm Likert Scale.
2.7.4. Quy định đánh giá sử dụng và bảo quản MI
2.8. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
- Chuẩn bị: Kiểm tra lại toàn bộ các phiếu điều tra thu thập được ngay
trong ngày, loại trừ các phiếu không đủ thông tin.
- Bước 1 Nhập liệu: Toàn bộ số liệu thu thập được nhập vào máy tính
với phần mềm Epi Data 3.1. Số liệu được nhập 2 lần bằng 2 người nhập khác
nhau nhằm tránh sai số trong quá trình nhập.
- Bước 2 Làm sạch số liệu: Sau khi hoàn tất nhập liệu, các số liệu được
làm sạch và hiệu chỉnh các sai sót trong quá trình nhập liệu.
- Bước 3 Xử lý và phân tích số liệu: Các số liệu sau khi thu thập được
tổng hợp và phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quả được chia ra thành
2 phần:
+ Phần thống kê mô tả: Lập bảng phân bố tần số của các biến.
+ Phần thống kê phân tích: Xác định mối liên quan giữa thực hành sử
dụng MI với tuổi, dân tộc, trình độ văn hóa, kiến thức PCCRLTI... của đối
tượng; mối liên quan giữa mức i-ốt niệu trung vị và kiến thức, thực hành đạt
PCCRLTI bằng kiểm định Khi bình phương (χ2), p và tỷ số chênh (OR) để
xác định mối liên quan. Dựa vào kết quả phân tích đơn biến, sau đó đưa các
biến có mối liên quan vào mô hình hồi qui tuyến tính đa biến để kiểm soát các
yếu tố nhiễu.
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu được giải thích về mục đích và nội dung của
nghiên cứu trước khi tiến hành phỏng vấn và chỉ tiến hành khi có sự chấp
nhận hợp tác tham gia của đối tượng nghiên cứu.
- Mọi thông tin cá nhân về đối tượng nghiên cứu được giữ kín. Các số
liệu, thông tin thu thập được chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, không
phục vụ cho mục đích nào khác.
- Nghiên cứu không tiến hành bất cứ can thiệp nào gây ảnh hưởng xấu
tới sức khỏe, uy tín, danh dự của ĐTNC, BVĐK tỉnh và của hệ thống y tế của
địa phương.
- Nghiên cứu chỉ được tiến hành sau khi được Hội đồng đạo đức của
Họi đồng đạo đức Y khoa BVNTTW thông qua.
- Nội dung nghiên cứu phù hợp, được Ban giám đốc BVĐK tỉnh cho
phép.
- Kết quả nghiên cứu được phản hồi và báo cáo cho Bộ Y tế và các tổ
chức quốc tế khi kết thúc nghiên cứu để có các giải pháp can thiệp phù hợp.
2.10. Hạn chế của nghiên cứu
* Hạn chế:
- Việc thu thập thông tin qua bộ câu hỏi có thể gặp sai số nhớ lại hoặc
thái độ hợp tác của BN khi tham gia nghiên cứu.
- Nghiên cứu này là nghiên cứu mô tả cắt ngang tại một thời điểm được
thực hiện tại một cơ sở khám chữa bệnh nên kết quả không phản ánh được
toàn bộ các đối tượng trên địa bàn rộng.
- Quy mô của đề tài nhỏ do hạn chế về kinh phí nên một số vấn đề
nghiên cứu chưa triển khai được.
* Cách khắc phục:
- Tập huấn cho điều tra viên cẩn thận trước khi tiến hành thu thập số
liệu.
- Hướng dẫn cẩn thận và đầy đủ về cách phỏng vấn, nói cho đối tượng
nghiên cứu hiểu về mục đích sử dụng thông tin là để nghiên cứu, tham khảo
và tư vấn cho ngành y tế tỉnh về việc quan tâm hơn nữa đến các hoạt động
PCCRLTI
- Giám sát viên có mặt thường xuyên ở các khoa để giám sát hỗ trợ
điều tra viên. Các phiếu điều tra được nhóm nghiên cứu kiểm tra ngay sau khi
hoàn thành phỏng vấn và thu thập số liệu, với những phiếu thông tin thu thập
chưa đầy đủ hoặc không hợp lý phải được yêu cầu điều tra viên bổ sung ngay
trước khi nộp lại cho giám sát viên.
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Nhóm tuổi
Dân tộc
Nhóm tuổi thai
Nghề nghiệp
Trình độ học
vấn
< 30 tuổi
30 – 39 tuổi
Min = 17
Max = 44
Kinh
Khác
< 3 tháng
3 - dưới 6 tháng
6 – 9 tháng
Làm ruộng
Công nhân
Nội trợ
Học sinh, sinh viên
Nhân viên doanh nghiệp
Cán bộ nhà nước
Khác
Chưa tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
Tốt nghiệp trung cấp, cao
đẳng, đại học hoặc cao
hơn
Tần số
287
121
2
1
338
79
127
106
184
113
44
60
Tỷ lệ (%)
68,8%
29,0%
0,5%
0,2%
81,1%
18,9 %
30,5%
25,4%
44,1%
27,1%
10,6%
14,4%
5
21
119
55
2
20
91
142
162
1,2%
5,0%
28,5%
13,2%
0,5%
4,8%
21,8%
34,1%
38,8%
Nhận xét: Nghiên cứu tiến hành ở phụ nữ mang thai đến khám tại Khoa
Sản bệnh viện Tỉnh với độ tuổi từ 17-44 tuổi. Tuổi thai phân bố tương đối
đồng đều và bà mẹ có trình độ học vấn tương đối cao
II.Mức trung vị iod niệu
Bảng 3.2: Mức trung vị i-ốt niệu của đối tượng nghiên cứu
Các giá trị
Mức trung vị i-ốt niệu µg/L
Trung vị
Trung bình
Tối đa
Tối thiểu
64
86,82
575
2
Nhận xét: Mức trung vị iod niệu chung của đối tượng nghiên cứu 64 mcg/L
(n=282), nhìn chung kết quả này cho thấy mức trung vị iod niệu của các bà
mẹ mang thai thấp so với khuyến cáo của ICCIDD.
Bảng 3.3: Mức trung vị i-ốt niệu của đối tượng nghiên cứu theo phân bố theo
mức độ
Mức trung vị i-ốt niệu
(µg/l)
<25
25- <150
>150 - 249
250 - 499
≥ 500
Tổng
Tần số
Tỷ lệ (%)
74
282
41
19
1
417
17,7
67,6
9,8
4,6
0,2
100
Nhận xét: Chỉ có 9.8% phụ nữ mang thai có mức trung vị iod niệu nằm trong
giới hạn đủ iod theo khuyến cáo của ICCIDD. Mức trung vị iod niệu thấp <25
mcg/l chiếm tỷ lệ khá cao đến 17,7%
Bảng 3.4: Mức trung vị i-ốt niệu phân bố theo địa điểm nghiên cứu
Yên Bái
Vĩnh Phúc
Mức trung vị iod niệu
(µg/l)
Tần số
Tỷ lệ (%)
Tần số
Tỷ lệ (%)
<25
48
17,0
26
19,3
25- <150
187
66,3
95
70,4
>150 - 249
29
10,3
12
8,9
250 - 499
17
6,0
2
1,5
≥ 500
1
0,4
0
0
Tổng
282
100%
135
100%
Nhận xét: Không có sự khác biệt giữa các mức độ trung vị iod niệu giữa hai
tỉnh Vĩnh Phúc và Yên Bái.
III. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về sử dụng muối iod
Biểu đồ 3.1: Hiểu biết của các bà mẹ về tác hại của thiếu i-ốt
Nhận xét: 96% các bà mẹ mang thai hiểu biết về thiếu iod gây bệnh bướu cổ.
Tuy nhiên hiểu biết về thiếu iod ảnh hưởng đến phát triển trí tuệ của trẻ rất
thấp chiếm 12%, tỷ lệ hiểu biết về sảy thai đẻ non của thiếu iod rất thấp
chiếm 1% số bà mẹ được hỏi.
Bảng 3.5. Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đầy đủ về tác hại thiếu iod