Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………….………….1
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Lý do chọn đề tài……………………………………………….…………1
Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………..3
Mục đích nghiên cứu…………………………….……………….……….8
Giới hạn nghiên cứu………………………………………………………8
Phương pháp nghiên cứu……………………………………….....………9
Cấu trúc của khóa luận…………………………………………...…….…9
CHƯƠNG 1. KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHỐI HỢP LÝ
THUYẾT THỐNG DIỄN HỌC VÀ THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC
TÁC PHẨM VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC CỦA NGUYỄN ĐÌNH
CHIỂU………………………………..……………………………………….10
1.
Thông diễn học - khoa học giải thích các loại hình văn bản…..….…10
1.1 Nguồn gốc và sự phát triển………………………...…………..………..10
1.1.1 Thông diễn học ở Phương Tây………………………………...………...10
1.1.2 Thông diễn học ở Phương Đông………...……………………….…...…11
1.2 Định nghĩa thông diễn học………………………………………......…..13
1.3 Từ quy luật thông diễn thực dụng…………………………………..…...14
1.3.1 Phân biệt giữa thông diễn (Auslegung) và gán nghĩa (Sinngebung)…....14
1.3.2 Ý nghĩa của bản văn hay câu nói luôn nằm trong văn cảnh (Context)
hay trong cái toàn thể, mà chỉ và ở trong đó mỗi câu nói mới có thể hiểu
được…………………………………………………………………………… 15
1.3.3 Tính chất sống động (Aktualitaet) của ý nghĩa từ vị thế của người
thông diễn………………………………………………………………………15
1.4 …đến áp dụng khoa học thông diễn tìm hiểu văn bản văn chương……..16
2.
Thi pháp học - khoa học phân tích văn bản nghệ thuật……...17
2.1 Thi pháp...........……………….…………………………….………….…17
2.2 Thi pháp học và đối tượng của thi pháp học……….….…………...…….19
3.
Việc vận dụng phối hợp thông diễn học và thi pháp học trong dạy
học tác phẩm văn chương………………………………………….…………20
4. Khảo sát thực trạng dạy học tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
trong nhà trường phổ thông………………………………………….……..….24
4.1
Đối tượng và phạm vi khảo sát……………………...…………….……24
4.2
Kết quả khảo sát……………………………………….……………..…24
4.3
Phân tích kết quả khảo sát…………….………...………………………26
1
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
CHƯƠNG 2. DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
TRÊN CƠ SỞ PHỐI HỢP LÝ THUYẾT THÔNG DIỄN HỌC VÀ THI
PHÁP HỌC……………………………………………………………………29
1.
Những yêu cầu có tính nguyên tắc khi dạy học tác phẩm “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”………………………………….………… ……………29
1.1
Yêu cầu chung khi giảng dạy tác phẩm văn học trung đại trong
nhà trường phổ thông…………………………….……………………….……29
1.2
Đảm bảo nguyên tắc tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong
nhà trường phổ thông…………………………………………………………..30
1.3 Đảm bảo nguyên tắc dạy học lấy học sinh làm trung tâm…………..…..33
2.
Dạy học “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” từ góc nhìn thông diễn học…35
2.1 Thông diễn một số vấn đề của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để tạo
tiền đề tiếp nhận tác phẩm………………………..………….…………….…..35
2.1.1 Hoàn cảnh lịch sử ra đời tác phẩm…………………….……..……...…..35
2.1.2 Về tác gia Nguyễn Đình Chiểu……………………………..…….….….36
2.2 Các phương pháp, biện pháp hướng dẫn học sinh thông diễn tác phẩm...37
2.2.1 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bối cảnh ra đời của tác phẩm theo
hướng dạy học tích hợp…………………………………………………….….37
2.2.2
Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm tạo hứng thú để tiếp nhận văn
bản………………………………………………………….………………..…39
2.2.3
Phối hợp các biện pháp chú giải, vấn- đáp…để giải thích từ ngữ,
câu khó, điển tích, điển cố trong tác phẩm………………………………….….41
3.Dạy học tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” từ góc nhìn thi pháp
học………………………………………………………...……..……………..45
3.1
Những đặc trưng thi pháp cần chú ý trong tác phẩm “Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc”……………………… …………………………………….……45
3.1.1
Thể loại văn tế………………………………..………….………..…..45
3.1.2
Quan niệm về con người…………………………………..………….46
3.1.3
Ngôn ngữ……………………………….…………………..……...….50
3.2 Các phương pháp, biện pháp để tìm hiểu những đặc trưng thi pháp
trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”………………… …...……….…52
3.2.1
Vận dụng biện pháp so sánh để hướng dẫn học sinh phân tích
những độc đáo về mặt thể loại……………………………………………..…..52
3.2.2
Sử dụng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh phân tích chi tiết
để khám phá chiều sâu nghệ thuật của tác phẩm…………….………….……..55
3.2.3
Vận dụng phối hợp các biện pháp bình, giảng để khái quát ý nghĩa
của tác phẩm sau khi phân tích chi tiết………………………….…….……….59
2
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM DẠY HỌC VĂN TẾ
NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC TỪ CƠ SỞ PHỐI HỢP THÔNG DIỄN HỌC VÀ
THI PHÁP HỌC…………………………………………………..……….…62
1.
2.
3.
Thiết kế giáo án dạy học “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”……..…..………62
Thuyết minh giáo án thực nghiệm……………………………..…..……82
Thực nghiệm sư phạm…………..……………………………...…..……83
KẾT LUẬN…………………………………………………………..………..85
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………....……87
DANH MỤC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV:
Giáo viên
HS:
Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
SGV:
Sách giáo viên
NXB: Nhà xuất bản
3
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực khác
nhau: một bức tranh mang đến cho người thưởng thức những chiêm nghiệm về
cuộc sống, một tác phẩm điêu khắc phản ánh một khía cạnh của văn hóa hay
một bản nhạc mang đến cho con người ta những giây phút tĩnh tại, sâu lắng của
tâm hồn… Đặc biệt không thể không kể đến những sản phẩm của văn học với
vần thơ mang hơi thở cuộc sống, những áng văn xuôi đậm chất tình, chất người
và chất đời. Văn học là một bộ phận quan trọng của văn nghệ, bắt nguồn từ đời
sống, phản ánh đời sống. Mỗi tác phẩm văn chương được coi là một hệ thống
cấu trúc mở, “điểm dừng” trong vấn đề hiểu nó là “không giới hạn”. Vì vậy,
việc hiểu được ngọn nguồn “hang cùng ngõ hẹp” một tác phẩm văn học là điều
không thể. Ở mỗi độc giả tùy thuộc vào tầm đón nhận mà có những cách hiểu
khác nhau. Mang những đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ, môn Văn không chỉ
được quan tâm dưới góc độ nghệ thuật mà hơn hết nó còn được thể hiện ở tính
khoa học. Là một môn học chính xuyên suốt chương trình phổ thông cơ sở nên:
Dạy như thế nào? Học như thế nào? Bằng cách nào có thể hiểu được? là những
câu hỏi được đặt ra bởi khá nhiều những người làm công tác giảng dạy. Đặc biệt
là việc giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại cho thế hệ học sinh hiện nay,
do sự cách biệt khá lớn về văn hóa, về hoàn cảnh sống...dẫn đến hiện tượng học
sinh chán học, không thích học các tác phẩm đó. Hoặc giả có học thì đại đa số
4
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
học sinh không thẩm thấu được hết cái hay, cái đẹp của các văn bản, tác phẩm
cổ. Bài dự thi học sinh giỏi của học sinh Nguyễn Phi Thanh trường THPT Việt
Đức, Hà Nội khiến không ít những người quan tâm khỏi suy nghĩ. Với đề bài là:
“Giới thiệu về vẻ đẹp của tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì em học sinh
này đã trả lời bằng một ý kiến chủ quan, thiếu hiểu biết: “Em không thích tác
phẩm này vì nó quá cứng nhắc, khó hiểu. Em đọc xong mà không hề thấy có
chút xúc động hay xót thương, như vậy là lỗi tại em hay tại nhà văn này không
truyền tải được đến người đọc?”, “em không chỉ ra được cái đẹp, cái hay của
tác phẩm bởi em không thấy nó hay, không thấy nó đẹp”. Điều đáng buồn là có
rất nhiều học sinh có chung cảm nhận như vậy và khi bài viết của học sinh này
được chia sẻ thì đã có khá nhiều ý kiến ủng hộ. Do vậy, chúng tôi thiết nghĩ
hướng tiếp cận phối hợp thông diễn học và thi pháp học để tìm hiểu tác phẩm là
một phương pháp để giải mã một cách khá toàn diện, giúp xóa mờ khoảng cách
thời đại giữa học sinh với tác phẩm - tác giả.
Lý do thứ hai khiến chúng tôi chọn đề tài này là tác giả Nguyễn Đình
Chiểu và tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà
yêu nước vĩ đại, một nhà nho khí tiết và là một nhà thơ giàu tài năng. Tập hợp
các tác phẩm của ông như những trang sử vừa hào hùng, vừa oanh liệt nhưng
thấm đẫm nước mắt, chan chứa tình thương. Nói như Hà Huy Giáp thì “Nguyễn
Đình Chiểu, nhà thơ lớn yêu nước, chống xâm lăng, một tâm hồn vằng vặc nhân
nghĩa, một tấm gương kiên trung, bất khuất”[13, 65]. Đã có khá nhiều các bài
viết, những công trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm của ông.
Tuy nhiên, những sự quan tâm dường như vẫn là “hữu hạn” đối với “một tầm tư
tưởng vô hạn” nơi cụ đồ Chiểu. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu một
cách đầy đủ và hệ thống về “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn ít.
Bên cạnh đó, như chúng ta đã biết, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chiếm
một vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Nhưng vấn đề giảng dạy và
học tập tác giả Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
5
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
vẫn còn nhiều điểm cần phải suy nghĩ. Một tác phẩm đã từng làm sống dậy
những bước đường thăng trầm của một thời đại. Những dòng chữ đã từng để lại
dư âm, dư cảm trong lòng bao thế hệ. Nhưng cho đến nay, khoảng cách về văn
hóa, về lối sống dường như đã làm cho độc giả nói chung và bạn đọc học sinh
nói riêng chưa hiểu một cách trọn vẹn, sâu sắc ý nghĩa của tác phẩm. Đã từng có
học sinh phủ nhận giá trị của tác phẩm được coi là “một trong những bài văn
hay nhất trong văn học Việt Nam” (Hoài Thanh).
Để tránh hiện tượng giáo viên ngại giảng, học sinh sợ học, sợ thi, đặc biệt
là “hiểu lầm” tác phẩm thì cần phải có phương pháp để giảng dạy tác phẩm này
hiệu quả. Nói như vậy không có nghĩa là “đơn giản hóa” tác phẩm mà phải đặt
nó trong một hệ thống - thông diễn các yếu tố trong hệ thống và những vấn đề
liên quan cũng như luận giải những đặc trưng thi pháp để hiểu tác phẩm một
cách trọn vẹn nhất có thể. Điều này vừa không làm cho tác phẩm “xa lạ” vừa
giúp cho học sinh hiểu được tác phẩm một cách khái quát nhất “chất sống” của
nó.
Với những lý do như vậy, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Vận dụng
phối hợp lý thuyết thông diễn học và thi pháp học vào dạy học tác phẩm Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.
2.1
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các công trình nghiên cứu tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc”
Ngay từ khi ra đời, các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đã chiếm được
lòng yêu thích, ngưỡng mộ của độc giả. Việc nghiên cứu để đưa ra những
phương pháp tối ưu trong dạy học tác phẩm văn chương không phải là điều mới
mẻ. Nghiên cứu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu nói chung cũng như “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc” nói riêng đã xuất hiện trên “bàn tròn văn học” từ rất sớm
và không thể liệt kê một hay hai bài viết mà đó là một con số không thể đếm.
Các bài viết đầu tiền về Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu của các tác giả ngoài
nước. Năm 1887, E.Bajot đã dịch tác phẩm “Lục Vân Tiên” ra tiếng Pháp và có
6
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
chuyên luận khảo cứu về tác phẩm này. Sau đó, xuất hiện hàng loạt các bài viết
về “Lục Vân Tiên” của hàng loạt các học giả như G.Aubaret, A.Mickls,
G.Codier…Họ viết về một con người được coi là “bậc văn nhân tài hoa đất
Việt”.
Năm 1938, sau 50 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, tác giả Phan
Văn Hùm là người Việt Nam đầu tiên cho ra đời chuyên luận “Nỗi lòng Đồ
Chiểu”. Đây được coi là một dấu mốc trên con đường nghiên cứu tác giả
Nguyễn Đình Chiểu từ góc độ khoa học văn học. Không chỉ quan tâm đến “Lục
Vân Tiên”, Phan Văn Hùm đã dành sự chú ý của mình đến các tác phẩm khác
của cụ Đồ Chiểu như “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” nhưng mới chỉ “mon men” ở vỉa tầng bên ngoài mà chưa thật sự đi sâu
một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng.
25 năm sau, năm 1963, trong dịp kỉ niệm 75 năm ngày mất Nguyễn Đình
Chiểu, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định vị trí quan trọng của Nguyễn
Đình Chiểu với bài báo “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của
dân tộc”. Trong bài viết, thủ tướng đã khẳng định: “Cuộc đời và thơ văn của
Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ hi sinh phấn đấu vì một nghĩa lớn. Thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm
và tôi tớ của chúng…”. Đặc biệt, trong bài báo, thủ tướng đã có những lời ca
ngợi giá trị bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như “…thơ văn yêu nước Nguyễn
Đình Chiểu, một phần lớn là những bài văn tế, ca ngợi những người anh hùng
suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã tận trung với
dân. Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung, của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật
sống động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa
quân, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành
người anh hùng cứu nước…” [3, 27].
Tiếp theo phải kể đến tác giả Mai Quốc Liên, người đã có công trình
nghiên cứu về “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Mai Quốc Liên đánh giá rất cao
tác phẩm này, là “khúc ca về người anh hùng nông dân cứu nước…áng văn là
7
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
đỉnh cao, là tiêu biểu cho sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”. Ông đã đặt
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” trong hàng ngũ những áng văn yêu nước bất hủ
của dân tộc như Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo… Và đặc biệt ông đã
khẳng định: “Qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc lần đầu tiên trong văn học
xuất hiện vô cùng sinh động và chân thực hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân”.
Cũng trong năm 1963, trong diễn văn đọc trong lễ kỉ niệm 75 năm ngày
mất Nguyễn Đình Chiểu, Hoài Thanh với bài viết: Nguyễn Đình Chiểu, một nhà
thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam đã
nhận xét: “…những người dân đen đã tự mình vùng dậy và họ lại là những
người đầu tiên được Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong một bài văn hay vào bậc
nhất trong văn học Việt Nam: bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử văn học Việt Nam chúng ta được nghe một lời ca như vậy, một
lời ca chan chứa tình anh em ruột thịt và lòng kính phục vô biên đối với những
người nông dân nghèo khổ” [13, 117].
Đến tuần báo văn nghệ ngày 30/6/1972, Nhà phê bình văn học Hoài
Thanh lại có bài viết: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc một trong những bài văn hay
nhất của chúng ta. Tác giả bài viết đã nén hàm lượng ý nghĩa tối đa trong số
lượng ngôn ngữ tối thiểu. Bên cạnh việc khẳng định giá trị, vẻ đẹp, tác giả lại
một lần nữa khẳng định: “Trước đó chưa bao giờ có và sau đó đến mấy chục
năm cũng chưa hề có trong văn thơ ta một cái nhìn yêu thương, kính phục như
vậy đối với người nông dân” [28, 455].
Ngoài ra cũng phải kể đến bài viết của tác giả Đỗ Văn Hỷ: Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc qua ý thơ Miên Thẩm và Mai Am.
2.2
Các công trình nghiên cứu phương pháp giảng dạy và học tập
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Với Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm có lẽ là người đầu tiên
khẳng định Nguyễn Đình Chiểu là một tác gia văn học lớn. Ông cho rằng tác
phẩm “Lục Vân Tiên” là “áng văn hay trong nền quốc văn ta” và được chọn lọc
ở năm thứ nhì ban trung học Đông Pháp. Cùng với đó nhà giáo Lê Thước cũng
8
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
dành sự ưu ái khi giảng “Lục Vân Tiên” ở nhà trường trung học thời Pháp thuộc
trước cách mạng.
Giáo sư trường quốc học Huế, Hà Như Chi trong cuốn Việt Nam thi văn
giảng luận (1951), đã xem Nguyễn Đình Chiểu như một tác gia tiêu biểu của
văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX. Những kiến thức về cuộc đời, con người
cũng như sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu được biên soạn một cách
khá kĩ lưỡng, đầy đủ. Đặc biệt, ngoài việc giảng dạy truyện thơ (Lục Vân Tiên),
các tác phẩm khác thuộc thể loại văn tế cũng được quan tâm.
Nhà nghiên cứu Đào Nguyên Tụ trong bài viết của mình đã đưa đến cho
chúng ta một cái nhìn toàn diện về “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”: “Nguyễn Đình
Chiểu đã bày tỏ nỗi tiếc thương vô hạn đối với những nghĩa sĩ nông dân đã bỏ
mình vì nước, đề cao tấm gương chiến đấu hi sinh anh dũng của họ để động
viên lòng yêu nước căm thù giặc, ý chí kiên quyết chống thực dân Pháp xâm
lược của nhân dân ta thời đó” [28, 606]. Và tác giả đã phân tích bài “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc” dựa trên kết cấu bốn phần: lung khởi, thích thực, ai vãn và
kết.
Trong sách Giảng văn văn học Việt Nam và Giảng văn chọn lọc văn học
Việt Nam, hai tác giả Ngô Đức Quyền và Nguyễn Quốc Túy đã có chung một
cách nhìn nhận cho rằng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trở thành bất tử là nhờ
có giá trị nghệ thuật đặc sắc.
Trong cuốn Phân tích tác phẩm Ngữ văn 11 do tác giả Trần Nho Thìn chủ
biên đã tìm hiểu về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong “Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc” dựa trên việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng: “toàn bộ hình tượng
người nông dân nghĩa sĩ và cả bài văn tế được triển khai trên một loạt những
cặp đối lập. Khai thác đặc điểm đối lập này sẽ thấy được tài năng nghệ thuật
của tác giả” [29, 29].
Có thể nói rằng, những tấm lòng tri ân của thế hệ con cháu không chỉ
dừng lại ở các bài chuyên luận, bài nghiên cứu mà lan tỏa đến rất nhiều các nhà
giáo trong nhà trường với lòng nhiệt huyết luôn tìm tòi con đường đưa học sinh
9
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
đến với văn chương Nguyễn Đình Chiểu một cách hiệu quả nhất. Tiêu biểu là
các nhà giáo: Nguyễn Đình Chú, Lê Trí Viễn, Nguyễn Trung Hiếu, Trần Đình
Sử…Đặc biệt là nhà giáo Nguyễn Đình Chú đã có nhiều đóng góp thiết thực, có
giá trị trong việc hướng dẫn tiếp cận tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
trong cuốn Tài liệu bồi dưỡng giáo viên (1991).
Tác giả Phạm Thị Thu Hương trong cuốn Thiết kế bài học Ngữ văn 11 tập
1 (Phan Trọng Luận chủ biên) đã đưa ra cách tiếp cận đối với tác phẩm “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Phó giáo sư đã phân tích tác phẩm dựa trên hai phương
diện:
(1) Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân.
(2) Tiếng khóc cho những người nông dân nghĩa sĩ, cho thời đại đau
thương quật khởi [19].
Liên quan đến vấn đề giảng dạy, tác giả Nguyễn Xuân Lạc trong cuốn
Đọc-hiểu và vận dụng ngữ văn 11 đã đưa ra quan điểm tiếp cận tác phẩm trên ba
vấn đề:
(1) Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân (qua phần lung khởi và phần
thích thực).
(2) Tiếng khóc cao cả, thiêng liêng của Nguyễn Đình Chiểu (qua toàn
bài, chủ yếu ở phần Ai vãn và phần kết).
(3) Bút pháp hiện thực- trữ tình và một quan điểm mĩ học mới mẻ [17,65]
Đặc biệt, không thể không kể đến bài viết Định hướng tổ chức dạy học
văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của tác giả Nguyễn Ái Học (Phương pháp tư duy hệ
thống). Tác giả đã đưa ra cách tiếp cận tác phẩm một cách khá cụ thể, chi tiết
với 5 bước dạy học cơ bản:
(1) Phân tích hoàn cảnh ra đời của bài văn tế.
(2) Hướng dẫn đọc diễn cảm bài văn tế.
(3) Định hướng học sinh nêu cảm tưởng, nhận xét chung.
(4) Hướng dẫn phân tích chi tiết.
(5) Hướng dẫn học sinh khái quát ý nghĩa của bài văn tế sau khi phân
tích chi tiết [12, 60].
Ngoài ra, đã có những luận văn thạc sĩ về việc dạy học tác phẩm “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc” trong thời gian gần đây. Tác giả Phạm Thị Mai Hương với
10
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
đề tài: “Con đường hướng dẫn học sinh khám phá, chiễm lĩnh chiều sâu nghệ
thuật tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- Nguyễn Đình Chiểu để nâng cao
hiệu quả dạy và học” đã đưa ra cách tiếp cận tác phầm từ chiều sâu nghệ thuật
của bài văn tế. Và luận văn: “Tiếp cận hệ thống theo hướng văn hóa trong dạy
học tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu (Ngữ
văn 11- tập 1)”- 2010 của tác giả Lại Thị Thương cung cấp một hướng đi khá
mới mẻ đối với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc khi đặt tác phẩm dưới cái nhìn văn
hóa để phân tích, lí giải.
Có thể nói rằng, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu khá
phong phú và đa dạng nhưng kết quả nghiên cứu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
còn khá ít, chưa thật sự tương xứng với giá trị của nó.
3
Mục đích nghiên cứu:
Với mục đích nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học tác gia văn học nói
chung và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nói riêng, bài viết tập trung giải
quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu lý thuyết thông diễn học và thi pháp học và việc kết
hợp thông diễn học và thi pháp học.
Tìm hiểu thực trạng giảng dạy và học tập tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc ở nhà trường phổ thông hiện nay.
Tổ chức cho học sinh tiếp cận tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
trên cơ sở phối hợp lý thuyết thông diễn học và thi pháp học.
Thiết kế giáo án thử nghiệm dạy học tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc trên cở sở phối hợp lý thuyết thông diễn học và thi pháp học.
4
Giới hạn nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những công trình nghiên cứu đi
trước về Nguyễn Đình Chiểu, về phương pháp dạy học tác phẩm của Nguyễn
Đình Chiểu, trong đề tài này, chúng tôi tập trung vào tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc thuộc chương trình lớp 11, tập 1.
5
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài này, chúng tôi sử dụng một số biện pháp nghiên cứu
sau:
-
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
11
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
Phương pháp điều tra
Phương pháp xử lí thông tin
Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích.
6
Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết, khóa luận gồm có ba chương:
Chương 1: Khoa học của việc vận dụng phối hợp lý thuyết thông diễn và
thi pháp học vào dạy học tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu
Chương 2: Dạy học tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc từ cơ sở phối
hợp lý thuyết thông diễn học và thi pháp học.
Chương 3: Thiết kế và thực nghiệm dạy học Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc từ
cơ sở phối hợp thông diễn học và thi pháp học
CHƯƠNG 1
KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHỐI HỢP LÝ THUYẾT
THÔNG DIỄN HỌC VÀ THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC TÁC PHẨM
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
1.
Thông diễn học- khoa học giải thích các loại hình văn bản.
1.1 Nguồn gốc và sự phát triển
Thông diễn học (Hermeneutics) được coi là một môn học, một phương
pháp, một nền triết học xuất hiện từ rất sớm nhưng đến nay nó vẫn còn những
điều mới mẻ để chúng ta khám phá, đồng thời là một công cụ để khám phá các
12
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
sự vật hiện tượng. Tại Trung Quốc, thông diễn học được dùng thay thế bằng
thuật ngữ thuyên thích học. Thuật ngữ này được dịch sang Hoa ngữ nhờ Giáo sư
Thầm Thanh Tòng của Đại học Quốc gia Chính trị vào cuối thập niên 1970s và
đến năm 1990s, thuật ngữ này mới được giới học giả Trung Quốc chấp nhận.
Chữ thuyên bao gồm hai chữ: ngôn và toàn, muốn nói lên sự diễn tả toàn thể nội
dung của ngôn ngữ. Còn chữ thích có thể mang nghĩa là giãi bày hoặc thích hợp.
Thuật ngữ này có thể coi là đầy đủ hơn so với những thuật ngữ thường thấy khác
như giải thích học, chú giải học. Tuy vậy, “thuyên thích học vẫn chưa hoàn toàn
diễn tả được tính chất hội thông và nhất là tính chất sáng tạo của văn bản”
[2, 2]. Thuật ngữ thông diễn được giới học giả Việt sử dụng vào đầu thập niên
1970, được ghép từ hai từ “thông ngôn” và “diễn dịch”
Thông diễn học ra đời từ khi xuất hiện ngôn ngữ (cụ thể là ngôn từ và
ngôn tự). Thông diễn học giúp con người hiểu nhau qua ngôn từ, qua hành động,
và nhất là qua văn bản (ngôn tự) từng được truyền lại.
1.1.1 Thông diễn học ở phương Tây
Thông diễn học có quá trình hình thành phát triển khá dài và phức tạp với
sự khởi nguyên là một môn học về ngôn ngữ, là “một nghệ thuật khiến ta nhìn
thấy cái bất khả kiến (invisible), nhận ra được cái bất khả thấu (imperceivable),
hiểu được điều bất khả thông (incommunicable) và lý giải được điều bất khả lý
hội (incomprehensible)” trong nền triết học và văn học Hi Lạp.
Trong lịch sử văn học phương Tây, thông diễn học được xem là một công
cụ để giải thích Kinh Thánh, mang những thông điệp của Chúa đến với các con
chiên. Và như vậy, thông diễn học thực chất tồn tại như là môn Giải thích học.
Không chỉ là công cụ để giải thích Kinh Thánh, đến đầu thế kỉ 19, nhà thần học
Friedrich Daniel Ernst Schleiermacher (1768-1834) đã phát triển Giải thích học
rộng ra thành một môn khoa học để hiểu Thánh Kinh, pháp luật và lịch sử.
Tiếp theo đó, nhà sử học và triết học Wilhehm Dilthey (1833-1911) đã áp
dụng phương pháp thông diễn trong các lĩnh vực của khoa học xã hội nhân văn
và đặc biệt là “phát triển thông diễn học thành một kỹ thuật cao đẳng để hiểu
13
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
con người và lịch sử”. Kĩ thuật mà ông cho là đạt tới “sự hiểu biết” phải tồn tại
ba khả năng: (1) “giúp chúng ta thảo luận về ngôn ngữ dùng trong văn bản (ngữ
vựng, văn phạm), (2) giúp ta có thể giải thích một cách dễ dàng nền văn chương
Thánh Kinh,(3) hướng dẫn ta có một phán đoán chín chắn áp dụng vào luật học
và phán đoán đạo đức” [2, 2].
Sự phát triển của thông diễn học mạnh nhất là giai đoạn thế kỉ 20 với rất
nhiều các triết gia nổi tiếng và những nhà thần học vĩ đại như: Martin Heiegger
(1889-1976), Hans-Georg Gadamer (1900-2002), Paul Ricoeur (1913-),
Rudolph Bultmann (1884-), Karl Barth (1886-1968)…Lúc này, thông diễn học
không chỉ bao gồm môn Giải thích học mà nó còn bao quát ba nghệ thuật: nghệ
thuật Diễn giải hay giải thích (ars exphanandi), nghệ thuật Diễn nghĩa hay giải
nghĩa (ars explicandi), nghệ thuật Chuyển nghĩa hay Thuyên thích (ars
interpretandi)”.
1.1.2 Thông diễn học ở phương Đông
Ở Trung Hoa, thông diễn học đã từng xuất hiện từ rất sớm, dưới hình thức
của môn giải thích, giải nghĩa, giải tự, triết tự và chú thích. Từ những đại nho
gia như Mạnh Tử (371-289 TCN), Tuân Tử (298-238 TCN), Trình Hạo (10321085), Trình Di (1033-1107), Chu Hy (1130-1200)…đến những đạo gia như
Hoài Nam Tử (ch. 122 TCN), Vương Bật (226-249) đều sử dụng môn giải thích
học để diễn giải tư tưởng của tiền nhân cũng như trình bày quan điểm của họ.
Đặc biệt, sự phát triển của Phật giáo với những nét đặc thù cũng nhờ áp
dụng phương pháp giải thích học một cách khoa học, hợp lý của các đại sư hay
thiền phái như: Huyền Tăng (Huyền Trang)-(439-507), trường phái Thiền Đài
tông và trường phái Hoa Nghiêm tông…
Tại Việt Nam, môn giải thích học đã được áp dụng nhưng còn ở mức đơn
giản, thô sơ. Từ thời vua Trần Nhân Tông, môn giải thích học được sử dụng để
diễn giải, truyền bá Kinh Phật dưới dạng đã được Việt hóa.
14
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
Sau này vào thời nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784), môn giải thích
học đã phát triển khá tinh vi, “dịch lý được coi như là cái luật (logic) căn bản để
giải thích mọi biến hóa và mọi mâu thuẫn”.
Vào đầu thập niên 70, môn thông diễn học ở trạng thái giải thích căn bản
đã được áp dụng khá triệt để với nhiều giáo sư triết học, thần học, tôn giáo học
như Giáo sư Kim Định (1915-1997), Giáo sư tiến sĩ Lê Tôn Nghiêm, Giáo sư
tiến sĩ Hoàng Sĩ Quý, Giáo sự Lê Mạnh Thác, Giáo sư Thân Văn Tường, Giáo
sư Bùi Văn Đọc… “Tuy áp dụng thông diễn học, các tác giả trên vẫn chưa hẳn
phân biệt một cách rõ ràng giữa thông diễn và giải thích, giữa giải thích và giải
nghĩa. Đa số còn hiểu giải nghĩa, giải thích như là chú thích, hay chú giải”[2,6].
Đặc biệt, phải kể đến Giáo sư Cao Xuân Huy, người đã áp dụng thông
diễn học để phê bình lối suy tư nhị nguyên của Tây phương. Ông giải thích (lý
giải) triết học Đông phương như là một nền triết học “chủ toàn”, trong khi triết
học Tây phương như là một nền triết học “chủ biệt” [2, 6].
Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách chuyên biệt, cụ thể, khoa học và áp
dụng rộng rãi thông diễn học hiện nay vẫn chưa được quảng bá trong giới hàn
lâm. Mặc dù vậy, thông diễn học đã dành được sự quan tâm không nhỏ của giới
nghiên cứu đồng thời cũng được áp dụng ở một mức độ nhất định nào đó.
1.2 Định nghĩa thông diễn học
Thông diễn học với quá trình diễn biến khá phức tạp và tính chất phức tạp
này còn được thể hiện ở việc cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chung
thống nhất trong giới nghiên cứu. Giáo sư Trần Văn Đoàn ( Đại học quốc gia
Đài Loan) trong cuốn Thông diễn học, đã có sự thống kê rất chi tiết về các định
nghĩa thông diễn học của các truyền thống khác nhau. Do vậy, chúng tôi chỉ xin
tóm tắt lại một số định nghĩa để có một cái nhìn tổng quan về khoa học thông
diễn như sau:
(1) Truyền thống Thánh Kinh học và Giải thích học hiểu thông diễn
học như là một hệ thống, phương pháp giải thích các văn kiện Thánh Kinh.
15
Vũ Thị Phương – Văn CK61
(2)
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
Truyền thống tu từ học hay truy nguyên học (philology) và phương
pháp giải ngữ chung (General Philological Methodology). Truyền thống này
quan tâm đến lịch sử ngôn ngữ và “ý nghĩa câu nói trong Thánh Kinh”.
(3) Khoa học về sự hiểu biết ngôn ngữ (Linguistic Understanding).
Nhà thần học Schleiermacher cho rằng thông diễn học là một nền khoa học giải
thích. “…Muốn phát triển thông diễn học thành một nền khoa học và một nghệ
thuật của sự hiểu biết tức lý hội và giác ngộ (hay lý ngộ)”.
(4) Truyền thống khoa học tinh thần (Geisteswissenschaft): Đại diện
tiêu biểu của truyền thống này là Wilhelm Dilthey, đồ đệ và là người hiểu được
tầm quan trọng trong phát minh của thầy mình là Schleiermacher. Ông đã phát
triển thông diễn học thành nền tảng của tất cả mọi nền khoa học tinh thần. “ Nền
khoa học tinh thần này nhằm nghiên cứu tất cả mọi bộ môn liên quan đến sự
hiểu biết về nghệ thuật, hành vi, tác động cũng như văn bản và chính tác giả”
(5) Truyền thống phân tích hiện tượng và giác ngộ hiện sinh
(Phenomenological Analysis of Existence and Existential Understanding):
truyền thống này đặt thông diễn học trong mối quan hệ với hiện tượng học. Nó
tồn tại như một bộ phận quan trọng của hiện tượng học. Heidegger cho rằng:
Thông diễn học là một sự diễn giải hiện tượng học về chính sự hiện hữu của con
người. Thế nên, sự thông hiểu cũng như sự thông diễn (interpretation) là những
kiểu diễn tả, biểu tả và hiện hữu của chính hữu thể (con người).
Đặc biệt, truyền thống này được thể hiện rõ nét hơn với quan niệm của
Gadamer, ông đã đi thêm một bước xa hơn Heidegger. Ông cho rằng: “Hữu thể
chỉ có thể hiểu được nếu là ngôn ngữ”. Điều này có nghĩa là thực tại con người
mang những đặc tính ngôn ngữ, nền thông diễn học của ông đã biến phương
pháp thông diễn thành một nền triết học, mà trong đó sự tương quan giữa ngôn
ngữ và hữu thể, giữa ngôn ngữ và sự thông hiểu, giữa ngôn ngữ và lịch sử, giữa
hiện sinh và thực thể luôn mang một tính chất biện chứng.
(6) Thông diễn học như là một hệ thống giải nghĩa để tìm lại những ý
nghĩa đã mất. Với truyền thống này, chúng ta phải chú ý đến quan điểm của
16
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
Paul Ricoeur. Ricoeur coi thông diễn học không chỉ là một phương pháp, mà
còn là một hệ thống mà qua đó cái ý nghĩa thâm sâu, thầm kín có thể hiện ra.
Thông diễn học như là một công cụ hữu hiệu để khám phá những tầng nghĩa
nằm sâu trong văn bản. Và các quy tắc giải nghĩa không bị quy định bởi bất cứ
nguyên tắc nào, nó không phổ biến, không tất yếu mà mang tính cá nhân, theo
quy luật cá biệt.
1.3 Từ quy luật thông diễn thực dụng đến…
1.3.1 Phân biệt giữa thông diễn (Auslegung) và gán nghĩa (Sinngebung)
Trong quá trình giải thích rất dễ xảy hiện tượng nhầm lẫn giữa thông diễn
và gán nghĩa. Đây là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau. Thông diễn là khiến các
sự vật, hiện tượng, văn bản… bộc lộ những lớp nghĩa tồn tại tất yếu trong những
sự vật, hiện tượng đó. Việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng hay văn bản…dựa vào
những “điều kiện tiên nghiệm”- những điều ta đã biết trước đó, mới có thể đi
đến một ý nghĩa chắc chăn khó có thể nhầm được. Ta không thể nghĩ đến một
món ăn nào đó khi nhìn thấy con chim câu ở tòa nhà Liên Hiệp Quốc mà nhờ
những hiểu biết sẵn có, bạn sẽ hiểu ý nghĩa của nó là biểu tượng cho hòa bình.
Còn hành động gán nghĩa mang tính chủ quan, thể hiện màu sắc cá nhân
rất rõ nét. Ví dụ, cùng nhìn một đối tượng, hay một dấu hiệu, tín hiệu, hay biểu
biệu, ta có thể hiểu khác nhau tùy theo văn hóa, giáo dục, hay lịch sử và bối
cảnh. Nhìn con chim câu, có người nghĩ đến một giống chim nào đó, có người
lại nghĩ đến hòa bình, hay thậm chí là nghĩ đến một món ăn nào đó từ loài chim
này…
1.3.2
Ý nghĩa của bản văn hay câu nói luôn nằm trong văn cảnh
(Context) hay trong cái toàn thể, mà chỉ và ở trong đó mỗi câu nói mới có thể
hiểu được.
Sự hiểu của chúng ta về sự vật, hiện tượng hay văn bản bị chi phối rất lớn
bởi bối cảnh mà chúng ra đời, tồn tại. Sẽ rất khó có một cách hiểu hợp lý, chính
xác ý nghĩa sự vật, hiện tượng hay văn bản nếu không có một cái nhìn tổng quan
về xuất xứ, hoàn cảnh mà nó tồn tại. “Khi áp dụng vào mỗi câu văn, hay một tác
giả, ta phải chú ý tới cấu trúc (structure) hay hệ thống (system), lối lập luận
17
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
(logic), và cả tinh thần (văn hóa), cách thể sống của tác giả” [2, 207]. So sánh
tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiều, rồi lấy văn chương của Nguyễn Du để phán đoán Nguyễn Đình Chiểu
hoặc ngược lại thì sẽ dẫn đên những sai lầm đáng tiếc. Bởi lẽ, hai tác giả sống
trong thời đại khác nhau, hai cách nghĩ, cánh nhìn nhận, suy nghiệm về cuộc
sống hoàn toàn khác nhau.
1.3.3 Tính chất sống động (Aktualitaet) của ý nghĩa từ vị thế của người
thông diễn.
Người trong vị thế thông diễn có vai trò rất quan trọng trong việc giúp
người khác thông hiểu ý nghĩa mà những người kể cả trong quá khứ gửi vào văn
bản. Do vậy, người thông diễn phải có những năng lực nhất định: “ (1) ý thức
của người thông diễn về vị trí của mình, (2) ý thức được sự tương quan giữa
những ý thích (mục đích) của thời đại của ông với ý thích của thời đại đoạn văn,
và (3) ý thức được tính chất sản sinh ra ý nghĩa mới của tác động thông diễn”
[2, 207].
Giáo sư Trần Văn Đoàn đã lấy ví dụ khá cụ thể và dễ hiểu về những năng
lực cần có của người thông diễn, người thông diễn cũng giống như một dịch giả.
“Một dịch giả tài ba không chỉ thông thạo ngôn ngữ, cấu trúc ngôn ngữ, mà còn
phải thấu triệt hai thế giới của tác giả và của chính dịch giả. Cùng những dữ
kiện nhưng khi dịch sang ngôn ngữ của mình, dịch giả phải dùng chính cái thế
giới mình đương sống, những hình thái có ý nghĩa đương được sử dụng trong
thế giới của mình, cũng như cảm giác của mình để chuyển chúng thành cái văn
bản sống động:vừa của tác giả, vừa của dịch giả” [2, 207].
1.4 …đến áp dụng khoa học thông diễn tìm hiểu tác phẩm văn học.
“Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc
tập thể sáng tạo ra nhằm thể hiên những khái quát bằng hình tượng về cuộc
sống con người, biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại”
[8,290].
Tác phẩm văn chương lấy ngôn ngữ làm vật liệu biểu hiện và thông qua
sự sắp xếp hệ thống kí hiệu đó mà đưới sự đọc của bạn đọc thì tiếng nói của nhà
18
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
văn đến được với công chúng. Mỗi tác phẩm văn chương là một lời nhắn gửi,
một lời tâm sự, là suy tư của trí óc, là thanh âm của trái tim…gửi đến bạn đọc.
Áp dụng thông diễn học vào việc tìm hiểu tác phẩm văn chương mà cụ thể
là tác phẩm văn học cổ là một cách thức có ý nghĩa quan trọng trong việc giải
mã tác phẩm. Khi tìm hiểu một tác phẩm văn chương thì một con đường “truyền
thống” chính là tìm hiểu, phân tích, lý giải hệ thống kí hiệu ngôn ngữ rồi đi đến
hình tượng, ý nghĩa của tác phẩm. Điều này không nằm ngoài lý thuyết khoa học
thông diễn như chúng tôi vừa nêu trên. Tuy nhiên, nếu áp dụng toàn bộ hệ thống
lý thuyết này vào quá trình dạy học và giáo viên đóng vai trò là người thông
diễn thì vô hình chung đã đi chệch khỏi quan điểm dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, phát huy chủ thể sáng tạo học sinh. Học sinh sẽ trở thành đối tượng
tiếp nhận tri thức một cách thụ động. Mặc dù giáo viên hoàn toàn có thể hướng
dẫn học sinh tự “thông hiểu” nhưng rất khó tránh khỏi việc quay về lối dạy học
nghiêng về hoạt động của giáo viên, thầy đọc trò chép.
Chính vì vậy, chúng tôi chỉ sử dụng lý thuyết thông diễn ở mức độ cơ bản.
Nói cách khác, chúng tôi không đi sâu áp dụng khía cạnh quan trọng nhất của
thông diễn là tìm hiểu hệ thống ngôn từ mà chúng tôi áp dụng cách thức chỉ
cung cấp và thông diễn cho học sinh những kiến thức liên quan đến tác phẩm
văn học nhưng ở phạm vi ngoài văn bản. Chúng tôi áp dụng lý thuyết khoa học
thông diễn ở những khía cạnh sau như: cung cấp và thông diễn bối cảnh ra đời
của tác phẩm văn học, cung cấp và thông diễn cách thế sống của tác giả…
Sử dụng thông diễn học với mục đích cung cấp cho học sinh những căn
cứ, tiền đề để từ đó tìm hiểu đặc trưng thi pháp tác phẩm, chúng tôi sử dụng phối
hợp những biện pháp dạy học để định hướng tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của bài
văn tế.
2.
Thi pháp học- khoa học phân tích văn bản nghệ thuật
2.1 Thi pháp
Thi pháp là thuật ngữ tương đối quen thuộc đối với những người nghiên
cứu văn học chuyên cũng như không chuyên. Cho đến nay vẫn chưa có một
19
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
định nghĩa chính xác, hoàn chỉnh, nhất quán cách hiểu về thi pháp mặc dù thuật
ngữ này đã xuất hiện cách hơn 2300 năm. Đã có rất nhiều quan niệm và cách
trình bày khác nhau về nội hàm của khái niệm. Chúng tôi xin được mạn phép
trình bày một cách ngắn gọn nhất những lí giải của giới nghiên cứu về vấn đề
này.
Giáo sư Lê Ngọc Trà trong công trình Lí luận và văn học đã đưa ra định
nghĩa về thi pháp như sau: “hệ thống các phương tiện, cách thức thể hiện và tổ
chức ý thức nghệ thuật trong sáng tạo văn chương….Đặc điểm thi pháp như là
hình thức bên trong của tác phẩm văn học thường gắn liền với những đăc điểm
của bản thân ý thức nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy muốn nghiên cứu thi pháp
của một tác phẩm hoặc sáng tác của nhà văn phải xác định cho được quan niệm
về thế giới và tư tưởng xã hội của tác giả” [30, 143]. Như vậy, giáo sư quan
niệm thi pháp là hệ thống các yếu tố thuộc phạm trù nghệ thuật thể hiện và cần
phải nắm vững những vấn đề xoay quanh tư tưởng, ý đồ của tác giả để có tiền đề
cơ sở nghiên cứu thi pháp.
Chúng ta còn có thể kể đến một định nghĩa hết sức bao quát về thi pháp
học của GS Nguyễn Văn Hạnh trong công trình Lý luận văn học, vấn đề và suy
nghĩ”: “thi pháp là nghệ thuật thi ca, nói một cách chặt chẽ và khái quát hơn là
hệ thống những nguyên tắc chỉ đạo quá trình sáng tác và xây dựng tác phẩm
văn học bao gồm những nguyên tắc nhận thức và thể hiện cuộc sống một cách
nghệ thuật, theo qui luật của cái đẹp, qua việc lựa chọn đề tài, xác định và soi
sáng các chủ đề, khai thác cốt truyện, xây dựng hình tượng, nhân vật, tính cách,
sử dụng và sáng tạo loại thể, ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật khác, xuất
phát từ quan niệm về bản chất và chức năng của văn học” [9, 71].
Theo tác giả Đỗ Đức Hiểu thì “thi pháp là phương pháp tiếp cận, tức là
nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn từ
nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện hoặc chìm ẩn của tác phẩm…”
[11, 9]. Tác giả Đỗ Đức Hiểu ngay từ đầu đã coi thi pháp là một phương pháp để
20
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
nghiên cứu tác phẩm nhưng chỉ dừng lại ở việc khai thác, tìm hiểu hệ thống
ngôn từ.
Trong tác phẩm Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, tác giả
Nguyễn Thị Dư Khánh quan niệm thi pháp chủ yếu “là nói đến quá trình sáng
tạo những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, là nói đến những phương thức,
phương tịên, những thao tác nghệ thuật của nhà nghệ sĩ ngôn từ” [16, 10].
Trong cuốn Thi pháp văn học dân gian của tác giả Lê Trường Phát có đưa
ra định nghĩa về thi pháp như sau: “Thi pháp là tất cả những gì làm nên tính độc
đáo, riêng biệt về phương diện phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm, tác giả
hoặc các trào lưu trường phái” [22].
GS Trần Đình Sử là một trong những nhà nghiên cứu có rất nhiều đóng
góp cho lí luận văn học khi ông đã cho ra rất nhiều những cuốn sách về thi pháp
học. Và trong chuyên đề Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, giáo sư đã đưa ra
hai cách hiểu về khái niệm thi pháp: một là hiểu thi pháp như là nguyên tắc,
biện pháp chung làm cho văn bản, phát ngôn trở thành tác phẩm nghệ thuật…
Hai là hiểu thi pháp như là những nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật cụ thể tạo
thành đặc sắc nghệ thuật của một tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu… Cả hai
cách đều có chung mục đích khám phá các nguyên tắc phổ quát hoặc cụ thể,
lịch sử làm thành nghệ thuật [25, 5].
Như vậy, có thể thấy rằng nghiên cứu thi pháp là nghiên cứu những
phương diện hình thức của tác phẩm, những hình thức này mang nội dung mà
tác giả gửi gắm. Thông qua việc tìm hiểu những phương diện hình thức này
người đọc có thể hiểu một cách khái quát nhất nội dung cũng như giá trị của tác
phẩm.
2.2 Thi pháp học và đối tượng của thi pháp học
Thi pháp học là khoa học về thi pháp. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì:
“thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương
thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật
21
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa
các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ
thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh của thế giới nghệ thuật” [8,304].
Nhà lý luận V.Vinogradov định nghĩa : “thi pháp học là khoa học về các
hình thức, các phương tiện tổ chức tác phẩm nghệ thuật ngôn từ và các cấu
trúc, các loại thể tác phẩm văn học”. Trong khi, Khravchenko thì quan niệm :
“thi pháp học như một môn khoa học nghiên cứu các phương thức và phương
tiện thể hiện cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, khám phá cuộc sống một
cách hình tượng” [26, 10].
Nhà lý luận văn học người Nga đã đưa ra một định nghĩa rất khái quát về
thi pháp học: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi ca (văn học) với tư cách
là một nghệ thuật” [31, 15].
Là một người có những hiểu biết chuyên sâu về thi pháp, GS Trần Đình
Sử thì quan niệm “thi pháp học là bộ môn nghiên cứu tất cả mọi phương diện
của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương diện tạo thành nghệ thuật
cũng như sự vận động phát triển của chúng” [25, 88].
Và GS Trần Đình Sử cũng giải thích rõ nhiệm vụ nghiên cứu của thi pháp
học không chỉ bao gồm những phương diện hình thức đơn thuần mà hình thức
mang tính quan niệm. “ Tính quan niệm của hình thức thể hiện hệ hình tư duy
ẩn chứa trong hình thức, thể hiện trình độ chiếm lĩnh thế giới của một hệ thống
nghệ thuật….Tính quan niệm của hình thức cho thấy thi pháp không giản đơn là
hệ thống các phương thức, phương tiện miêu tả nghệ thuật, mà còn là hệ thống
các nguyên tắc cảm nhận đời sống một cách thẩm mĩ” [26, 54].
Tóm lại, có thể hiểu nhiệm vụ của thi pháp học là tìm ra cái lý của nghệ
thuật. Có thể là những tồn tại nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu, một tác
gia, một tác phẩm…hay cũng chỉ có thể là những yếu tố nghệ thuật tạo thành tác
phẩm như nhân vật , kết cấu, không gian, thời gian…Do vậy, trên tinh thần ấy,
chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu , tìm hiểu một số phương diện trong thi pháp bài
22
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Từ đó, xây dựng những biện pháp dạy học phù hợp
để khai thác tác phẩm trong phạm vi gắn liền với học sinh trung học phổ thông.
3.
Việc vận dụng phối hợp thông diễn học và thi pháp học trong
dạy học tác phẩm văn chương
Văn bản văn học chỉ thực sự tồn tại như một tác phẩm khi có sự tiếp nhận
của người đọc. Hoạt động đọc tác phẩm có thể coi là khâu cuối cùng và vô cùng
trong sự ra đời một tác phẩm văn học: cuộc sống – nhà văn – bạn đọc. Tuy
nhiên, để tác phẩm văn chương thực sự tồn tại thì người đọc phải biết, hiểu và
thẩm thấu được những giá trị nội dung, tư tưởng mà tác giả gửi gắm. Bài viết
đưa ra cách thức tìm hiểu tác phẩm văn chương mà cụ thể là tác phẩm thuộc văn
học cổ dựa trên sự kết hợp giữa khoa học thông diễn và thi pháp. Ở trên đã trình
bày những khái lược cơ bản nhất về thông diễn học và thi pháp học. Trên cơ sở
đó, chúng tôi sẽ lí giải tại sao chúng tôi kết hợp hai khoa học này để tìm hiểu tác
phẩm văn chương và bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
Thông diễn học là phân môn thuộc lĩnh vực triết học, ra đời nhằm đáp
ứng nhu cầu thông hiểu lẫn nhau của con người. Các nhà thông diễn đặt mục
tiêu đối với mọi sự lí giải, thông qua văn bản và nhờ văn bản mà quá khứ văn
hóa được hiểu một cách chính xác nhất. Trong khi đó, tác phẩm văn học được
coi là tấm gương phản ánh cuộc sống vô cùng rõ nét và hàm chứa ý nghĩa văn
hóa lớn. Và “văn học là nơi lưu giữ toàn bộ thế giới tư tưởng của nhân loại một
cách đầy đủ nhất, sống động nhất và hệ thống nhất thông qua ngôn ngữ.”(Ngô
Phương Quốc). Do vậy, thông diễn học không thể xa rời với tác phẩm văn học
trong quá trình tìm hiểu tác phẩm.
Có thể coi thông diễn học như bước khởi đầu khi tìm hiểu tác phẩm văn
chương. Bởi lẽ, người đọc phải nắm được những kiến thức căn bản xoay quanh
tác phẩm để không dẫn đến sự chệch hướng trong nhận thức giá trị của tác
phẩm. Thông diễn học sẽ phác thảo đầy đủ nhất không khí lịch sử, thời đại ra
đời của tác phẩm cũng như tất cả những hiểu biết về nhà văn. Thông qua đó,
23
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
người đọc sẽ hiểu được phần nào đó ý nghĩa văn hóa, ý nghĩa tinh thần mà nhà
văn gửi gắm.
Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng việc áp dụng thông diễn học vào tìm
hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường mà cụ thể là tác phẩm Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là một phương cách hợp lý. Bài văn tế
được coi là bài văn hay nhất nhưng không chỉ có vậy mà nó còn mang ý nghĩa
văn hóa, ý nghĩa chính trị đối với dân tộc. Như đã nói ở trên, tác phẩm cổ này
thực sự khó đối với học sinh hiện nay bởi khoảng cách thời gian cũng như quan
niệm sống khác nhau giữa các thời đại đã dẫn đến những cách hiểu sai lệch
nghiêm trọng. Cho nên, chúng tôi áp dụng thông diễn học vào dạy học tác phẩm
này để khởi tạo trong học sinh những hiểu biết ban đầu về tác phẩm từ đó học
sinh có cơ sở đi sâu hiểu được những giá tri nội dung, tư tưởng của áng thiên cổ
hùng văn đó.
Nếu như thông diễn học là khoa học của sự chú giải, giải nghĩa để đi đến
mục tiêu hiểu tác phẩm thì chúng tôi sử dụng thi pháp học - khoa học phân tích
tác phẩm văn học để người đọc mà cụ thể là bạn đọc học sinh hiểu được đúng
nhất, trọn vẹn nhất giá trị của tác phẩm. Thi pháp học đã xuất hiện từ lâu trong
lĩnh vực lí luận văn học và áp dụng thi pháp học như là một con đường đi tìm
hiểu tác phẩm cũng được sử dụng khá phổ biến.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về thi pháp học nhưng cách hiểu phổ biến
là việc phân tích tác phẩm bám sát vào văn bản là chính mà không chú trọng đến
tiểu sử nhà văn hay hoàn cảnh ra đời của tác phẩm… Dạy học văn theo hướng
thi pháp học là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật của tác phẩm với các
phạm trù như: thể loại, hình tượng nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ
hay hình tượng tác giả…Như có tác giả đã khẳng định: “Tinh thần thi pháp học
đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và trong bài làm văn
của học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường…”
[10, 111]. Tuy nhiên, khi phân tích tác phẩm theo hướng thi pháp không có
24
Vũ Thị Phương – Văn CK61
Khóa luận tốt nghiệp năm 2014 -2015
nghĩa là đi lần lượt tất cả những phạm trù thuộc về thi pháp mà cần phải chắt lọc
những đặc trưng nổi bật nhất trong tác phẩm.
Dạy học văn theo hướng thi pháp học là xu hướng chung của thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, kết quả ra sao còn tùy thuộc vào sự
vận dụng tích cực của giáo viên và học sinh trong giờ dạy văn. Giáo viên cần có
những kiến thức nhất định, vững vàng về đặc điểm loại, thể, nhà văn. Từ đó, xây
dựng những phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp nhất để chiếm lĩnh tác
phẩm.
Có thể nói rằng, cả thông diễn học và thi pháp học đều mở ra những
hướng đi khác nhau trong việc tìm hiểu tác phẩm văn chương. Mỗi khoa học lại
đem đến cho người học những hiểu biết khác nhau về những vấn đề liên quan
đến tác phẩm. Như chúng ta đã biết, thi pháp học đã được áp dụng vào giảng
dạy tác phẩm văn chương một cách khá phổ biến và đem lại hiệu quả cao. Thi
pháp học cho phép người đọc hiểu tác phẩm bắt đầu từ những gợi dẫn về hình
thức nghệ thuật trong tác phẩm. Người đọc sẽ chọn lọc những hình thức nghệ
thuật tiêu biểu trong tác phẩm như: thể loại, quan niệm con người, nhân vật,
không gian hay thời gian nghệ thuật…để từ đó khái quát giá trị nội dung và
nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, để có làm được điều này, điều kiện
cần và đủ chính là phải áp dụng khoa học thông diễn để hiểu tất cả những vấn đề
xoay quanh tác phẩm và có liên quan mật thiết với tác phẩm như: hoàn cảnh ra
đời, tiểu sử của tác giả…Nếu không nắm chắc và hiểu đúng rất có thể sẽ dẫn đến
khuynh hướng nhìn nhận sai ý nghĩa của tác phẩm. Dưới góc độ chủ quan, có
thể thấy rằng thông diễn học và thi pháp học có mối quan hệ qua lại với nhau.
Mặc dù đây là hai ngành khoa học thuộc hai phân môn khác biệt nhưng để hiểu
tác phẩm dưới góc độ thi pháp một cách chi tiết, rõ ràng và chính xác thì nhất
thiết cần có sự thông diễn. Và thông diễn còn tồn tại như một khoa học để hiểu
thi pháp và các vấn đề thi pháp. Nói như vậy có nghĩa là khi sử dụng các biện
pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm theo thi pháp học thì thông diễn
25