CÁC CÔNG NGHỆ MỚI
— cải thiện làm sạch ống tủy
— Dr. Gianluca Plotino
— Gianluca Gambarini
is a senior lecturer in the
Department of Endodontics and adjunct professor
in the School of Dental
Hygiene at the Sapienza
University of Rome in Italy.
He serves on the editorial
boards of and is an official
reviewer for several journals, and has organized
several research groups
worldwide. He is the author
and co-author of more than
70 articles in international
scientific peer-reviewed
journals with high impact
factors on different
endodontic and restorative
topics. Dr. Plotino has given
several lectures and
courses worldwide, and he
works in a private practice
limited to endodontics
and restorative dentistry
in Rome.
is Professor of Endodontics
at the Sapienza University
of Rome’s dental school. He
is an international lecturer
and researcher, and actively
collaborates with a number
of manufacturers all over
the world to develop new
technologies, operative
procedures and materials
for root canal treatment.
Prof. Gambarini also works
in a private endodontics
practice in Rome.
— Dr. Nicola M. Grande
is Assistant Professor of
Endodontics at Università
Cattolica del Sacro Cuore
in Rome. He completed his
Ph.D. at the same university
in 2009, with a thesis on an
innovative technique he developed for the restoration
of endodontically treated
teeth. He has contributed
to the development of various instrumentation systems and new techniques,
and holds international
patents in the fields of endodontics and oral surgery.
Dr. Grande has published
extensively in international
peer-reviewed journals and
has contributed to several
books of endodontic interest. He serves on the editorial boards of several international peer-reviewed
journals, and he has lectured both nationally and
internationally as a keynote
speaker in the fields of
endodontics, microsurgery
and restorative dentistry.
He works in a private practice limited to endodontic
and microsurgery in Rome.
Lời mở đầu
Vai trò chủ yếu của vi sinh vật trong
bệnh học bệnh lý tủy và quanh chóp đã
được chứng minh rõ ràng.1 Mục đích
chính của điều trị nội nha là khử trùng
toàn bộ hệ thống ống tủy, điều này đòi
hỏi sự loại bỏ các vi sinh vật và thành
phần của chúng, ngăn chặn tái nhiễm
trong và sau điều trị. Có thể đạt được
mục đích này thông qua việc làm sạch
cơ hóa học, trong đó làm sạch cơ học
bằng cách sử dụng dung dịch bơm rửa.
Qui trình bơm rửa nội nha tiêu
chuẩn
— Natri hypochlorite
Natri hypochlorite (NaOCl) là dung dịch
bơm rửa chủ yếu, nhờ vào khả năng
kháng khuẩn và hòa tan mô hữu cơ.2
Sử dụng NaOCl trong pha sửa soạn
bằng dụng cụ làm tăng thời gian hoạt
động của chúng trong ống tủy càng
nhiều càng tốt mà không bị biến đổi hóa
học bởi sự hiện diện của chất khác.3
Hiệu quả của NaOCl đã được chứng
minh là phụ thuộc vào nồng độ, nhiệt
độ, độ pH và điều kiện bảo quản.3 Dung
dịch được đun nóng (45–60 °C) có
nồng độ cao hơn (5–6%) và có tính
chất hòa tan mô tốt hơn.2
Dr. Gianluca Plotino,
Dr. Nicola M. Grande &
Prof. Gianluca Gambarini, Italy
Tuy nhiên, nồng độ càng lớn thì nguy
cơ phản ứng càng nặng hơn khi dung
dịch vô ý bị đẩy ra mô quanh chóp.4 Để
giảm nguy cơ này, khuyến nghị sử
dụng kim bơm thiết kế đặc biệt cho nội
nha và kĩ thuật bơm không tạo áp lực.5
— EDTA
Nhược điểm chính của NaOCl là không
có khả năng loại bỏ mùn ngà. Vì lý do
này, sự kết hợp giữa NaOCl và EDTA
(ethylenediaminetetraacetic)
được
khuyến nghị.2 EDTA có khả năng phân
hủy các thành phần vô cơ của mùn ngà
và thường được sử dụng với tỉ lệ tương
đương 17%. EDTA có vẻ làm giảm tác
dụng kháng khuẩn và hòa tan của
NaOCl; vì thế hai dung dịch này không
được hiện diện cùng một lúc tại ống
tủy.6 Vì lý do này, trong quá trình sửa
soạn cơ học, bơm rửa thường xuyên
và "hào phóng" NaOCl, còn EDTA
được dùng 2 phút cuối giai đoạn sửa
soạn để loại bỏ hoàn toàn mảnh vụn vô
cơ và mùn ngà ở thành tủy.
— NaOCl kích hoạt bằng siêu âm
Việc sử dụng siêu âm trong và cuối pha
sửa soạn ống tủy là một bước không
thể thiếu trong việc cải thiện khử trùng
nội nha. Tần số siêu âm sử dụng từ 25
- 40 kHz.7 Hiệu quả của siêu âm trong
bơm rửa được xác định bằng khả năng
tạo ra bong bóng và dòng chảy ổn định.
Sự sủi bọt phải tối thiểu và chỉ giới hạn
tại đầu tip của dụng cụ, quan trọng hơn
là tác dụng tạo dòng chảy liên tục và ổn
định.7
Siêu âm tạo nên các bong bóng áp
lực âm và dương tại các phân tử của
dung dịch ở nơi mà chúng tiếp xúc.
Bong bóng trở nên mất ổn định, vỡ ra
và nổ vào trong tương tự như sự nén
chân không. Nổ vào trong và ra ngoài
(Exploding and imploding) giải phóng
các năng lượng tác động và tạo nên
hiệu
quả
của chất tẩy rửa.
Biên dịch:
Người ta đã chứng minh rằng sử dụng
siêu âm NaOCl tăng cường tính hiệu
quả trong làm sạch ống tủy, vì kích
hoạt bằng siêu âm làm tăng đáng kể
dòng chảy cải thiện cả khả năng hòa
tan và kháng khuẩn và loại bỏ hiệu quả
các mảnh vụn hữu cơ từ thành ống
tủy.7
Việc sử dụng siêu âm NaOCl trong
thời gian 30–60s cho mỗi ống tủy, chia
làm ba lần, mỗi lần 10–20 s (sử dụng
nước bơm rửa mới) có vẻ là đủ để làm
sạch ống tủy hiệu quả ở cuối giai đoạn
sửa soạn (Hình 1 & 2).7
này mà không nên sử dụng CHX ngay
sau khi dùng NaOCl.11 Có thể ngăn
chặn hay giảm tối thiểu sự tương tác
này bằng cách bơm rửa cồn, nước
muối hay nước cất giữa hai chất.12
Các hệ thống kích hoạt
Sử dụng đơn thuần dụng cụ cơ học có
thể giảm lượng vi sinh hiện diện trong
hệ thống ống tủy kể cả khi không sử
dụng dung dịch bơm rửa hay đặt
thuốc,13 tuy nhiên nó không thể đảm
bảo việc làm sạch hoàn toàn và hiệu
quả.14
Hình. 1 & 2
Tác động siêu âm với
file thụ động.
Hình 1
Dường như siêu âm tăng cường hiệu quả
của EDTA không nhiều, mặc dù cũng
đóng góp vào việc loại bỏ mùn ngà tốt
hơn.7 Có thể sử dụng siêu âm cùng
NaOCl, kể cả trong khi sửa soạn, để
ngăn chặn sự tích tụ của mùn ngà ở
những nơi không thể tiếp cận tạo ra
sau quá trình sửa soạn cơ học.8 Do đó
việc sử dụng siêu âm để bơm rửa liên
tục sẽ rất có lợi. Nó liên quan cả tới
việc sử dụng đầu kim kích hoạt bởi siêu
âm. Với kĩ thuật này, nước bơm rửa
được bơm vào ống tủy và được kích
hoạt đồng thời bởi đầu siêu âm.9
— Chlorhexidine
Bơm rửa lần cuối với 2% chlorhexidine
(CHX) sau khi dùng xong NaOCl (để
hòa tan thành phần hữu cơ) và EDTA
(để loại bỏ lớp mùn ngà) được đề xuất
để đảm bảo kết quả tốt trong các ca
nhiễm trùng dai dẳng, nhờ vào phổ
kháng khuẩn rộng và tác dụng kéo
dài.5, 10 Tuy nhiên, việc sử dụng CHX bị
cản trở bởi tương tác giữa NaOCl và
CHX, có xu hướng tạo ra sản phẩm có
khả năng đổi màu răng và kết tủa, là
chất có tiềm năng gây đột biến. Vì lý do
Hình 2
Sử dụng dung dịch bơm rửa không có hỗ trợ
của sửa soạn cơ học cũng không thể giảm
đáng kể lượng vi khuẩn nằm trong ống tủy.15
Dựa vào những lý do này, các nghiên cứu ngày
nay hướng về nghiên cứu các hệ thống có thể
tăng khả năng khử trùng ống tủy thông qua tác
động cơ học của dung dịch bơm rửa, đặc biệt
NaOCl. Rất nhiều hệ thống và kĩ thuật bơm rửa
đã được sử dụng trong thời gian qua,16 và đã
chứng minh có kết quả tích cực không ít thì
nhiều.17
— Kĩ thuật rung bằng tay
Kĩ thuật đơn giản nhất để kích hoạt cơ học
dung dịch bơm rửa đó là bằng tay, có thể thực
hiện với nhiều hệ thống khác nhau. Cách dễ
nhất để làm điều này là di chuyển file nằm thụ
động trong ống tủy theo chiều dọc. Việc sử
dụng file làm tăng thâm nhập của dung dịch,
đưa chúng tới những bề mặt chưa được sửa
soạn một cách hiệu quả và làm giảm sự hiện
diện của bọt khí trong lòng ống tủy,18 nhưng
không cải thiện được kết quả làm sạch sau
cùng.17 Một kĩ thuật tương tự là di chuyển côn
gutta-percha đi hết chiều dài làm việc trong ống
tủy ngập dung dịch bơm rửa theo chiều dọc. Kể
cả kĩ thuật này đã không được chứng minh là
cải thiện sự làm sạch trong lòng ống tủy.
Article
Endodontics
issue 2016 — 71
Với mục đích này, ở mỗi ca, côn gutta
percha sát khít tốt (tăng độ thuôn) có
hiệu quả hơn côn có độ thuôn tiêu
chuẩn (0.02).9 Sử dụng chổi nội nha
(endodontic brushes) và đầu kim đặc
biệt dùng trong bơm rửa nội nha với
lông trên bề mặt là kĩ thuật khác được
đề nghị để đưa dung dịch bơm rửa vào
ống tủy hiệu quả hơn. Những hệ thống
này đã cho thấy hiệu quả trong việc loại
bỏ mùn ngà và vì thế có thể được
khuyến nghị trong quá trình bơm rửa
với EDTA để tăng hiệu quả của chúng
trước khi kết thúc giai đoạn sửa soạn.
— Các hệ thống rung có sự hỗ trợ
của máy
Sự tiến bộ của các hệ thống thủ công
đã dẫn đến sự ra đời của dụng cụ có
thể quay ở tốc độ thấp bên trong ống
ngà ngập dung dịch bơm rửa. Đó là các
chổi quay và nó quá lớn để có thể đi
hết chiều dài làm việc, do đó nó chỉ
được sử dụng một cách hiệu quả khi ở
1/3 trên và 1/3 giữa ống tủy. Các dụng
cụ tương tự là các file bằng nhựa bề
mặt trơn và độ thuôn tăng hoặc bề mặt
có phần mở rộng bằng nhựa với kích
thước phù hợp để đi hết chiều dài làm
việc nếu sử dụng sau giai đoạn sửa
soạn. Nghiên cứu về các hệ thống này
cho kết quả đối lập nhau. Nói chung,
kết quả tốt hơn bơm rửa thủ công bằng
xi lanh, nhưng thấp hơn các hệ thống
khác hiệu quả hơn.16
— Bơm rửa liên tục trong
quá trình sửa soạn
bằng dụng cụ
Gần đây có một hệ thống sửa soạn ống
tủy mới được giới thiệu trên thị trường.
Hệ thống này sử dụng một dụng cụ đặc
biệt với bề mặt nhám có thể mở rộng
ống tủy qua ma sát với động tác rung
và cho phép dung dịch bơm rửa tự
chảy qua file. Hệ thống này cho kết quả
tuyệt vời trong việc tôn trọng giải phẫu
ống tủy và làm sạch các ống tủy khó,
như eo thắt, ống tủy bầu dục hay hình C.19
Hiệu quả cắt thấp của hệ thống này có
thể hạn chế việc sử dụng chúng trong
một số trường hợp sửa soạn ống tủy,
tuy nhiên lại là kĩ thuật bổ trợ tuyệt vời
để làm sạch và khử trùng hệ thống ống
tủy ở cuối giai đoạn sửa soạn.20 Khái
niệm bơm rửa không ngừng phát triển
trong quá khứ sử dụng các dụng cụ cơ
học sửa soạn bằng âm và siêu âm
đồng thời làm sạch thông qua dòng
chảy ra liên tục của dung dịch bơm rửa.
Các kĩ thuật này về sau đã bị loại bỏ vì
nhiều lý do liên quan tới chất lượng
sửa soạn kém.
— Kích hoạt bằng sóng âm
Kích hoạt sóng âm đã được chứng tỏ là
phương pháp hiệu quả để khử trùng
ống tủy. Các hệ thống gần đây sử dụng
đầu tip bằng nhựa trơn với kích thước
khác nhau kích hoạt ở tần số sóng âm.
Kĩ thuật này có vẻ có khả năng làm
sạch ống tủy chính một cách hiệu quả,
loại bỏ mùn ngà và giúp tăng khả năng
trám một số lượng lớn hơn các ống tủy
phụ.17 Một kĩ thuật mới được giới thiệu
sử dụng xi lanh rung với sóng âm cho
phép di chuyển và đồng thời kích hoạt
dung dịch bơm rửa trong ống tủy. Sóng
âm khác với siêu âm ở tần số thấp hơn
(1–6 kHz), và vì lý do này mà nhìn
chung nó có hiệu quả loại bỏ mảnh vụn
kém hơn các hệ thống siêu âm.17, 21, 22
— Bơm rửa chóp áp lực âm
Để có hiệu quả thì dung dịch bơm rửa
phải tiếp xúc trực tiếp với vi sinh và
thành ngà, do đó khả năng tiếp cận
toàn bộ hệ thống ống tủy, đặc biệt ở
1/3 chóp là rất quan trọng. Để đưa
được dung dịch đi hết chiều dài làm
việc và có một dòng chảy tốt, hệ thống
bơm rửa chóp áp lực âm đã được giới
thiệu có thể bơm và loại bỏ dung dịch
bơm rửa đồng thời.
Những hệ thống này bao gồm
canuyn lớn cho 1/3 trên và 1/3 giữa,
một canuyn nhỏ cho 1/3 chóp, các
canuyn kết nối với xi lanh để bơm rửa
và hệ thống hút (Hình 3). Trong quá
trình bơm rửa, đầu tip nối với xi lanh
đưa dung dịch vào buồng tủy, đầu kia
đưa dung dịch vào ống tủy và hút ra
ngoài qua các lỗ. Hệ thống này nhằm
mục đích đảm bảo dòng chảy nước
bơm rửa mới luôn ổn định và liên tục đi
tới 1/3 chóp một cách an toàn và với
nguy cơ quá chóp thấp hơn.23 Đa số
các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó rất
hiệu quả trong việc đảm bảo một lượng
nước bơm rửa dồi dào ở 1/3 chóp24 và
khả năng loại bỏ mảnh vụn một cách
xuất sắc tại các vùng này25 và cả những
vùng không thể tiếp cận được,26 kết quả
đạt được của đa số các trường hợp
tương tự như khi sử dụng bằng siêu
âm.27–29 Nhìn từ quan điểm lâm sàng,
hệ thống bơm rửa áp lực âm có thể tích
hợp hiệu quả với hệ thống siêu âm vì
cơ chế hoạt động của chúng khác
nhau.
Hai hệ thống có thể hợp lực với mục tiêu
thu được các ống tủy sạch hơn, đặc biệt
ở 1/3 chóp và đa số các vị trí không thể
tiếp cận.
— Kích hoạt laser
Tương tác giữa laser và dung dịch bơm
rửa trong ống tủy là mảng mới được
quan tâm về lĩnh vực tiệt khuẩn trong
nội nha. Khái niệm này dựa trên nền
tảng của bơm rửa kích hoạt bằng laser
(laser-activated irrigation (LAI)) và kĩ
thuật photon-initiated photoacoustic
streaming (PIPS).30 Cơ chế của sự
tương tác này do NaOCl có khả năng
hấp thu tia laser một cách hiệu quả. Nó
gây ra sự bốc hơi của dung dịch bơm
rửa và hình thành nên các bong bóng
nước, nở rộng và vỡ ra tạo hiệu ứng
sủi bọt. Kĩ thuật PIPS dựa trên khả
năng của laser Er:YAG có thể tạo ra
sóng
xung
kích
quang
âm
(photoacoustic shock waves) trong lòng
dung dịch bơm rửa đưa vào ống tủy. Khi
được kích hoạt trong một khối lượng
chất lỏng hạn chế, sự hấp thu cao của
laser trong NaOCl kết hợp với đỉnh
công suất cao xuất phát từ các xung
ngắn (50 μs) tạo nên hiện tượng quang
cao.30 Một nghiên cứu cho thấy không
có sự khác biệt về hiệu quả giảm vi
khuẩn giữa bơm rửa bằng NaOCl đơn
thuần và bằng NaOCl kích hoạt bởi
laser.31 Một nghiên cứu khác khảo sát
khả năng của LAI trong việc loại bỏ
màng vi khuẩn tạo ra ở thành ống tủy in
vitro.32 Nghiên cứu này thấy rằng nó
không loại bỏ hoàn toàn màng vi khuẩn
ở 1/3 chóp và ở các ống ngà nhiễm
khuẩn. Tuy nhiên, người ta thấy mẫu cấy
vi khuẩn khi bơm rửa kích hoạt bằng laser
có kết quả âm tính nhiều hơn và giảm số
lượng vi khuẩn ở 1/3 chóp là các kết quả
hứa hẹn về hiệu quả của kĩ thuật này,
điều này đã được xác nhận bởi nhiều
nghiên cứu gần đây hơn.33
Các hệ thống tiệt khuẩn bổ trợ
Bổ sung thêm vào những hệ thống đã
mô tả bên trên có khả năng kích hoạt
dung dịch bơm rửa nội nha và cải thiện
khả năng làm sạch, hướng của các
nghiên cứu nội nha là xác định dung
dịch thay thế có thể cải tiến tiệt khuẩn,
hỗ trợ phá hủy biofilm và loại trừ các vi
sinh vật. Từ mục đích này, các vật liệu
và kĩ thuật đã được nghiên cứu qua
thời gian với nhiều kết quả khác nhau.
Biên dịch:
— Tiệt khuẩn quang hoạt
Một phương pháp mới được giới thiệu
gần đây là tiệt khuẩn quang hoạt.
Trên lâm sàng, sau khi sửa soạn ống
tủy, đưa PS vào ống tủy tới hết chiều
dài làm việc cùng mũi bơm rửa nội nha
và để tại chỗ trong vòng 60 giây để
dung dịch tiếp xúc với vi khuẩn và các
cấu trúc khác ví dụ như màng biofilm.
Tiếp theo đưa xuống một đầu nội nha
đặc biệt vào ống tủy tới chiều dài sâu
nhất có thể và rọi sáng 30 giây trong
mỗi ống (Hình 4). Kĩ thuật này đã được
chứng minh có hiệu quả loại trừ vi
khuẩn ở các ống tủy nhiễm khuẩn nhân
tạo trong các nghiên cứu tại labo 35.
Hình 3
Kĩ thuật này dựa trên các phân tử nhạy
cảm với ánh sáng (PS) có khả năng
gắn lên màng vi khuẩn. PS được kích
hoạt bởi bước sóng riêng và sản xuất
oxy tự do, đứt màng vi khuẩn mà PS
đang bám vào.34 Các nghiên cứu mở
rộng trong labo cho thấy khi sử dụng
độc lập hai thành phần này không có tác
động trên vi khuẩn hay mô bình thường;
chỉ khi kết hợp giữa PS và ánh sáng mới
kích hoạt tác động trên vi khuẩn.34
Một hệ thống được gọi là tiệt khuẩn
quang hoạt (LAD) đã được phát triển
dựa trên sự kết hợp giữa PS và một
nguồn sáng đặc biệt. PS tấn công
màng của vi sinh vật và gắn lên bề mặt
của chúng, hấp thu năng lượng từ ánh
sáng rồi giải phóng năng lượng này
qua sự hình thành oxy, chuyển thành
dạng phản ứng tiêu diệt vi sinh vật một
cách hiệu quả. LAD hiệu quả không chỉ
với vi khuẩn, mà còn các VSV khác bao
gồm cả virus, nấm và ĐV nguyên sinh.
PS ít có ái lực với tế bào của cơ thể, vì
thế bài thử nghiệm độ độc báo cáo
không có tác dụng phụ của phương
pháp điều trị này.
Hình 4
Cần cẩn thận đảm bảo lượng PS đưa
vào là tối đa, vì việc chúng tiếp xúc với
vi khuẩn hay không là rất quan trọng,
nếu không thì sẽ không có hiệu quả.
Thêm vào đó, LAD có vẻ hiệu quả
không chỉ trên vi khuẩn tự do mà còn ở
màng biofilm.5 Hướng nghiên cứu hiện
nay là đánh giá khả năng tăng cường
hiệu quả LAD trên biofilm, kết hợp lợi
ích của liệu pháp quang động lực với
lợi ích của bioactive glasses và các
phân tử nano sẽ được trình bày ở phần
sau. Hiện tại LAD chưa được cân nhắc
làm phương án thay thế, mà là một sự
bổ sung cho các protocol đang được
sử dụng để tiệt khuẩn.5
Hình 3
Sử dụng hệ thống bơm
rửa chóp áp lực âm để
tăng cường làm sạch.
Hình 4
Tiệt khuẩn quang hoạt để
tăng cường làm sạch ống
tủy.
— Laser
Một trong những nhược điểm chính của
dung dịch bơm rửa nội nha hiện tại là
tác dụng kháng khuẩn của chúng hạn
chế chủ yếu tại ống tủy chính. Trong
lĩnh vực nội nha, một vài loại laser khác
nhau đã được sử dụng để cải thiện khả
năng khử trùng ống tủy: laser diode,
laser CO2, Er:YAG laser và Nd:YAG
laser. Hiệu quả diệt khuẩn phụ thuộc
vào đặc trưng của bước sóng và năng
lượng, trong đa số các trường hợp dựa
vào hiệu ứng nhiệt.
Article
Endodontics
issue 2016 — 73
Các hiệu ứng nhiệt gây ra bởi tia laser
tác động trên tế bào vi khuẩn dẫn đến
những thay đổi trong gradient thẩm
thấu gây chết tế bào.36 Năng lượng
laser phát ra từ mũi của đầu quang
được hướng dọc theo ống tủy và
không theo hướng ngang về phía thành
tủy. Để khắc phục hạn chế này, một hệ
thống phẩn bổ mới đã được phát triển.
Hệ thống này bao gồm một ống cho
phép sự phát tia sang hai bên thay vì đi
qua một lỗ mở duy nhất ở đầu cuối.
Mục tiêu của sự thay đổi này là để
nâng cao hiệu quả kháng khuẩn của
laser thâm nhập và tiêu diệt vi khuẩn tại
các thành ống tủy và trong các ống
ngà. Tuy nhiên, việc loại bỏ hoàn toàn
biofilm và vi khuẩn là chưa thể thực
hiện, và hiệu quả của laser đã được
tìm thấy là ít liên quan so với hiệu quả
cổ điển của NaOCl.37 Tóm lại, hiện tại
chưa có bằng chứng mạnh mẽ để ủng
hộ ứng dụng laser năng lượng cao vào
khử trùng ống tủy trực tiếp.38
— Ozone
Ozone là dạng thù hình của oxy không
ổn định và giàu năng lượng, nhanh
chóng phân ly trong nước và giải
phóng dạng hoạt động của oxy gây oxy
hóa tế bào. Người ta đã đưa ra giả thiết
rằng ozone có hiệu quả kháng khuẩn
mà không gây kháng thuốc và cũng vì
lý do này mà nó cũng được sử dụng
trong nội nha. Tuy nhiên, kết quả của
các nghiên cứu hiện tại về hiệu quả
của nó trong nội nha còn đang mâu
thuẫn,39 đặc biệt trong tác dụng với
biofilm. Hiệu quả kháng khuẩn của
ozone được thấy là không thể so sánh
và kém hơn NaOCl.39
Các hạt nano được tổng hợp từ bột của
bạc, đồng oxit hoặc kẽm oxit hiện đang
dùng để kháng khuẩn. Thêm vào đó,
các hạt nano có thể thay đổi đặc tính
hóa học và vật lý của ngà, giảm độ bám
của vi khuẩn lên ngà, từ đó hạn chế sự
xâm nhập và hình thành màng biofilm
của vi khuẩn. Ở bất cứ trường hợp
nào, khả năng thành công của việc ứng
dụng các hạt nano trong nội nha sẽ phụ
thuộc vào khả năng đưa được chúng
tới những vị trí phức tạp nhất của hệ
thống giải phẫu ống tủy.
Thủy tinh hoạt tính
sinh học
Gần đây, thủy tinh hoạt tính sinh học
(Bioactive glass) hay sứ-thủy tinh hoạt
tính sinh học (bioactive glass-ceramics)
đã trở thành một vật liệu thú vị để cân
nhắc nhờ vào đặc tính kháng khuẩn của
nó, tuy nhiên lại có rất nhiều kết quả xung
đột khác nhau.5
Chiết xuất thực vật
Một xu hướng hiện nay là sử dụng
chiết xuất thực vật (natural plant
extracts) nhờ vào ưu điểm kháng
khuẩn của phân tử polyphenol thường
được sử dụng để lưu trữ thực phẩm.
Người ta thấy các hợp chất này có hiệu
quả kháng khuẩn kém, nhưng một vài
người khác chứng minh chúng có khả
năng đáng kể trong việc giảm hình
thành biofilm, mặc dù cơ chế của việc
này còn chưa rõ ràng.5
— Các kĩ thuật không sử dụng dụng cụ
Thử nghiệm phương pháp làm sạch mà
không sửa soạn ống tủy đầu tiên được
tiến hành bởi Lussi và cs.40 Kĩ thuật này
không mở rộng ống tủy vì không có tác
— Các hệ thống kháng khuẩn thay dụng cơ học lên thành ống tủy. Trong
thực tế, làm sạch ống tủy bằng NaOCl
thế
Các phân tử nano
ở nồng độ thấp, đưa vào và hút ra khỏi
Các phân tử nano có kích thước từ 1 - ống tủy bằng bơm chân không và
100nm có đặc tính kháng khuẩn và xu piston điện tạo ra áp lực xen kẽ trong
hướng giảm kháng thuốc rất nhiều so ống tủy. Điều này gây ra vỡ các bong
với kháng sinh thông thường. VÍ dụ, bóng tạo ra và xáo trộn thủy động lực
phân tử nano magie oxit, calci oxit hoặc học tạo điều kiện cho NaOCl thâm
kẽm oxit là các chất kìm khuẩn hoặc nhập vào các nhánh ống tủy. Sau đó,
diệt khuẩn. Nó tạo ra oxy dạng hoạt ống tủy được trám bằng cement đưa
động gây hiệu quả kháng khuẩn thông vào bằng chính bơm này. Hệ thống này
qua tương tác tĩnh điện giữa các hạt không chứng tỏ được hiệu quả đáng kể
nano mang điện tích dương và các tế và chưa bao giờ được bán trên thị
bào vi khuẩn tích điện âm, tích tụ một trường.
số lượng lớn hạt nano lên màng vi
Gần đây, một phương pháp đã được
khuẩn làm tăng tính thấm của tế bào phát triển để làm sạch toàn bộ hệ thống
làm chúng bất hoạt.
ống tủy thông qua việc sử dụng sóng
âm phổ rộng truyền trong dung dịch
bơm rửa để loại bỏ mô tủy, mùn ngà và
vi khuẩn một cách nhanh chóng. Một
nghiên cứu cho thấy kĩ thuật này có khả
năng hòa tan mô thử nghiệm với tỉ lệ cao
hơn đáng kể so với cách bơm rửa thông
thường.4 Cần nhiều nghiên cứu hơn để
xác định cách tiếp cận có hiệu quả
trong hệ thống ống tủy hay không khi
can thiệp tối thiểu hoặc thậm chí không
sửa soạn ống tủy.
Kết luận
Dựa trên những hiểu biết hiện tại, bệnh
học nội nha là nhiễm trùng do vi khuẩn
gây ra đặc biệt là màng biofilm. Từ góc
độ sinh học, các liệu pháp nội nha nên
hướng tới việc loại trừ các vi sinh vật
và ngăn chúng tái nhiễm khuẩn. Thật
không may, hệ thống ống tủy với giải
phẫu phức tạp của nó là một môi
trường thách thức để loại bỏ vi khuẩn
một cách hiệu quả và biofilm gắn với
thành ống tủy. Sửa soạn cơ hóa học
bao gồm sửa soạn bằng dụng cụ và
bơm rửa kháng khuẩn, đây là pha quan
trọng nhất để khử khuẩn trong ống tủy.
Các tiến bộ về kĩ thuật đã mang tới
những cải thiện đáng kể trong khả năng
tạo hình ống tủy với ít biến chứng hơn.
Trong việc xử trí các ống tủy nhiễm
khuẩn, rất nhiều tác nhân kháng khuẩn
đã được sử dụng. Hơn nữa, một vài kĩ
thuật lâm sàng, ví dụ như cải thiện sửa
soạn tại chóp và hệ thống bơm rửa
hiệu quả hơn có thể nâng cao và giúp
việc loại bỏ vi khuẩn trong ống tủy trở
nên dễ đoán hơn, đặc biệt ở ống tủy có
giải phẫu phức tạp và những phần của
ống tủy không sửa soạn được bằng
dụng cụ.
Nguồn:
/>xt&pid=S0103-64402016000100003