DANH TỪ VIẾT TẮT
XNK
:
Xuất nhập khẩu
VN
:
Việt Nam
DN
:
Doanh nghiệp
KNXNK
:
Kim ngạch xuất nhập khẩu
DMVN
:
Dệt may Việt Nam
GDP
:
Thu nhập quốc nội
DMTQ
:
Dệt may Trung Quốc
NN&PTNT :
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NPL
:
Nguyên phụ liệu
SXKD
:
Sản xuất kinh doanh
CNDM
:
Công nghiệp dệt may
1
Lời mở đầu
Việt Nam là một trong những nớc đang phát triển trên thế giới nhng với chính sách
và đờng lối đổi mới phù hợp của Đảng, Nhà nớc trong mấy năm gần đây đã đa Việt Nam
lên ngang tầm với các nớc trong khu vực và có thể trở thành một nớc phát triển. Trên chặng
đờng đi lên thành nớc phát triển, Việt Nam đã rất nỗ lực vơn lên từng bớc. Một trong những
con đờng mà Việt Nam lựa chọn đó là Đẩy mạnh hoạt động Xuất - Nhập khẩu. Bởi kết quả
của hoạt động này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nớc, do đó mà nó ảnh hởng đến
tổng cầu của nền kinh tế. Khi cán cân thanh toán Xuất Nhập - khẩu có mức xuất siêu sẽ
làm cho mức chi tiêu giảm, từ đó tác động đến GDP. Mặt khác, Việt Nam lại đợc thiên
nhiên u đãi cho nhiều điều kiện thuận lợi để có thể đẩy mạnh đợc hoạt động này nh: với
nguồn thuỷ hải sản dồi dào đã tạo điều kiện cho khai thác, chế biến thuỷ sản, rồi dân số
đông Đặc biệt, với nền văn minh lúa nớc cùng với khí hậu phù hợp đã làm cho xuất khẩu
nông lâm thuỷ sản lớn mạnh không ngừng. Từ những hoạt động xuất khẩu hiệu quả
đã ảnh hởng trở lại với hoạt động nhập khẩu, giúp ta tích luỹ đợc nhiều vốn để nhập máy
móc, thiết bị hiện đại, linh kiện điện tử hay những công nghệ tiên tiến của các nớc phát
triển để phục vụ cho công cuộc cải cách, phát triển toàn diện của nớc ta. Và do đó lại đa
kinh tế phát triển lên một bớc cao hơn. Chính vì vậy mà Xuất Nhập khẩu đã đóng góp một
tỷ trọng đáng kể vào GDP của Việt Nam và là một trong những nguồn nội lực quan trọng
thúc đẩy phát triển kinh tế. Có thể nói Xuất Nhập khẩu một chặng đờng phát triển nằm
trong chặng đờng đa Việt Nam trở thành một nớc phát triển, một con rồng Châu á trong tơng lai.
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
www.google.com
2.
ww.vinaseek.com
3.
4.
5.
www.mpi.gov.vn
6.
7.
8.
9.
ww.mot.gov.vn
10.
11.
Tạp chí “ Nghiên cứu kinh tế”
12.
Tạp chí “ Kinh tế và dự báo”
13.
Đặc san của Báo Quốc Tế
14.
Niên giám thống kê năm 2003
Niên giám thống kê năm 1990, 1995, 2000, 2005
3
XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NHÌN LẠI MỘT
CHẶNG ĐƯỜNG
I/
Tổng quan về xuất - nhập khẩu của Việt Nam...........................
I.1/ Giới thiệu vài nét về Việt Nam.......................................................................................
I.2/ Xuất - nhập khẩu của Việt Nam....................................................................................
II/ Xuất khẩu của Việt Nam.............................................................
1/ Những thành tựu chung về xuất khẩu của Việt Nam................................................
2/ Thị trường Xuất khẩu...................................................................................................
II.1/ Xuất khẩu hàng nông – lâm sản của Việt Nam............................................................
1/ Một số thị trường lớn của nông – lâm sản xuất khẩu..................................................
2/ Đánh giá về xuất khẩu hàng nông – lâm sản của Việt Nam........................................
/ Những lợi thế trong xuất khẩu nông – lâm sản của Việt Nam..................................
/ Những bất lợi trong xuất khẩu nông – lâm sản của Việt Nam..................................
3/ Mục tiêu phát triển nông – lâm sản xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010.......................
II.2/ Xuất khẩu thủy hải sản..................................................................................................
1/ Những thành tựu mà ngành thủy sản đã đạt được......................................................
2/ Những khó khăn và hạn chế còn tồn tại của ngành thủy sản Việt Nam trên bước
đường phát triển......................................................................................................................
3/ Biện pháp khắc phục để đưa ngành thủy sản đi lên một cách bền vững....................
3.1/ Đối với vấn đề vốn, thị trường và nguyên liêu............................................................
3.2/ Đối với vấn đề dư lượng hóa chất kháng sinh trong sản phẩm thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam.................................................................................................................
II.3/ Xuất khẩu dệt may của Việt Nam..................................................................................
III/ Tình hình nhập khẩu của Việt Nam...........................................
III.1/Những thành tựu chung về nhập khẩu của Việt Nam.................................................
III.2/Về nhập khẩu ô tô...........................................................................................................
IV/ Thương hiệu trong phát triển thương mại quốc tế.....................
IV.1/ Mở đầu............................................................................................................................
IV,2/ Những thuận lợi cho việc tạo lập thương hiệu.............................................................
IV.3/ Những mặt hạn chế của thương hiệu Việt Nam...........................................................
IV.4/ Để có thương hiệu thành công......................................................................................
4
V/ Chống bán phá giá.......................................................................
V.1/
/
V.2/
/
Bán phá giá là gì?...........................................................................................................
Các yếu tố làm tăng nguy cơ chống bán phá giá........................................................
Các biện pháp đối phó với chống bán phá giá..............................................................
Bài học từ vụ kiện chống bán phá giá cá basa và tôm...............................................
VI/ Định hướng phát triển xuất - nhập khẩu.
5
I/ Tổng quan về xuất, nhập khẩu của Việt Nam
I.1) Giới thiệu vài nét về Việt Nam.
Việt Nam là một nước
có diện tích 331211,6 km2,
với số dân là 84115,8 nghìn
người ( theo thống kê của
năm 2006)
Nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một
dải đất hình chữ S nằm ở
trung tâm khu vực Đông
Nam Á, ở phía Đông bán
đảo Đông Dương, phía Bắc
giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía Đông Nam trông ra biển Đông và
Thái Bình Dương. Việt Nam là đầu mối giao thông từ Đông Nam Á sang Thái Bình
Dương. Do đó Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mối quan hệ hợp tác,
giao thông buôn bán với các nước trên thế giới và trong khu vực. Bờ biển của Việt Nam
dài 3260 km, biên giới đất liền dài 4510 km. Việt Nam là đầu mối giao thông từ Đông
Nam Á sang Thái Bình Dương. Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc (2360 con
sông dài trên 10 km) chảy theo hai hướng chính là Tây Bắc – Đông Nam và hướng vòng
cung, rất thuận lợi cho việc phát triển ngành thuỷ - hải sản. Hai sông lớn nhất là sông Hồng
và sông MêKông tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông
suối hàng năm được bổ sung tới 310 tỷ m3 nước. Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì
cao, thuận lợi cho phát triển nông – lâm nghiệp. Ngoài ra Việt Nam còn có hệ thực vật
phong phú, đa dạng khỏng 14600 loài thực vật. Thảm thực vật chủ yếu là rừng nhiệt đới,
gồm các loại cây ưa ánh sáng, nhiệt độ lớn và độ ẩm cao.
Tóm lại, Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
I.2/ Xuất - nhập khẩu của Việt Nam.
Nếu lịch sử hình thành và phát triển của ngành thương mại Việt Nam trong hơn 60
năm qua (1946 – 2007) là một con đường hoành tráng thì xuất - nhập khẩu trong 20 năm
gần đây là những bước tiến vượt bậc về thành công của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo. Bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam có nhiều thành tựu
đáng kể: Tăng trưởng GDP hàng năm bình quân ở mức 70% trong vòng 20 năm. Trong khi
tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt trên 20%. Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 40 tỷ
USD trong năm 2006 tương đương 65% GDP, cao hơn gấp đôi so với con số của thập kỷ
trước.
6
Trong 20 năm (1986 -2005) kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới do đại hội toàn
quốc lần VI khởi xướng , thương mại quốc tế đã đạt được những thành tựu nổi bật. Xét về
mặt giá trị : Từ 1986 – 2005, xuất khẩu tăng từ 789 triệu USD lên 39600 triệu USD, tăng
50,2 lần , nhập khẩu từ 2155 triệu USD lên 44410 triệu USD tăng 20,6 lần . Tổng kim
ngạch xuất - nhập khẩu tăng từ 2944 triệu USD lên 84010 triệu USD, tăng 28,5 lần ( tính
theo giá hiện hành). Trong khi đó quy mô nền kinh tế tăng 3,86 lần (giá so sánh năm
1994), nếu tính theo USD hiện hành tăng 8,8 lần.
Trong giai đoạn 1990 – 2003 tổng trị giá xuất khẩu và nhập khẩu tăng mạnh, từ
5156,4 triệu USD năm 1990 lên 13604,3 triệu USD năm 1995,lên đến 45402,9 triệu USD
năm 2003, tăng xấp xỉ 9 lần. Trị giá xuất khẩu và nhập khẩu cũng tăng mạnh như : Xuất
khẩu tăng từ 2404,0 triệu USD năm 1990 lên tới 20176,0 triệu USD năm 2003, tăng gấp
8,5 lần ; Nhập khẩu tăng từ 2752,4 triệu USD năm 1990 lên 25226,9 triệu USD trong năm
2003, tăng gấp hơn 9 lần.
Tổng trị giá xuất khẩu và nhập khẩu giai đoạn 1990 – 2003 (triệu USD)
năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng số
5156,4
4425,2
5121,4
6909,2
9880,1
13604,3
18399,5
20777,3
20859,9
23283,5
30119,5
31247,0
36451,7
45402,9
Xuất khẩu
2404,0
2080,7
2580,7
2985,2
4054,3
5448,9
7255,9
9185,0
9360,3
11541,4
14483,0
15029,0
16706,1
20176,0
7
Nhập khẩu
2752,4
2338,1
2540,7
3924,0
5825,8
8155,4
1143,6
11592,3
11499,6
11742,1
15636,5
16218,0
19745,6
25226,9
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2003
Theo thống kê của bộ thương mại, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu năm nay
(2005) ước đạt 69,2 tỷ USD tăng trên 27 lần so với mức 2,556 tỷ USD của năm 1986.
Trong đó đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu đã tăng 46 lần. Từ 699 triệu USD năm 1986
lên mức dự kiến 32,2 tỷ USD năm 2005. Đồng thời kim ngạch nhập khẩu đang đi theo
chiều hướng tích cực từ hơn 1,8 tỷ USD năm 1986 lên 37 tỷ USD năm 2005 nghĩa là chỉ
tăng 17 lần .
Như vậy từ chỗ phải bù lỗ lớn cho hoạt động xuất - nhập khẩu những năm 1986,
đến nay ngân sách nhà nước đã có nguồn thu đáng kể từ lĩnh vực này.
Bên cạnh đó về thủ tục pháp lý, đến nay thương nhân của mọi thành phần kinh tế
được thành lập theo quy định của luật pháp đều được trực tiếp kinh doanh xuất khẩu, nhập
khẩu trong khi trước đâychỉ được thực hiện theo giấy phép của bộ thương mại. Cũng theo
bộ thương mại, đến nay đã có 35714 doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trực
tiếp tăng xấp xỉ 1000 lần so với năm 1986.
Có thể nói năm 2006 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam với một loạt các sự kiện giúp Việt Nam hội nhập toàn diện
hơn và sâu hơn vào nền kinh tế thế giới thông qua các kênh đa phương và song phương
như : Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO từ ngày 7/11/2006 ( chính
8
thức là ngày 12/1/2007 ) ; Sự kiện Việt Nam tổ chức thành công hội nghị thượng đỉnh
APEC. Và nếu như năm 2006 cả nước xuất khẩu 39,6 tỷ USD (trị giá tại cảng đi), nhập
khẩu 44,4 tỷ USD (trị giá tại cảng đến), cán cân thương mại tuy nghiêng về nhập khẩu, ta
nhập siêu 4,8 tỷ USD thì chỉ trong 7 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt
trên 27 tỷ USD trong khi nhập khẩu lên tới con số 32,2 tỷ USD tăng trên 30% so với cùng
kỳ năm 2006 bằng 72,55 so với năm 2006 và mức nhập siêu đã đạt tới con số 5 tỷ USD.
Tính chung 8 tháng đầu năm 2007, cả nước nhập siêu 8,4 tỷ USD hàng hóa. Theo
dự báo của Bộ Công thương, con số siêu nhập đến cuối năm 2007có thể lên đến trên 8 tỷ
USD. Về cơ cấu nhập khẩu năm 2006 khoảng 70% là hàng nguyên vật liệu phục vụ sản
xuất để tái xuất khẩu và sản xuất trong nước, bao gồm các mặt hàng : gỗ, nguyên vật liệu ,
bột giấy, đồng nguyên liệu, bông và sợi các loại, phân bón, sắt thép, da nguyên liệu, máy
móc, thiết bị…các mặt hàng tiêu dùng khác chiếm khoảng 30% thì trong 7 tháng đầu năm
2007 kim ngạch nhập khẩu vẫn chủ yếu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như máy móc,
thiết bị dụng cụ, phụ tùng ước tính đạt 4,4 tỷ USD, tăng tới 46,4% so với cùng kỳ;; xăng
dầu 3,3 tỷ USD, tăng 8,2%; sắt thép 2,15 tỷ USD , tăng 60,9%, hóa chất tăng 47,1%
Có luồng ý kiến cho rằng : tỷ lệ nhập siêu như trên là không đáng lo. Trong 6 tháng
đầu năm, chúng ta triển khai nhiều dự án công nghiệp lớn như tổ hợp quặng sắt, quặng
boxít, dự án lọc dầu Dung Quất, tổ hợp khí điện đạm Cà Mau…nên nhu cầu nhập máy móc
thiết bị phục vụ cho sản xuất rất lớn. Nhập siêu là rất cần thiết để phục vụ đổi mới kỹ thuật
công nghệ và sản xuất, tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên dù theo luồng ý kiến nào thì việc
cân đối cán cân xuất - nhập trong ngưỡng cửa hợp lý là việc mà bất cứ chính phủ nào cũng
nhắm tới. Nếu không sớm có những giải pháp từ cấp quản lý vĩ mô, khi các cam kết gia
nhập WTO của Việt Nam ngày càng mở rộng sẽ làm cho sản xuất trong nước bị phụ thuộc
thậm chí bị bóp chết. Khi đó sự mất cân đối giữa xuất nhập sẽ tăng cao, tạo những bất lợi
cho nền kinh tế của đất nước.
II.
1,
Xuất khẩu của Việt Nam
Những thành tựu chung về xuất khẩu của Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các nước là
thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế và phát triển trong
mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Hoạt đông xuất nhập khẩu còn là yếu tố
quan trong nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ,
tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhấn mạnh vai trò của thương mại trong quá trình phát triển và hội nhập với kinh tế
thế giới trong một bài phát biểu mới đây, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định: “ Xuất
khẩu có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế” (Vietnamnet ngày 24/11/2006).
Trong 3 năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu đóng góp cho GDP luôn ở mức trên 60%. Tốc độ
xuất khẩu bình quân năm giai đoạn 2001 – 2005 đạt 16,9% so với 21% của giai đoạn 1991
– 2000. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của các nhóm hàng giai đoạn 2001 -2005 đều giảm
9
hơn so với giai đoạn 1999 -2000. Xét về cơ cấu, tỷ trọng xuất khẩu của ngành công nghiệp
nhẹ tăng nhanh nhất từ năm 1990 lên 30,4% năm 2000 đạt 37,2% năm 2005. Nguyên nhân
do tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 -2005 thấp hơn giai đoạn 1991 – 2000, do
đó tỷ trọng giảm từ 42,5% năm 1990 xuống còn 31,7% năm 2005.
10
Giá trị xuất khẩu theo nhóm hàng ( đơn vị triệu USD, hiện hành )
Năm
1990
Tổng
kim
ngạch
CNN và
khai
khoáng
CN nhẹ
Nông
sản
Lâm sản
Thủy
sản
Khác
1995
2000
2005
Tốc độ tăng trưởng bình quân
(%)
1991 - 2000
2001 - 2005
2404,0
5448,9
16117,0
35180,6
21,0
16,9
616,9
1377,7
5382,1
10965,4
24,2
15,3
635,8
1549,8
4903,1
13074
22,7
21,7
783,2
1745,8
4197,5
8402,5
18,3
14,9
126,5
153,9
155,7
2,1
3,8
239,1
621,4
1478,5
2738,7
20,0
13,1
2,5
0,3
0,0
0,0
Nguồn : Niên giám thống kê 1900, 1995, 2000, 2005.
Cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng (đơn vị (%) )
Năm
Tổng kim ngạch
1990
1995
2000
2005
100
100
100
100
CNN và khai khoáng
25,7
26,4
32,4
5,3
9,9
0,1
25,3
28,4
32,0
2,8
11,4
0,0
33,4
30,4
26,0
1,0
9,2
0,0
31,2
37,2
23,9
0,0
7,8
0,0
CN nhẹ
Nông sản
Lâm sản
Thủy sản
Khác
Nguồn : Niên giám thống kê năm 1990, 1995, 2000, 2005.
2,
Thị trường xuất khẩu : Xuất khẩu đã tăng ở hầu hết các khu vực và đang
chuyển dịch từ châu Á sang châu Âu và châu Mỹ, trong đó châu Á – Thái Bình Dương
tăng 19%; châu Âu tăng 27%; châu Mỹ tăng 33,4%; châu Phi – Tây Nam Á tăng 77,1% so
với năm 2005. Tuy vậy châu Á, Châu Đại Dương vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất đạt
20,84 tỷ USD chiếm 52,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; Châu Mỹ đạt 9,2 tỷ USD chiếm
23,1%; Châu Âu đạt 7,65 tỷ USD chiếm 14,2%; Châu Phi – Tây Nam Á đạt 2,1 tỷ USD
chiếm 5,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhiều thị trường mới, nhiều mặt hàng mới được
khai thác rất có triển vọng, rõ nhất ở khu vực Nam Mỹ, châu Phi, Nam Âu, Đông Âu, Nga
11
và SNG. Cán cân thương mại đang được cải thiện, tình trạng nhập siêu lớn từ châu Á đang
được khắc phục từng bước, trong đó nhập siêu năm 2006 từ Singapo là 4,6 tỷ USD, Trung
Quốc 4 tỷ USD, Đài Loan 3,8 tỷ USD, Hàn Quốc 2,9 tỷ USD, Thái Lan 1,9 tỷ USD, Hồng
Kông 0,9 tỷ USD.
Thị trường xuất khấu nông - lâm sản
Trong giai đoạn hiện nay cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện, giảm
tỷ trọng hàng nông, lâm, hải sản, hàng hóa chưa qua chế biến…Các mặt hàng xuât khẩu
của Việt Nam rất phong phú và đa dạng.Dưới đây chúng ta sẽ đi sâu tập trung phân tích về
một số mặt hàng xuất khấu chủ yếu của Việt Nam.
II.1/ Xuất khẩu hàng nông, lâm sản của Việt Nam.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, có xuất phát điểm từ sản
xuất nông nghiệp, do đó sản xuất nông nghiệp vẫn rất được chú trọng. Thực tế cho thấy
trong giai đoạn vừa qua , hàng nông, lâm sản vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Bình quân thời kỳ 1995-2000
kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm sản chiếm khoảng 70% và hàng thủy sản chiếm 25%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.Trong hàng nông sản xuất khẩu lúa
gạo vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất đạt(23,8%), thứ đến là cà phê (13,5%), hạt điều (4,4%) và
cao su(3,2%), còn rau quả chiếm tỷ trọng quá nhỏ (mới chiếm từ 0,5 đến 1,4%), chưa
tương xứng với tiềm năng của ngành. Nhưng xét về tốc độ gia tăng giá trị kim ngạch thì
rau quả tăng rất nhanh, thứ đến là hồ tiêu hạt với chỉ số tăng 51% rồi đến cà phê (28%) và
cao su(22%).
Đặc biệt trong thời gian qua, giá cả thị trường thế giới luôn luôn biến động, gây bất lợi
cho hàng xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Khối lượng hàng nông sản xuất khẩu tuy có
tăng lên năm sau cao hơn năm trước nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu lại tăng lên không
tương xứng, vì giá bán của ta giảm xuống. Ví dụ năm 1999, gạo của ta xuất khẩu được 4,5
triệu tấn tức là tăng 19,3% so với năm 1998, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng lên
12
9,1%. Cao su năm 1999 xuất khẩu được 265000 tấn, tăng hơn năm 1998 là 38,7% nhưng
kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng thêm được 14,8%.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, ngành
nông nghiệp cũng đạt được nhiều kết quả khả quan, trong đó phải kể tới xuất khẩu nông,
lâm sản đã duy trì ở mức tăng trưởng cao, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người
bà con nông dân. Điều đáng mừng là sản xuất phát triển mạnh, hàng hóa nông sản đã đáp
ứng một cách cơ bản cho nhu cầu thị trường, với chủng loại sản phẩm đa dang, phong phú
và chất lượng.
Hơn thế nữa năng lực chế biến nông, lâm sản ngày càng được tăng cường. Kim ngạch
xuất khẩu nông, lâm sản từ 1989-1997 đạt trên 10000 triệu USD, bình quân hàng năm tăng
gần 20%. Trong 9 năm từ 1990-1999 kim ngạch xuất khẩu nông, lâm sản đã tăng 3,3 lần từ
909 triệu USD lên trên dưới 3,3 tỷ USD. Rau quả có mức xuất khẩu tăng trên 30% một
năm trong 3 năm gần đây. Một số mặt hàng đã có khả năng cạnh tranh và chiếm vị thế
đáng kể trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, điều…và có tỷ lệ xuất khẩu cao
như là cà phê, hạt tiêu, hạt điều trên dưới 95%, cao su 85%, chè 65%, lúa gạo 20%.
Trong giai đoạn 2003-2005 xuất khẩu nông sản Việt Nam đã có sự tăng trưởng đều đặn
từ 11,5% năm 2003 lên 26,6% năm 2004 và 61,5% năm 2005. Trong hai năm gần đây
2005-2006 mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, nhất là tại thị trường nước
ngoài nhưng xuất khẩu hàng hóa của Việt nam vẫn đạt được những thành tích đáng ghi
nhận. Khối lượng hàng hóa xuất khẩu ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước. Theo
báo ViêtNam Net số ra ngày 24/11/2006 trong 3 năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu đóng góp
cho GDP luôn ở mức trên 60%. Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng tiếp tục được
mở rộng.Cho đến nay Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 220 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu vào 16 thị trường có kim ngạch trên 500 triệu
USD, trong đó có 6 thị trường ước đạt trên 1 tỷ USD. Đến năm 2006 trong số các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có thêm cao su và cà phê đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1
tỷ USD, nâng tổng số các mặt hàng có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên là 9 mặt hàng.
Tiếp theo đà phát triển của năm 2006, năm 2007 cũng đạt được những thành tựu đáng
kể. Năm 2007 đánh dấu một sự kiện trọng đại là Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO. Theo ông Cao Đức Phát, bộ trưởng bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông
thôn, “ năm 2007 sẽ là năm hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp Việt Nam”.
Ông cho rằng “ Gia nhập WTO sẽ đem lại những cơ hội tíêp cận thị trường, mở rộng sản
xuất, mặ khá nganh Nông nghiệp và PTNT sẽ phải đối mặt với những thách thức khi thực
hiện các cam kết mở cửa thị trường và điều chỉnh chính sách.Theo thống kê từ bộ Nông
Nghiệp và PTNT, trong 9 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm , thủy
sản đạt khoảng 9,5 tỷ USD với nhiều mặt hàng chủ lực đều đạt mức tăng trưởng cao so với
năm trước. Vào thời điểm hiện nay, lần đầu tiên giá gạo Việt Nam xuất khẩu ngang với giá
gạo cùng loại của Thái Lan, thậm chí có loại Việt Nam trúng thầu với giá cao hơn. Mức
giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện đạt bình quân 293 USD một tấn., tăng 42 USD/1 tấn
13
so với năm 2006. Trong 9 tháng đầu năm, lượng gạo xuất khẩu đã đạt gần 4,1 triệu tấn với
kim ngạch xấp xỉ 1,3 tỷ USD.
Hiện cà phê cũng là một nông sản đang thuận lợi về thị trường và giá. Xuất khẩu cà
phê 9 tháng đầu năm đạt sản lượng là 975000 tấn, kim ngạch 1,47 tỷ USD. Đây được coi là
mức tăng xuất khẩu cà phê kỷ lục của những năm gần đây. Được biết Hoa Kỳ và Cộng
Hòa Liên Bang Đứcvẫn là hai nước dẫn đầu nhập cà phê của Việt Nam. Hiện mặt hàng cà
phê xuất khẩu của Việt Nam đã mở rộng thị trường đến tận các nước Mỹ La Tinh như
Mexico, Ecuador…
Lượng cao su xuất khẩu tháng 9 năm 2007 vẫn xấp xỉ cùng kỳ năm trước với khoảng
502000 tấn , kim ngạch đạt 942 triệu USD.
Xuất khẩu hạt điều cũng đạt mức tăng trưởng khá với sản lượng 9 tháng đầu năm 2007
là 111000 tấn, kim ngạch đạt 466 triệu USD, tăng 22% về lượng và tăng 27% về giá trị so
với cùng kỳ năm trước.
Đối với hạt tiêu, Việt Nam là nước xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Trong 9 tháng,
lượng xuất khẩu đạt khoảng 68000 tấn, trị giá 218 triệu USD, tăng tới 34% so với cùng kỳ
năm trước.
Cũng theo thống kê của bộ Nông Nghiệp và PTNT, các mặt hàng rau quả, lạc nhân
trong 4 tháng đầu năm đã đạt mức tăng trưởng khả quan, xuất khẩu rau quả đã đạt mức trên
103 triệu USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2006; lạc nhân xuất khẩu đạt kim ngạch hơn
11 triệu USD, tăng 183% so với năm trước.
Các mặt hàng lâm sản xuất khẩu trong cùng kỳ đã đạt mức 858,5 triệu USD tăng 22%
so với cùng kỳ năm 2006. Trong số này, sản phẩm gỗ xuất khẩu đạt 769,8 triệu USD tăng
23%, mặt hàng mây, tre, cói thảm đạt kim ngạch 73 triệu USD, tăng 19,5%. Sản phẩm quế
đạt 3,6 Triệu USD tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước…Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn
Quốc vẫn là những quốc gia dẫn đầu các mặt hàng lâm sản, gỗ…từ Việt Nam.
Ngoài ra, xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ cũng tăng mạnh. Tổng kim ngạch xuất khẩu lâm
sản ngoài gỗ hiện nay đạt gần 200 triệu USD một năm, dự kiến sẽ tăng bình quân 1015%/năm, đạt 700-800 triệu USD/năm vào năm 2020. Theo số liệu chưa đầy đủ Việt Nam
có khoảng 88 doanh nghiệp chế biến tre trúc với năng lực khoảng 250000 tấn.Có 40 công
ty chế biên song mây với năng lực khoảng 100000 tấn/năm và có khoảng 700 làng nghề
mây tre đan với số lao động là 342000 người. Có 5 nhà máy chế biến nhựa thông với năng
lực 15000 tấn/năm. Ngoài ra có rất nhiều cơ sở chế biến lâm sản ngoài gỗ như dầu nhựa,
tinh dầu, dược liệu…Nông sản ngoài gỗ của Việt Nam hiện xuất khẩu sang gần 90 nước và
vùng lãnh thổ. Tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ hàng năm đạt gần 200triệu
USD trong đó hàng mây tre đan chiếm tỷ trọng chủ yếu( hơn 70%).
1,
Một số thị trường lớn của nông, lâm sản xuất khẩu Việt Nam.
Trung Quốc (cả Hồng Kông) có thị trường lớn, gần, tiêu thụ rất nhiều loại nông sản, thị
hiếu gần với sản phẩm của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc thường đạt
14
khoảng 400 - 500 triệu USD/năm, chủ yếu là cao su trên 100000 tấn; gạo từ vài chục ngàn
tấn đến vài trăm ngàn tấn; hạt điều khoảng 10000 tấn, rau quả các loại trên 100 triệu USD.
Các nước Asean: gần nước ta về địa lý nên nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng hàng nông sản
gần gũi với Việt Nam. Gạo là mặt hàng chính xuất khẩu sang 3 nước : Malaysia, Indonesia,
Philippines, từ một triệu tới 3 triệu tấn. Các mặt hàng khác: Hồ tiêu, hạt điều, cà phê…xuất
sang các nước này chủ yếu qua trung gian Singapo, Thái lan …Tổng kim ngạch xuất khẩu
năm 2000 sang Asean đạt gần 500 triệu USD.
Các nước Trung Đông: (Iraq, Iran…) đang tiêu thụ nhiều loại nông sản của ta như gạo,
chè, hồi, quế…với kim ngạch đạt gần 200 triêu USD/ năm.
Các nước EU: Với thị trường này, kim ngạch xuất khẩu khoảng 300 - 350 triệu USD/
năm, chủ yếu là cà phê, gạo, cao su, hạt tiêu, đồ gỗ thành phẩm nhất là đồ gỗ ngoài trời, hạt
điều, chè và một số quả nhiệt đới đã chế biến.
Nga và các nước Đông Âu: Hiện nay xuất khẩu sang các nước này giảm đi so với trước
do rủi ro cao, phải cạnh tranh với nhều nước như EU, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ…Kim ngạch xuất
khẩu đạt khoảng 50-60 triệu USD/ năm, chủ yếu là gạo, cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, rau
quả…Đây là các thị trường truyền thống đã từng tiêu thụ một lượng lớn hàng nông sản
Việt Nam, đang phục hồi nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, vì thế chính sách hỗ trợ xuất
khẩu vào thị trường nàyđối với một số mặt hàng nhu thịt, rau quả, gia vị, chè là cần thiết.
Mỹ : Kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt trên 100 triệu USD /năm, trong đó hạt điều, hồ
tiêu, cà phê chiếm khoảng gần 90%. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là một điều kiện thuận
lợi cho hàng nông sản Việt Nam xâm nhập thị trường nước này
Nhật: Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường này mới ở mức 40 - 50
triệu USD/ năm với các mặt hàng chủ yếu là cà phê, cao su, chè, tơ tằm và một số rau quả
chế biến, nấm, điều, lâm sản…Nhật là thị trường đòi hỏi chất lượng cao, nghiêm ngặt về
tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng rào bảo hộ chuẩn cho sản xuất
nông nghiệp rất cao.
2,
Đánh giá về xuất khẩu hàng nông - lâm sản Việt Nam
Ông Đoàn Xuân Hòa, phó cục trưởng cục chế biến nông, lâm sản và nghề muối nhận
xét về sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thế giới “ Nhiều mặt hàng nông sản có
kim ngạch xuất khẩu lớn, chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới, điển hình là gạo xếp thứ
hai thế giới, cà phê thứ hai, cao su trên 1 tỷ USD, hạt điều thứ nhất, …Tuy nhiên nếu xét
về năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới tghì nông sản Việt Nam còn rất nhiều hạn
chế. Các sản phẩm nông – lâm nghiệp, thủy sản có kim ngạch xuất khẩu lớn chủ yếu là nhờ
vào sự gia tăng số lượng và được lợi về giá cả do biến động của thị trường. Hầu hết nông
sản xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng thấp. Các yếu tố phát triển theo chiều sâu như
công nghệ, thể chế, trình độ nhân lực cao …chưa đủ để đáp ứng cũng như chưa tận dụng
và phát huy tốt.
Nhìn nhận lại ngành nông nghiệp nước ta, mặc dù đã chuyển sang sản xuất hàng hóa
15
song điểm xuất phát vẫn thấp. Trước hết đó là tình trạng manh mún về ruộng đất cản trở
đến khả năng sản xuất quy mô lớn, chuyên canh để có năng suất, sản lượng sản phẩm đủ
lớn và đồng đều, đáp ứng nhu cầu thị trường. Kỹ thuật hạ tầng thấp kém nhất là hệ thống
dịch vụ tiêu thụ nông sản; nghiên cứu chuyển giao và áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng
cao giá trị gia tăng sản phẩm tiến hành một cách chậm chạp, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn
là một thách thức nghiêm trọng…
•
Những lợi thế trong xuất khẩu nông – lâm sản của Việt Nam
Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lới cho việc phát triển sản
xuất một số rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai tây…Các đối thủ
cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự
nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động
Ngành nông, lâm sản sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất kinh doanh . Đây
là một ưu thế quan trọng của ngành vì hiện nay giá nhân công ở nước ta rẻ.
Một số ít các mặt hàng được các nước phát triển ở châu Âu ; Bắc Mỹ ưa chuộng như
nhân hạt điều, dứa, lạc…có thể trồng ở Việt Nam trên đất bạc màu, đất phèn mặn, tăng khả
năng mở rộng sản xuất.
Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày
càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng với quá trình tự do hóa trong khu vực và toàn
cầu.
•
Những bất lợi trong xuất khẩu nông – lâm sản của Việt Nam.
Nhìn chung tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa
đồng đều và ổn định.
So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo
chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU,
Bắc Mỹ . Thêm vào đó , kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản, dự trữ,
bốc xếp hàng hóa rất yếu kém nên giá thành và các chi phí gián tiếp khác tăng nhanh.
Năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu hàng nông – lâm sản
chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại.
Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung diện mặt
hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại.
Bộ máy quản lý hành chính nhà nước vẫn còn quan liêu trì trệ, chưa thông thoáng và
bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nướclàm tăng giá thành
sản xuât.
Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông – lâm sản của Việt Nam tuy đã đạt
được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn còn
nhiều tồn tại và bất lợi, đòi hỏi được xử lý một cách dứt điểm đồng bộ.
3,
Mục tiêu phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010.
Từ việc nắm bắt được những bất lợi , thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu, Việt
16
Nam ó ra chin lc phỏt trin nụng nghip v nụng thụn n nm 2010, ra mc
tiờu v bin phỏp y mnh sn xut v xut khu trờn c s chuyn i c cu sn xut v
chuyn giao khoa hc cụng ngh vo sn xut nụng, lõm nghip, y mnh xut khu phn
u n nm 2010 cú kim ngch xut khu t 8 - 9 t USD nõng cao v th ca Vit Nam
trong vic xut khu hng nụng, lõm sn trờn th trng th gii.
Phỏt biu ti hi ngh Thng mi ton quc din ra ti H Ni ngy 1-2/3/2006, Th
tng Phan Vn Khi cng nhn mnh rng, mc tiờu trong giai on ti phi y mnh
xut khu cao hn d kin ra. Vỡ vic tng trng xut khu cú tỏc ng ln ti ton b
nn kinh t; xut khu tng s thỳc y chuyn dch, to vic lm cho xó hi, vic tng
trng xut khu s tỏc ng tr li mi doanh nghip nhanh chúng ỏp dng khoa hc,
nng lc cnh tranh ca doanh nghip v hiu qu ca c nn kinh t. c bit Th tng
Phan Vn Khi nhn mnh, mc tiờu ca chỳng ta l hng n xut siờu, mun th phi
y mnh xut khu, gim dn nhp siờu v hng ti xut siờu tớch ly ngoi t. Kinh
nghim Trung Quc cho thy, sau 20 nm xut siờu liờn tc, nc ny ó cú d tr ngoi t
ln nht th gii. Vỡ vy Vit Nam cng cn hng ti xut siờu cú ngun lc tng
nhanh d tr ngoi tquc gia v õy chớnh l cụng c hiu qu i phú vi nhng bin
ng trờn th trng th gii.
II.2
Xuất khẩu thuỷ sản
Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu trên, thuỷ sản cũng là một ngành chiếm tỷ trọng
lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Với điều kiện tự nhiên, vùng biển có 4000
hòn đảo lớn nhỏ trong đó có những đảo lớn có dân c nh: Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn
Đảo, Phú Quốc có nhiều vịnh, vũng, eo, ngạchđã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành
thủy sản Việt Nam phát triển. Ngoài ra còn có nguồn lợi thủy sản nớc ngọt ở trong 2800
con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta đất ngập nớc, ao hồ, ruộng trũngđặc biệt là lu vực
sông Hồng và sông Cửu Long. Vì vậy mà ngành thuỷ sản Việt Nam đã đứng trên những u
thế thuận lợi của mình để đi lên phát triển thành một trong những mũi nhọn về xuất khẩu
của nớc ta.
Chặng đờng dài mà ngành thuỷ sản đã đi đợc thể hiện rõ nét trên những con số
trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản mà nó đã đạt đợc.
1) Những thành tựu mà ngành thủy sản đã đạt đợc
Ngành thuỷ sản Việt Nam đã đợc hình thành một cách tự nhiên dựa trên những điều
kiện tự nhiên thuận lợi, để rồi đã phát triển và tiến tới một ngnh th y sn cú kim ngch
xut khu ln nh hin nay. Năm 1993, Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ
5 khoá VII đã xác định xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Trớc những năm đổi mới nh năm 1981: Tổng sản lợng Thuỷ sản đạt 596,356 tấn,
giá trị kim ngạch xuất khẩu 11,2 triệu USD. Đến năm 1986: Tổng sản lợng đạt 840,906 tấn,
kim ngạch xuất khẩu là 100 triệu USD. Sau những năm đổi mới cùng với các ngành khác,
17
Thuỷ sản đã liên tục lớn mạnh cả về số lợng lẫn chất lợng. Trong những năm cuối thế kỷ
XX, ngành thuỷ sản đã thu đợc những kết quả quan trọng. Năm 2000 tổng sản lợng thuỷ
sản đã vợt qua mức 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu 1,475 tỷ USD, đến năm 2002
xuất khẩu thuỷ sản vợt qua mốc 2 tỷ USD ( đạt 2,014 tỷ USD ). Năm 2005, ngành thủy sản
bằng sự nố lực phấn đấu liên tục không mệt mỏi vợt qua những khó khăn khách quan và
chủ quan để hoàn thành một cách vẻ vang các chỉ tiêu, kế hoạch cơ bản mà ngành đã xây
dựng và đợc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ghi nhận trong kế hoạch kinh tế xã hội
giai đoạn 2001-2005: Tổng sản lợng đạt 3,43 triệu tấn, tăng 9,24% so với năm 2004. Kim
ngạch xuất khẩu đạt 2,74 tỷ USD, đ qua mốc 2,5 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2004 và
bằng 185% so với năm 2000. Tính chung 5 năm ( 2002 2005 ) tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản đạt trên 11 tỷ USD, chiếm khoẩng 9% tổng giá trị xuất khẩu của cả nớc.
Trong 2 năm gần đây: Năm 2006 xuất khẩu thuỷ sản giá trị kim ngạch là 3,08 tỷ
USD, bằng 110% kế hoạch, tăng gần 25% só với cùng kỳ ( tính hết tháng 11/2006 ). Còn
trong năm 2007: Theo Bộ NN và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
tháng 8 ớc đạt 300 triệu USD, nâng mức 8 tháng năm 2007 lên 2341 triệu USD, đạt 65% kế
hoạch năm, bằng 116,6% cùng kỳ năm 2006.
Với những con số khổng lồ ngày càng lớn mạnh ấy, Việt Nam đã trở thành nớc
cung cấp thủy sản lớn thứ 5 thế giới và đợc Nhà nớc trao tặng Huân chơng Sao vàng.
Các thị trờng xuất khẩu chủ yếu của thuỷ sản Việt Nam là: khu vực châu á: Lào,
Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan, NhậtCác nớc trong khối EU: Nga, và Mỹ cũng trở
thành một thị trờng lý tởng của hàng thuỷ sản Việt Nam. Tính đến nay, thuỷ sản Việt Nam
đã xuất khẩu tới hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau. Trong đó, Nhật Bản chiếm
tỷ trọng 25,09%; EU chiếm 21,55%. Bên cạnh đó là các thị trờng nh Hàn Quốc, Australia,
NgaRiêng mặt hàng cá tra, cá basa, hiện nay Nga là nớc nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt
Nam sau EU với tổng kim ngạch khoảng 100 triệu USD vào năm nay. Hiện nay xuất khẩu
vào Mỹ chiếm 19,78% tổng sản lợng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhật
Bản vẫn là một thị trờng quan trọng của thuỷ sản Việt Nam với mức tăng trởng bình quân
khoảng 15%/ năm, bao gồm 40% giá tri xuất khẩu tô đông lạnh; 42% mực, bạch tuộc; 11%
giá trị xuất khẩu cá ngừ.
18
Giỏ tr xut khu thu sn giai on 1981-2006
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc ấy, ngành thủy sản Việt Nam còn gặp rất
nhiều khó khăn và thử thách. Còn tồn tại nhiều mặt yếu kém, hạn ch khắc phục.
2) Những khó khăn và hạn chế còn tồn tại của ngành thuỷ sản Việt Nam trên bớc đờng phát triển:
Ngoài những khó khăn về thiếu nguyên liệu, chi phí sản xuất tăng cao, chi phí kiểm
tra quá cao tác động nặng nề của 2 vụ kiện chống bán phá giá ở Mỹ, các doanh nghiệp thuỷ
sản Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều diễn biến bất lợi trên thị trờng Nhật, Nga. Những
hàng rào kỹ thuật và thơng mại ngày càng chặt chẽ với các quy định về d lợng kháng sinh,
về truy xuất nguồn gốc sản phẩm thuỷ sản và kiểm dịch cũng là thách thức lớn đổi với các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, d lợng hoá chất kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản
xuất khẩu của ta đang là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Nó làm ảnh hởng rất lớn đến uy
tín, chất lợng mặt hàng xuất khẩu, làm mất thị trờng và giảm kim ngạch xuất khẩu.
Ví dụ: Theo thống kê của VASEP trong tháng 4/2007 gần 30 lô hàng thủy sản của
sản Việt Nam đã bị cơ quan kiểm soát thực phẩm Mỹ (FDA) trả về vì nhiễm kháng sinh và
tạp chất. Tháng 5/2007 Nhật cũng cảnh báo 16 nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vì phát
hiện d lợng CAP, AOZtrong hải sản nhập khẩu vào nớc này. Theo thông báo mới nhất
ngày 8/6/2007, có đến 14 doanh nghiệp tiếp tục bị Nhật Bản gửi văn bản cảnh cáo. Bên
cạnh đó ở thị trờng Nga, xuất khẩu thuỷ sản của nớc ta cũng gặp nhiều bấp bênh. Nếu cách
đây 1 2 năm, thuỷ sản Việt Nam đã có bớc đột phá mãnh liệt vào thị trờng Nga với mức
tăng trởng gấp 10 lần các năm trớc đó thì hiện nay, tình hình lại hết sức ảm đạm. Từ tháng
19
4/2007, Nga đã đa Việt Nam vào danh sách các nớc cấm nhập khẩu thuỷ sản vào thị trờng
này với lý do vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm. Với rào cản đó, kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam vào Nga lập tức bị đình trệ. Vì những lý do trên mới đây Việt Nam
đã mất thị trờng Canada, bất lợi tại thị trờng Nhật, Nga, Austraulia
Bên cạnh đó, mặt tồn tại và hạn chế của ngành thuỷ sản trớc hết là hiện tợng cạnh
tranh không lành mạnh ở các doanh nghiệp. Cạnh tranh mua nguyên liệu, giảm giá bán,
tranh giành khách hàng, lạm dụng hoá chất tăng trọng, vi phạm các quy định về nhãn sản
phẩm, mua tôm nguyên liệu đã bị bơm chích tạp chấtChính những việc làm này đã bị
một số đối thủ nớc ngoài lợi dụng, gây tác hại cho uy tín và quyền lợi chung của cộng đồng
doanh nghiệp.
Vốn, thị trờng và nguyên liệu cũng là 3 vấn đề khá cấp bách của ngành xuất khẩu
thuỷ sản nớc ta. Nguyên liệu thuỷ sản trong nớc bắt đầu tăng giá sau khi giảm nhẹ từ giữa
tháng 3 đến giữa tháng 4/2007. Trong đó tôm sú tăng mạnh hơn cả với mức hiện nay
khoảng 90000 đến 120000 đồng/kg loại 20 con/kg. Giá cá tra, basa cũng vợt lên mức kỷ
lục tới 16800 đồng/kg. Hiện nay tốc độ xuất khẩu tăng cao khiến nguồn nguyên liệu bắt
đầu trở nên khan hiếm. Thông tin từ hiệp hội thuỷ sản cho biết, nhiều doanh nghiệp đã phải
nhập khẩu nguyên liệu. Tình trạng thiếu nguyên liệu còn dẫn tới một số doanh nghiệp chế
biến chỉ hoạt động đợc 50% công suất. Sự thiếu hụt nguyên liệu có thể ảnh hởng tới tốc độ
và kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, mặc dù kế hoạch 3,6 tỷ USD giá trị xuất khẩu thuỷ sản
trong năm nay là hoàn toàn có thể thực hiện đợc. Một số ý kiến cho rằng việc nhập khẩu
nguyên liệu trong bối cảnh thiếu hụt hiện nay có thể là tiền đề gây ảnh hởng tới chất lợng
bởi rất khó kiểm soát chất lơng nguyên liệu từ khâu nuôi trồng hoặc đánh bắt.
Đứng trớc tình hình đó, ngành thuỷ sản Việt Nam đã tìm hiểu nguyên nhân và đa ra
những biện pháp kịp thời để đa ngành thuỷ sản tiếp tục đi lên cả về số lợng lẫn chất lợng.
3) Biện pháp khắc phục để đa ngành thủy sản tiếp tục đi lên một cách bền vững:
Ngành thủy sản đã khắc phục những yếu kém bắt đầu từ phía mình và nhìn nhận ra
gốc của vấn đề: đó là chất lợng sản phẩm.
3.1. Đối với vấn đề vốn thị trờng và nguyên liệu:
Trớc hết là các giải pháp nhập khẩu nguyên liệu: từ nay đến 2010, doanh ngh;iệp
khi thành lập nhà máy chế biến mới để sản xuất các sản phẩm sơ chế cần phải yêu cầu xây
dựng vùng sản xuất và cung ứng nguyên liệu tập trung. Việc đầu t tài chính và cơ chế để
mở rộng các chơng trình quốc gia về phát triển giống nuôi chất lợng cao, giám sát chất lợng
nguồn nớc, kiểm soát ô nhiễm môi trờng phải đợc đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, Hiệp hội
cũng xây dựng đề án nhập khẩu nguyên liệu, kiến nghị với Chính phủ xem xét và điều
chỉnh lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản xuống 0% nh: Trung Quốc,
Mỹ, EU và nhiều nớc trong khu vực. Từ đó tạo điều kiện cần thiết để có nguyên liệu chế
biến xuất khẩu ổn định.
Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ tài chính cho đầu t hệ thống dịch vụ phục
vụ việc nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản, bảo quản, vận chuyển và phân phối, cũng nh hỗ trợ
20
việc xây dựng đề án thành lập Ngân hàng Cổ phần Thuỷ sản Việt Nam
3.2. Đối với vấn đề d lợng hoá chất kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của
Việt Nam:
Hiện nay, VASEP đang phối hợp với Bộ thủy sản, Cục Nafiquaved thay đổi quy chế
649 và 650 về phơng thức kiểm soát, điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm, kiểm nghiệm
chất lợng và cấp chứng từ xuất khẩu nhằm giảm chi phí của doanh nghiệp, giảm thủ tục
phiền hà và lãng phí, tăng hiệu quả và trách nhiệm kiểm soát của các doanh nghiệp và cơ
quan Nhà nớc.
Đồng thời kiến nghị với Chính phủ hỗ trợ ngân sách cho hoạt đồng kiểm tra của cơ
quan Nhà nớc, giảm bớt gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp vì chi phí kiểm tra một lô
hàng thuỷ sản xuất khẩu hiện rất cao từ 5 10 triệu đồng cho 1 Container hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, cũng sẽ có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hội viên áp dụng thực sự hiệu
quả các hệ thống đảm bảo an toàn thực phẩm nh HACCP, SSOP không nh là đối phó mà
phục vụ thực sự cho yêu cầu cạnh tranh và hội nhập.
II.3. Dt may Vit Nam 10 nm qua
Dt may Vit Nam (DMVN) c coi l 1 trong nhng nghnh trng im ca nn
cụng Nghip Vit Nam thi k CNH-HH t nc, nghnh DMVN hin nay c xem l
ngnh sn xut mi nhn v cú tim lc phỏt trin khỏ mnh.
Vi nhng li th riờng bit, nh vn u t khụng ln, thi gian thu hi vn nhanh, thu
hỳt nhiu lao ng v cú iu kin m rng th trng trong v ngoi nc vi s tham gia
ca nhiu ngnh kinh t khỏc nhau. Trong xu th hi nhp kinh t khu vc v quc t,
nghnh DMVN ang phi i mt vi nhiu thỏch thc ln, phi cnh tranh ngang bng
vi cỏc nc xut khu ln nh Trung Quc, n , Hn Quc
Trc õy, Vit Nam cú hn 1000 nh mỏy dt may, thu hỳt trờn 50 vn lao ng chim
22% tng s lao ng trong ton ngnh cụng nghip. Sn lng xut khu hng nm tng
trờn 10% nhng quy mụ cũn bộ nh, thit b v cụng ngh khõu kộo si v dt may cũn lc
hu.
Ngnh may tuy liờn tc u t m rng sn xut, i mi thit b v dõy chuyn ng b
chuyờn sn xut mt mt hng nh dõy chuyn may smi, may qun õu, qun jean,
completnhng cng cha ỏp ng c yờu cu may ngy cng cao. Xut khu ngnh
dt may tuy t kim ngch cao, nhng ch yu lm gia cụng,ngnh dt vn nhp khu
nhiu v nguyờn vt liu cho sn xut ca ngnh dt hu nh hon ton nhp khu t nc
ngoi.
Nm 2000, ngnh dt may VN tuy ó cú nhiu yu t thun li to tin trỡnh hi
nhp sp ti nh Quata th trng EU c tng 30%, bc u m c th trng M v
th trng vựng Trung Cn ụng, Chõu Phi. Kinh t Nht Bn ang hi phc khin cho th
trng ny tiờu th hng dt may VN tng trc t 1998, xut khu DMVN vn gp
21
không ít khó khăn do giá sản phẩm giảm liên tục do áp lực cạnh tranh của hàng Trung
Quốc. Bên cạnh đó, giá nguyên phụ liệu lại tăng, đặc biệt ở thị trường Phi Quo
ta
Vấn đề quan tâm hiện nay là khoảng 70% kim nghạch xuất khẩu (KNXK) hàng dệt may
Việt Nam vào EU được thực hiện qua các khâu trung gian như Hồng Kông, Đài Loan,Hàn
Quốc cho nên làm sao Việt Nam có thể tiếp cận và bán hàng trực tiếp sản phẩm dệt
may(DM), giảm bớt phụ thuộc vào các nhà dệt may trung gian,nâng cao hiệu quả xuất
khẩu.
Sau khi có hiệp định thương mại Mỹ - Việt (1999), KNXK hàng DM vào thị trường này
đạt 43 triệu USD. Đến năm 2000, tuy hàng DMVN vào thị trường Mỹ vẫn bị đánh thuế
nhập khẩu cao hơn 2 - 3 lần so với các nước khác nhưng vẫn đạt KNXK khoảng 60 triệu
USD. Nếu hai nước trao cho nhau quy chế thương mại bình thường, ngành DM hoàn toàn
có thể đạt KNXK cao hơn rất nhiều ở những năm tiếp theo.
Năm 1999-2000, tốc độ tăng bình quân là 23%, riêng 2003 ước đạt khoảng 3,6 tỷ USD,
tăng hơn 30% so với 2002 và tăng gấp 10 lần so với 10 năm trước đó. Hiện nay DMVN đã
có mặt ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ.
Đứng trước “ngưỡng cửa của năm 2005” , Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều thách
thức lớn khi hạn nghạch được xoá bỏ. Đặc biệt phải “lo ngại” một cường quốc hùng mạnh
như Trung Quốc. Trung Quốc đang là một cường quốc hùng mạnh nhất thế giới trong lĩnh
vực DM. Với nguồn cung cấp nguyên liệu bông, len, sợi, vải, máy móc, thiết bị, hoá
chất…đến nguồn nhân lực. Hơn nữa lại được nhà nước hỗ trợ về nhiều mặt. Do đó hàng
dệt may Trung Quốc dễ dàng đánh bại hàng cùng loại của bất cứ nước nào.
Đặc biệt, với một sự chuẩn bị tốt cho giai đoạn hậu hạn ngạch, Trung Quốc đã tiến hành
rất nhiều cải cách để phát triển ngành DM mạnh mẽ hơn, mặt khác Trung Quốc đang là
thành viên của WTO nên DMTQ đã thu được nhiều thành công vượt bậc.Sự rực rỡ trong
nghành DMTQ đã gây rất nhiều khó khăn cho các nước khác, đặc biệt là Việt Nam.
Bất lợi lớn trong cạnh tranh của Việt Nam là khâu sản xuất vải và phụ liệu phục vụ cho
may xuất khẩu. Vì thực tế ngành sản xuất nguyên phụ liệu (NPL) trong nước còn yếu, phụ
thuộc lớn vào thị trường nước ngoài. Hàng năm nhập khẩu bông khoảng 90%, nhập khẩu
vải khoảng 70%,sản phẩm lại yếu về mẫu mốt, chủng loại, nhãn mác (chủ yếu là sản phẩm
gia công của đơn đặt hàng )chưa có sản phẩm thương hiệu nào được bán với số lượng lớn
như ở các nước khác. DMVN mới có đại diện ỏ một số thị trường lớn. Các cuộc hội thảo,
hội chợ, triển lãm mặc dù cũng có tham gia nhưng chất lượng của các hoạt động này còn
kém.
Bên cạnh đó, ngoài nhân tố trung quốc, EU còn bãi bỏ thuế nhập khẩu đối với 1 số nước
XKDM khác chịu ảnh hưởng của thảm hoạ sóng thần như Bangladesh, Silanka, Indo…Mỹ
cũng đã xem xét bãi bỏ thuế nhập khẩu với các nước này. Những ưu đãi đó góp phần tạo
cho các nước xuất khẩu hàng DM - đối thủ của Việt Nam sức cạnh tranh mãnh liệt hơn.
Hơn nữa, sai lầm lớn nhất của DMVN, theo thủ tướng Vũ Khoan : ”VN trong năm 2003
22
chỉ tập trung vào thị trường Hoa Kỳ mà bỏ lỏng các thị trường có sẵn, thị trường không có
hạn nghạch “
Tuy nhiên, ngoài nguyên nhân khách quan do cạnh tranh mãnh mẽ sau khi hàng rào hạn
nghạch được dỡ bỏ đối với các nứôc thuộc WTO, còn có những nguyên nhân chủ quan
khác xuất phát từ những thiếu linh hoạt trong các cơ quan quản lý.
Trước tình hình khó khăn như vậy,làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh của
DM, đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu ?
Về phía Doanh Nghiệp (DN), ông Lê Quốc Ân cho rằng:”các DN cần phải nỗ lực để có
thể đối phó với tình hình trên bằng các giải pháp tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm
như : tăng năng suất lao động, kiểm soát chi phí, hạ giá thành , tăng cường hợp tác chuỗi
liên kết, xây dựng chiến lược sản phẩm cho phù hợp…”.Bộ trưởng bộ Thương Mại Trương
Đình Tuyển khẳng định “lối thoát duy nhất ngay bây giờ là phải đẩy mạnh sản xuất hàng
DMXK vào các thị trường phi Quata,như Nhật, Úc,Hàn Quốc, Đài Loan…”.
Nhờ giải quyết tốt những khó khăn đó, chỉ tính riêng tập đoàn DMVN năm 2005 đã đạt
tổng xuất khẩu là 1,05 tỷ USD. Khi đó ở Trung Quốc có hơn 200 nhà xuát khẩu thì chỉ có
5 nhà sản xuất đạt trên 1 tỷ USD. Tập Đoàn sản xuất DM lớn nhất của Mỹ cũng chỉ có
doanh thu hơn 1 tỷ USD ; Trong khu vực tập đoàn DMVN (vinatex) cũng là nhà sản xuất
lớn hàng đầu. Theo đó, năm 2006, DMVN tiếp tục đầu tư để sản xuất tốt các nguyên liệu
DM, tổ chức các trung tâm buôn bán nguyên phụ liệu. Nâng cấp các cơ sở sản xuất theo
hướng hiện đại, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.Xây dựng nhiều khu CNDM, tập
trung ở các vị trí thuận tiện. Trong đó, Vinatex đã đầu tư từ 1,773 tỷ để mở rộng SXKD.
Xây dựng từ 10 - 20 thương hiệu sản phẩm quốc gia và thương hiệu Vinatex. Trong đó
chọn 1 - 2 thương hiệu để tập trung quảng bá ra nước ngoài. Mua bản quyền và liên kết sản
xuất với 2 - 4 thương hiệu nước ngoài để tiêu thụ tại VN.
Tuy nhiên năm 2006, các doanh nghiệp dệt may VN bước vào một sân chơi lớn WTO,
với nghành DMVN thuận lợi có nhiều nhưng không ít những thách thức khó khăn.
Sự phát triển vượt bậc thuộc sự chỉ đạo tăng tốc của ngành CNVN và trên thực tế đã gặt
hái được nhiều thành tựu to lớn trong chiến dịch đó.KNXK hàng năm đạt hàng tỷ USD, chỉ
đứng sau nghành dầu khí về xuất khẩu. Song điều đáng mừng hơn là trong những năm qua,
nghành DMVN đã giải quyết được hàng chục vạn lao động, góp phần cùng đất nước giải
quyết tình trạng thất nghiệp, xoá đói, giảm nghèo, ổn định chính trị và phát triển kinh tế đất
nước.
Một vấn đè đặt ra lúc này là nghành DMVN khi vào sân chơi lớn cần có suy nghĩ mới :
kinh doanh may thời trang ngay trên đất khách.Kinh doanh tại nước ngoài cho phép chúng
ta giảm chi phí rất nhiều, thu được lợi nhuận cao, nâng cao được tính cạnh tranh của
DMVN.
Từ cuối năm ngoái đến nay, số lượng công ty dệt may nước ngoài đến VN đầu tư đã tăng
lên và bước đầu đã có kết quả. Công ty Pamatex của Malaysia đã dự định xây dựng nhiều
nhà máy sợi và dệt trị giá 100 triệu USD ở tỉnh Quảng Nam. Còn tập đoàn DM n ổi tiếng
23
thì dự kiến chi thêm 400 triệu USD để mở rộng sản xuất kinh doanh ở Đồng Nai.
Trong hơn 5 năm qua, hơn 2 tỷ USD đã đuợc chi vào nghành DM, trong đó đã chú trọng
phần lớn vào dệt, nhuộm nhưng chỉ giúp năng lực sản xuất và phụ liệu tăng khoảng
30%/năm với kế hoạch đầu tư 3 tỷ USD cho giai đoạn 2007 - 2010. Theo tính toán của bộ
công nghiệp cho lĩnh vực sản xuất này duy trì tốc độ 12 - 14%/năm, khi nghành DM vẫn
đang phát triển với tốc độ trên 30%/năm và có khả năng còn tăng mạnh trong vài năm tới.
Điều có có nghĩa khoảng cách giữa cung và cầu nguyên phụ liệu sẽ không còn mở rộng.
Ngay từ tháng 1 năm 2007, Thuế nhập khẩu hàng DM đã cắt giảm ngay ở mức tương đối
lớn, điều này sẽ dẫn tới một số thay đổi trong thị trường nội địa. Các DN nhỏ sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn trong các DN lớn do chi phí đầu vào rẻ hơn và lợi thế quy mô có thể tiếp tục
cạnh tranh với bên ngoài.
Với mức tăng trưởng khoảng 30% và dự kiến đạt 7,5 tỷ USD KNXK trong năm 2007, VN
đã có bước nhảy vọt ngoạn mục từ 16 lên tốp 10 nước XKDM lớn nhất thế giới. Hiện nay
VN đang có khoảng 2000 DNDM và đang sử dụng trên 2 triệu lao động, sản xuất khoảng
1,8 tỷ sản phẩm DM, trong đó 65% dành cho xuất khẩu và chủ yếu tập đoàn ở TP HCM
(1400 DN), các vùng phụ cận và Hà Nội (300 DN).
KNXK trong tháng 6 năm 2007 đạt khoảng 720 triệu USD, nghành DM 6 tháng đầu năm
đã có tổng kim nghạch đạt 3,4 tỷ USD, tăng 660 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái.
Đứng đầu trong các thị trường XKDM vẫn là Mỹ với kim nghạch trên 3 tỷ USD (chiếm
55% thị phần) , liên minh Châu Âu xếp thứ 2 (1,2 tỷ USD) (chiếm 20%); tiếp theo đó là
Nhật Bản, Asean, Canada, Nga…
Thuận lợi lớn nhất của VN là đã tham gia tổ chức TMTG (WTO), được Mỹ bỏ hạn nghạch
DM, hơn nữa VN hơn hẳn nhiều nước do có nguồn lao động dồi dào, tay nghề cao, có khả
năng làm ra các sản phẩm phức tạp,giá trị cao. Mức tăng trưởng vào thị trường Mỹ trong 9
tháng qua chỉ ở mức hơn 20% và giá các đơn hàng không giảm đã khiến các nhà quản lý
nhập khẩu Mỹ không thể gây khó cho hàng VN bằng các rào cản kỹ thuật hay phá giá.
Trong khi đó DNVN ngày càng khẳng định được khả năng cung cấp chất lượng hàng hoá
đối với nhà nhập khẩu Mỹ.Ngành DMVN đã có những thuận lợi mới như thị trường xuất
khẩu được mở rộng, quan hệ thương mại bình đẳng, 1 số rào cản thương mại đã được gỡ
bỏ hoặc cắt giảm (hạn nghạch,thuế quan) nhưng sức ép cạnh tranh về mặt hàng, chất lượng
, giá cả,dịch vụ thì tăng lên do cùng cạnh tranh nhiều với nhiều nước có tiềm năng rất lớn
về sản xuất XKDM nhu Trung Quốc, Ấn độ, Pakistan…
Trước những thuận lợi và khó khăn trên,tập đoàn DMVN đã thể hiện vai trò hạt nhân
trong việc đẩy mạnh liên kết với nhiều đơn vị thuộc các thành phần kinh tế để phát huy sức
mạnh tổng hợp về các lợi thế cạnh tranh ,giảm thiểu những bất lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư
SXKD đạt hiệu quả.
Đầu tháng 8/2007, do cơ chế giám sát đặc biệt, hàng DM của Hoa Kỳ đối với Việt Nam
nên các DN NK nước này đã thận trọng hơn trong việc lấy hàng DM từ Việt Nam. Tuy
24
nhiên thị trường Hoa Kỳ vẫn chiếm gần 60% KNXK hàng DM của VN, tốc độ tăng trưởng
trong những tháng đầu năm 2007 khoảng 34% so với cùng kỳ. Vì vậy để tránh rủi ro vì tập
trung đề xuất quá nhiều vào thị trường Hoa Kỳ, thứ trưởng bộ TM Nguyễn Thành Biên
khuyến cáo “Ngoài việc phát triển thị trường Hoa Kỳ,các DN nên mở rộng và chú ý đến
các thị trường khác như : Nhật, đặc biệt là EU. Hai thị trường này sẽ góp phần tăng tốc độ
KNXK của hàng DMVN “.
Là 1 trong những nghành XK chủ lực của VN, tốc độ tăng trưởng 20%/năm, KNXK DM
chiếm khoảng 15% tổng KNXK cả nước. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là giá trị thu về từ
XKNK nguyên phụ liệu DM, gồm: bông, sợi, xơ đã tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006,
đạt trên 200 triệu USD. Trước đó ,tháng 6/2007, KNXK nguyên phụ liệu DM đạt 250 triệu,
tăng 42,9 % so với cùng kỳ năm 2006.
Về thực chất, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội địa có thể đáp ứng
70% nhu cầu sản xuất nhưng do yêu cầu về thành phẩm của đối tác nước ngoài cao,
nguyên phụ liệu VN vẫn chưa đáp ứng được. Vì thế vấn đề đặt ra là tập trung nội lực phát
triển sâu, mạnh, có định hướng vào loại nguyên liệu nhất định nào đó để trở thành nguồn
cung cấp chính cho thị trường thế giới là điều cần thiết.
Theo số liệu thống kê từ bộ Thương Mại cho biết, XK trong tháng 9 đầu năm lần đầu
tiên, KNXK DM chính thức vượt dầu thô để trở thành mặt hàng XK dẫn đầu cả nước. Cụ
thể,XK DM qua tháng 9 đã đạt 5,805 tỷ USD, trong khi dầu thô chỉ đạt 5,781 tỷ USD. Như
vậy vị trí dẫn đầu trong nước những năm qua của dầu thô đã bị thay thế bởi dệt may.
Như vậy qua tháng 9, cafe vẫn dẫn đầu, tốc độ tăng trưởng KNXK với mức tăng hơn
86%, trong khi dầu thô lại bị tụt mạnh nhất tới hơn 11% so với năm ngoái và DM vẫn duy
trì được tốc độ tăng 31%. Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh chính như : các nước vùng
Trung Mỹ, Mêxico XK đang sụt mạnh do bị áp dụng Quata, Thái Lan và Philipness và rất
nhiều nước khác cũng sụt mạnh do tình hình trong nước bất ổn. Còn Trung Quốc và Ấn Độ
đang tăng chậm lại vì nhiều lý do khác.
Trước những tốc độ tăng trưởng của DMVN, VN đã lọt vào top 10 thế giới. Điều đó sẽ
gây ra 1 số biến đổi đáng chú ý, đó là VN sẽ được các đối thủ cạnh tranh quan tâm hơn,các
nước sẽ tăng cường giám sát đối với hàng VN.Mức độ cạnh tranh vì thế sẽ khốc liệt hơn.
Trong hoàn cảnh đó, ông Sơn –Phó tổng thư ký Hiệp Hội DM cho rằng :”Lối đi lâu dài
của DN VN là phải chú trọng tăng trưởng về chất lượng theo hướng nâng cấp tay nghề
công nhân, đầu tư trang thiết bị,chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm hướng vào các
đơn giá cao các tập đoàn nổi tiếng có thương hiệu như Mỹ, EU.Như thế mới tạo ra tăng
trưởng về chất lượng và bền vững “.
25