Đề tài: Chiến lược phát triển thương mại nội địa đối với mặt hàng
thép trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Đề cương:
Chương 1: Lý luận chung về ngành thép ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập
1.1 Vai trò, vị trí của ngành thép trong nền kinh tế quốc dân
1.2 Tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược thương mại nội địa
phát triển ngành thép
Chương 2: Thực trạng ngành thép ở Việt Nam hiện nay
2.1 Tình hình sản xuất phục vụ tiêu thụ trong nước.
2.2 Tình hình xuất khẩu
2.3 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới đối với ngành thép ở
Việt Nam
2.4 Những vấn đề cạnh tranh của thép nội địa với thép ngoại nhập
Chương 3: Các chiến lược phát triển thương mại nội địa đối với mặt
hàng thép trong nước
3.1 Quan điểm, mục tiêu, quy hoạch đặt ra cho ngành thép
3.2 Chính sách phát triển kinh tế trong nước nhằm hỗ trợ ngành thép
3.3 Giải pháp phát triển, kích thích sản xuất – tiêu thụ thép trong nước
Lời nói đầu
Những năm qua, tuy ngành thép đã được đầu tư đáng kể và có bước
phát triển tương đối mạnh (cả quốc doanh và tư nhân), đạt được tốc độ tăng
trưởng khá cao, có tiềm lực tăng gấp hàng chục lần so với năm 1990 và đạt
sản lượng trên 1 triệu tấn/năm, song vẫn còn trong tình trạng kém phát triển
so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thể hiện ở các mặt:
Trang thiết bị có quy mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình
độ công nghệ và mức độ tự động hóa thấp. Chất lượng sản phẩm còn hạn
chế (nhất là khu vực tư nhân), chỉ có hai dây chuyền cán liên tục tương đối
hiện đại thuộc khối liên doanh.
Cơ cấu mặt hàng sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở
cán thép còn phụ thuộc quá nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản
phẩm cán dẹt trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu.
Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động
quá đông, giá thành không ổn định (do lệ thuộc vào phôi thép nhập khẩu)
nên tính cạnh tranh chưa cao. Khả năng xuất khẩu sản phẩm thép còn rất hạn
chế.
Nhìn một cách tổng quát, ngành thép Việt Nam vẫn ở trong tình trạng
sản xuất nhỏ, phân tán, nặng về gia công chế biến từ phôi và bán thành phẩm
nhập khẩu. Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều thiết bị hiện đại tự động
hóa cao, cần phải đầu tư cải tạo phát triển, thay thế dần các thiết bị cũ, lạc
hậu, mới có thể bảo đảm tính cạnh tranh trong thời gian tới.
Với những vấn đề còn tồn tại trên, bài thảo luận xin đề cập đến thực
trạng về sản xuất – tiêu thụ thép trong nước và đưa ra một số phương pháp
nhằm phát triển chiến lược thương mại nội địa đối với ngành thép ở Việt
Nam.
Chương 1: Lý luận chung về ngành thép ở Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập
Chương 2: Thực trạng ngành thép ở Việt Nam hiện nay
2.1 Tình hình sản xuất phục vụ tiêu thụ trong nước
Trong 5 tháng đầu năm 2009 tiêu thụ thép xây dựng của cả nước đạt tới
1,9 triệu ngàn tấn, bằng 50% tổng tiêu thụ trong cả năm 2008.
Cùng với gói kích cầu của Chính phủ, tranh thủ lãi suất và giá thép ở
mức thấp, đặc biệt là những tín hiệu tích cực về sự ấm lại của thị trường bất
động sản, rất nhiều công trình xây dựng đã được khởi công đặc biệt là với sự
tăng giá khá mạnh trở lại của dầu thô và các mặt hàng kim loại khác trong
thời gian vừa qua đã làm nhu cầu thép tăng trở lại.
Nhu cầu thép thành phẩm của Việt Nam trong năm 2009 là khoảng 11
triệu tấn/năm. Năng lực sản xuất thép trong nước hiện nay mới đạt khoảng
5,5 triệu tấn, Việt Nam phải nhập khẩu 5 – 5,5 triệu tấn.
Với nhu cầu thép thành phẩm như trên, nhu cầu phôi thép dùng để sản
xuất thép trong nước năm 2009 ước khoảng trên 5 triệu tấn, trong đó sản
xuất trong nước khoảng 3 triệu tấn, còn lại là trên 2 triệu tấn là phải nhập
khẩu.
Tiêu thụ tăng mạnh đã giúp sản xuất thép và phôi thép ở trong nước
phục hồi khá mạnh trở lại. Trong tháng 5, sản lượng thép cán của cả nước
đạt tới 451 ngàn tấn, cao hơn rất nhiều so với sản lượng trung bình 347 ngàn
tấn trong 4 tháng đầu năm 2008 và tăng tới 49,5% so với tháng 5/2008. Như
vậy, sản lượng thép cán tròn 5 tháng đầu năm đạt tới 1,84 triệu tấn, tăng
13,2% so với cùng kỳ 2008.
Cùng với sản lượng thép cán, sản lượng phôi thép sản xuất ở trong nước
cũng tăng khá mạnh trong những tháng gần đây.
Tiêu thụ thép tăng đã giúp tồn kho thép giảm mạnh, tính đến cuối tháng
5 chỉ còn gần 180 ngàn tấn thép thành phẩm và khoảng 350 ngàn tấn phôi.
Nhập khẩu phôi thép cũng đã gia tăng đáng kể trong những tháng gần
đây. Trong tháng 5/2009 tổng khối lượng nhập khẩu đạt trên 300 ngàn tấn,
mức cao nhất trong vòng 1 năm qua.
Tuy vậy, khối lượng phôi thép nhập khẩu 5 tháng đầu năm 2009 vẫn
giảm mạnh so với cùng kỳ 2008, giảm tới trên 51% xuống còn 840 ngàn tấn
và chỉ bằng khoảng 38% tổng khối lượng nhập theo kế hoạch cho cả năm
nay.
Giá phôi trên thị trường thế giới vẫn giữ ổn định ở mức thấp, khoảng
360 USD/tấn. Giá phôi nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 5 cũng giữ khá
ổn định ở mức 390 – 400 USD/tấn. Vời nguồn năng lực sản xuất ở trong
nước và tiến độ nhập khẩu như hiện nay, dự báo trong ngắn hạn nguồn cung
thép ở trong nước vẫn đáp ứng đủ nhu cầu.
2.2 Tình hình xuất khẩu
Bẩy tháng đầu năm nay, tổng lượng xuất khẩu thép mới đạt 150.510
tấn. Dự kiến cả năm 2009 xuất khẩu thép sẽ giảm mạnh, chỉ đạt con số
khiêm tốn là 269.523 tấn, giảm gần 15% so với năm 2008. Riêng Tổng công
ty Thép dự tính năm nay chỉ xuất khẩu được 55 triệu USD, giảm gần 10% so
với năm 2008.
Năm 2010, Việt Nam sẽ không còn được hưởng ưu đãi cao về chính
sách thuế. Nhiều dự án mới của Ngành đi vào sản xuất càng làm cho sự mất
cân đối giữa nguồn cung và mức tiêu thụ của thị trường cách xa thêm, dẫn
đến cạnh tranh quyết liệt giữa các thành phần kinh tế, nhất là đối với sản
phẩm thép xây dựng, thép cuộn cán nguội, ống thép hàn, tôn mạ kim loại,
sơn phủ màu,… Kế hoạch 5 năm của Ngành chưa tính đến các doanh nghiệp
FDI mà công suất dự kiến đã gần 20 triệu tấn, nhưng lượng tiêu thụ chỉ
khoảng 15-17 triệu tấn. Trong khi đó, Trung Quốc và một số nước ASEAN
có nhiều chính sách ưu đãi cho xuất khẩu thép, như giảm thuế suất thuế xuất
khẩu bằng 0%, hoàn thuế giá trị gia tăng thì thuế xuất khẩu thép của Việt
Nam vẫn thực hiện từ 0 đến 5%... Điều đó sẽ khiến các doanh nghiệp Việt
Nam khó có điều kiện vươn ra thị trường nước ngoài. Hiện nay, thị trường
xuất khẩu của Ngành vẫn còn hạn chế (chỉ mới xuất khẩu sang Cămpuchia).
Vì vậy, ngay từ bây giờ, ngành Thép cần nhanh chóng tìm kiếm, mở rộng thị
trường xuất khẩu, tránh để rơi vào tình trạng bị động khi thị trường còn
nhiều diễn biến khó lường.
Hiệp hội Thép Việt Nam và Tổng công ty Thép Việt Nam cần nghiên
cứu, phân tích sâu hơn nữa để xây dựng kế hoạch xuất khẩu cho những năm
tiếp theo; tiếp tục nâng cao năng lực sản xuất, giảm chi phí giá thành, đẩy
mạnh việc xúc tiến, tìm kiếm thị trường mới như Hoa Kỳ, Úc… Bên cạnh
đó, trong những năm tới, để thực hiện mức tăng trưởng 10%/năm, cần tập
trung xử lý tốt vướng mắc của các dự án, nhất là các dự án lớn, có hiệu quả,
tạo đầu ra cho sản phẩm, đồng thời, cần kiểm soát chặt chẽ các dự án đầu tư
mới, các thủ tục cấp giấy phép, nhất là các dự án đầu tư nằm ngoài quy
hoạch, để bảo đảm cân đối cung - cầu hợp lý.
2.3 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới đối với ngành thép
ở Việt Nam
Khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã có ảnh hưởng sâu rộng tới kinh tế các
nước ở khắp châu lục. Việc chính phủ các nước quyết định hạ lãi suất và bỏ
hàng tỷ USD để cứu các ngân hàng thương mại nhằm ngăn chặn cuộc khủng
hoảng tài chính lan rộng, kinh tế các nước đang đối phó với nạn lạm phát thì
nay lại đang chuyển sang lo ngại về suy thoái kinh tế.
Chính phủ nhiều nước đã áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sụt giảm
kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế toàn cầu vẫn đang trong giai đoạn ảm đạm. Giá
nhiều loại hàng hóa trên thị trường thế giới vẫn tiếp tục giảm thấp. Giá phôi
thép tại thị trường Đông Nam Á chỉ còn 400 – 420 USD/tấn CFR.
Giá thép phế liệu tại thị trường Đông Nam Á cũng trên đà giảm liên tục
do không có nhu cầu. Giá chào bán thép phế loại tốt cũng ở mức 230
USD/tấn CFR. Giá chào thép phế hàng container khoảng 200 USD/tấn CFR.
Trong năm 2008, việc nhập khẩu nguyên liệu thép vào Việt Nam do thị
trường trong nước gặp khó khăn, thép tiêu thụ chậm nên khối lượng nhập
khẩu giảm rõ rệt, chủ yếu là các hợp đồng nhập khẩu ký từ tháng trước nên
về trong tháng 9 giá còn cao và lượng về không lớn:
- Phôi thép: 56.269 tấn, giá bình quân 1017 USD/tấn
- Thép phế: 84.154 tấn, giá bình quân 580 USD/tấn
- Thép lá đen:170.367 tấn, giá bình quân 1090 USD/tấn.
- Thép cuộn: 8.466 tấn, giá bình quân 1091 USD/tấn.
Do tình hình tiêu thụ trong nước giảm mạnh, liên tục 4 tháng mức tiêu
thụ chỉ còn bằng 1/3 so với lượng tiêu thụ các tháng đầu năm, nên lượng tồn
kho ứ đọng nguyên vật liệu và thành phẩm thép ở mức báo động, nhiều
doanh nghiệp đã ngừng sản xuất 3 – 4 tháng nay, các doanh nghiệp khác thì
sản xuất cầm chừng nhưng số lượng phôi tồn kho ở các nhà máy trong Hiệp
hội thép vẫn trên 500.000 tấn, sản phẩm thép tồn tính đến ngày 31/10/2008
là 332.999 tấn. Hiệp hội thép đã kiến nghị với Bộ Công thương và Bộ Tài