Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Tư tưởng thẩm mỹ của nguyễn du trong tác phẩm “truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.59 KB, 116 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Khi con người đã trải qua những biến cố, những thăng trầm của cuộc
sống, đọc lại những vần thơ ấy của Nguyễn Du, chắc ai cũng sẽ có những suy
tư sâu sắc hơn về cuộc đời, sẽ thấy mình trưởng thành hơn và rút ra được
nhiều bài học cho bản thân. Nguyễn Du không phải là một nhà triết học
nhưng những gì mà ông đã viết thì lại hết sức triết lý, điều đó nhắc cho chúng
ta nhớ tới câu nói “bẩm sinh mỗi người là một nhà triết học”.
Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm vô cùng giá trị, trong
đó có Truyện Kiều. Đây là kiệt tác văn học của Việt Nam, là tác phẩm hội tụ
đầy đủ tinh hoa của ngôn ngữ Việt. Từ nền văn chương dân tộc, Truyện Kiều
đã gia nhập vào thế giới văn chương siêu việt nhất của nhân loại. Đại thi hào
Nguyễn Du đã cùng với Khuất Nguyên (340 – 278 TCN), Đỗ Phủ (712 –
770), Lý Bạch (701 – 762) của Trung Hoa; William Shakespeare (1564 –
1616), Charles Dickens của Anh; Aleksandr Sergeyevich Pushkin (1799 –
1837), Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 – 1910), Fyodor Mikhailovich
Dostoevsky (1821 – 1881) của Nga; Dante Alighieri (1265-1321) của Ý;
Miguel de Cervantes y Saavedra (1547 – 1616) của Tây Ban Nha; Victor
Hugo (1802 – 1885), Honoré de Balzac (1799 - 1850) của Pháp và Johann
Wolfgang von Goethe (1749 – 1832) của Đức,… đi vào cõi bất tử.
Truyện Kiều đã sánh vai cùng các kiệt tác của thế giới từ cổ đại Ai Cập,
cổ đại Trung Hoa đến Âu Mỹ hiện đại trong bộ Từ điển Các tác phẩm của


mọi thời đại và của mọi xứ sở xuất bản ở Paris năm 1953. Truyện Kiều cũng

2


bước vào vũ đài chính trị như là tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam và có
ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống văn hóa xã hội nước ta. Đó là di
sản văn hóa quý giá của dân tộc. Kiệt tác này đã được nghiên cứu trên nhiều
bình diện như văn học, ngôn ngữ học, văn hóa học,… Suốt hơn hai thế kỷ với
hàng nghìn chuyên khảo nhưng đến nay, kiệt tác này vẫn ẩn giấu nhiều bí ẩn
và giá trị mà các thế hệ hôm nay và cả mai sau đều mong muốn khám phá,
tìm hiểu.
Trên bình diện mỹ học, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu
vào các tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du một cách chuyên biệt. Tố Như
chưa khi nào nói thẳng vào cái Đẹp, cái Bi kịch cuộc đời nhưng những gì mà
ông đã viết, đã cống hiến cho đời thì lại chất chứa những khía cạnh thẩm mỹ.
Các phạm trù mỹ học đều ẩn chứa trong thơ Nguyễn Du, mà cụ thể hơn là
trong Truyện Kiều. Ở Nguyễn Du, đâu đó đều tồn tại cái Đẹp, cái Bi, cái Anh
hùng,… Rất bình dị nhưng cũng rất cao quý ! Quả thực dưới góc độ thẩm mỹ
Truyện Kiều chưa được soi rọi sắc nét. Đây là hướng tiếp cận mới và cũng có
nhiều chiều khi đặt ra vấn đề.
Việt Nam là quốc gia thuộc hệ hình văn hóa phương Đông. Muốn tìm
hiểu Truyện Kiều dưới góc độ thẩm mỹ ta không thể hoàn toàn vận dụng
những nguyên lý thẩm mỹ của phương Tây (phương pháp mỹ học mácxít) để
nghiên cứu mà chúng ta phải đặt Truyện Kiều trong hệ quy chiếu của văn hóa
thẩm mỹ phương Đông để làm rõ vấn đề. Mặt khác, quan niệm thẩm mỹ của
người phương Đông cũng còn có nhiều đánh giá khác nhau. Điều này đặt ra
những khó khăn nhất định khi tìm hiểu tư tưởng thẩm mỹ trong Truyện Kiều.
Nhất là khi lối tư duy của người phương Đông không trực tiếp đi thẳng vào
vấn đề mà thông qua văn hóa, nghệ thuật,… để bộc lộ tư tưởng. Lối tư duy ấy

thâm trầm, kín đáo, sâu sắc nhưng cũng rất bản lĩnh và mãnh liệt.

3


Một khía cạnh khác mà chúng ta cũng cần lưu ý, đó là mỗi một dân tộc
đều có những giá trị thẩm mỹ của riêng dân tộc đó. Dù ở trong hệ quy chiếu
nào thì tư tưởng thẩm mỹ từng dân tộc cũng có những đặc trưng riêng. Điều
ấy, càng nhấn mạnh rằng, dân tộc Việt Nam cũng có hệ thống tư tưởng thẩm
mỹ của riêng mình, nó được kết tinh trong lịch sử dân tộc ở những danh nhân
văn hóa như Nguyễn Du. Vì vậy, tìm hiểu tư tưởng thẩm mỹ của những con
người ấy, những nền văn hóa ấy là điều hết sức cần thiết.
Trong tình hình thực tiễn hiện nay, Đảng ta đã có những chủ trương
đúng đắn, phù hợp với tình hình cụ thể của dân tộc, đặc biệt là những chủ
trương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người. Trong văn kiện Hội nghị
lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI có khẳng định: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”
[5,48]. “Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm
mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn
học – nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo
đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng
đồng” [5, 50]. “Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật tạo mọi điều kiện
cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá
trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ,
tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và
công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công
trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới
đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt
Nam” [5, 55]. Văn kiện cũng khẳng định, cần phải định hướng được tư tưởng

và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Do vậy, việc tìm
hiểu tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều là điều

4


hết sức cần thiết, phù hợp với chủ trương của Đảng trong việc phát triển văn
hóa và con người Việt Nam toàn diện, có nhân cách, lối sống tốt đẹp. Nhất là
trong hoàn cảnh hiện nay, trước mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung
Quốc, chúng ta phải quyết tâm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ bằng
con đường hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế thì mặt trận văn hóa là
mặt trận đi đầu và là nền tảng vững chắc nhất trong công tác đấu tranh ngoại
giao của chúng ta mà không có gì thuyết phục hơn là sự chứng minh của lịch
sử, của quá khứ dân tộc.
Như vậy, với những lý do trên tôi đã quyết định chọn Tư tưởng thẩm
mỹ của Nguyễn Du trong tác phẩm “Truyện Kiều” làm đề tài luận văn của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử mỹ học
trong đó có phần lịch sử mỹ học Việt Nam. Có thể kể đến một số tác giả tiêu
biểu như Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy, Vũ Khiêu, Vũ Minh Tâm, Lê Ngọc Trà,
Như Thiết…
- Là một nhà nghiên cứu văn học, triết học, nghệ thuật học, mỹ học, tác
giả Đỗ Văn Khang đã cho xuất bản một số công trình mỹ học quan trọng.
Trong cuốn Lịch sử mỹ học, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1983, ông đã trình bày và
phân tích quá trình hình thành và phát triển của mỹ học thế giới nói chung
cũng như của mỹ học Việt Nam nói riêng.
Ngoài ra, có thể kể đến các tác phẩm khác của tác giả Đỗ Văn Khang
như: Mỹ học Mác – Lênin (viết cùng Đỗ Huy), Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, 1985; Mỹ học đại cương, Nxb Giáo dục, 1996, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội tái bản có bổ sung năm 2002 và 2008; Mỹ học Mác – Lênin
cao cấp, Nxb Đại học Sư phạm, 2004 và gần đây nhất là Giáo trình Mỹ học

5


Mác – Lênin, và chủ biên cuốn Giáo trình Lịch sử mỹ học, Nxb Giáo dục Việt
Nam ấn hành năm 2010.
- Là nhà nghiên cứu mỹ học có thâm niên và uy tín của nước ta, ngoài
việc chủ biên và đồng chủ biên một số công trình, tác giả Đỗ Huy đã có nhiều
cống hiến cho ngành khoa học này bằng rất nhiều ấn phẩm có giá trị. Đó là:
Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996;
Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2001; Đạo đức học, mỹ học và đời sống văn học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2002, v.v..
Trong thời gian gần đây những công trình mỹ học thực sự mới ra đời
không nhiều, chủ yếu là tái bản, bổ sung những ấn phẩm đã xuất bản trước đó.
Giáo trình đại cương về những khuynh hướng cơ bản trong lịch sử mỹ học
của tác giả Đỗ Huy và Vũ Trọng Dung chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn
hành năm 2011 đã được giới nghiên cứu mỹ học nói riêng, bạn đọc nói chung
quan tâm. Đây là một trong những công trình nghiên cứu thể hiện tâm huyết
của đội ngũ các nhà khoa học. Công trình này đã đi vào nghiên cứu những nội
dung cơ bản trong suốt tiến trình của lịch sử mỹ học phương Tây từ thời cổ
đại thuộc các khuynh hướng, trường phái khác nhau, đồng thời đề cập đến mỹ
học mácxít ở Việt Nam đương đại với nhiều vấn đề cấp bách mà thực tiễn
đang đặt ra cần giải quyết.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác về mỹ học. Tất
cả các công trình đó đều đã trình bày khá rõ những vấn đề cơ bản của mỹ học.
Nhưng chưa có một công trình nào nói về Tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du
trong tác phẩm “Truyện Kiều”.

Về kiệt tác Truyện Kiều, có rất nhiều những bài, sách,… nghiên cứu về
tác phẩm này nhưng Truyện Kiều chỉ mới được nghiên cứu riêng lẻ trên văn
bản học và trong văn học. Các mặt tâm lý, triết học, âm nhạc, hội họa, khoa

6


học tự nhiên và khoa học xã hội khác còn ít được quan tâm. Những nhà
nghiên cứu Truyện Kiều lại thường đơn độc, riêng lẻ, ít có những tập thể, càng
không nói đến có những trung tâm, những viện, những hội chuyên ngành về
Kiều học để thường xuyên tổ chức giao lưu, trao đổi, tranh luận, đề xuất vấn
đề và hướng nghiên cứu.
Việc tìm hiểu Truyện Kiều cũng đã vượt ra ngoài đất nước Việt Nam
với một đội ngũ các nhà Kiều học, nói hơn 20 thứ ngôn ngữ khác nhau của
hơn 20 nước trên thế giới. Với vị thế quan trọng trong xã hội, Truyện Kiều cần
phải được nâng tầm nghiên cứu để phát lộ hết những giá trị của nó, đồng thời
phát huy tác dụng với đời sống văn hóa xã hội của dân tộc. Mục đích cuối
cùng là nhằm tôn vinh và bảo vệ di sản văn hóa quý giá vào bậc nhất của dân
tộc Việt Nam.
Dưới đây là một số những nghiên cứu tiêu biểu về Truyện Kiều:
Cuốn Từ điển Truyện Kiều của GS. Đào Duy Anh là những lý giải cắt
nghĩa thuật ngữ trong Truyện Kiều. Tác phẩm được xuất bản năm 1974 và tái
bản năm 1986 (Phan Ngọc sửa chữa và bổ sung) đã giúp rất nhiều cho bạn
đọc trong việc tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm. Nay Nhà xuất bản Giáo dục
lại tiếp tục cho tái bản lại cuốn sách này để nó đến được với nhiều độc giả
hơn nữa. Nguyễn Du đã sử dụng một cách tài tình những yếu tố dân gian của
ngôn ngữ. Ông đã dân tộc hóa những đặc trưng văn học chữ Hán, cái mà
trước kia chỉ được sử dụng một cách dè dặt, vụng về trong văn học chữ Nôm.
Tố Như đã phát triển, hoàn chỉnh và thống nhất hai thành phần quan trọng của
ngôn ngữ văn học Việt Nam, yếu tố văn học dân gian và yếu tố văn học chữ

Hán để tạo nên một ngôn ngữ văn học mới, dồi dào, uyển chuyển. Quyển từ
điển này cố gắng phản ánh sự kiện quan trọng ấy của lịch sử ngôn ngữ và lịch
sử văn học Việt Nam. Tác giả đã thu thập tất cả những từ đơn, từ kép, những
thành ngữ và tổ từ, những hình tượng và điển tích văn học, thỉnh thoảng có

7


thêm những nhận xét về ngôn ngữ học, về tu từ học và về văn học được
Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều. Nó sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào
tình hình tiếng Việt thời điểm đầu thế kỷ XIX và cấu tạo của tiếng Việt hiện
đại, đồng thời giúp chúng ta hiểu được những yếu tố nào do Nguyễn Du sáng
tạo để làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc. Đây không phải là cuốn từ điển thông
thường mà chủ yếu là từ điển về một tác phẩm nhằm phục vụ sự nghiên cứu
ngôn ngữ và văn chương của Nguyễn Du, cho nên nó không giải thích như
các từ điển khác. Nó chỉ chú trọng nêu lên những nghĩa do Nguyễn Du dùng
trong tác phẩm, còn những nghĩa khác thì không nói đến.
Trong cuốn Truyện Kiều – Những lời bình do tác giả Hoài Phương biên
soạn và tuyển chọn, tập trung rất nhiều bài viết, nhiều ý kiến đóng góp, phê
bình của rất nhiều học giả trong nước và nước ngoài về Nguyễn Du và Truyện
Kiều. Chẳng hạn như bài Cảm hứng chủ đạo và nội dung xã hội của Truyện
Kiều do Nguyễn Ngọc viết; bài Quyền sống của con người trong Truyện Kiều
do Hoài Thanh viết. Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài viết liên quan đến các
khía cạnh nội dung trong Truyện Kiều nhưng tư tưởng thẩm mỹ trong tác
phẩm này thì chưa được rõ ràng, đầy đủ.
Cũng là những bài bình luận, đánh giá về Truyện Kiều chúng ta không
thể không nhắc tới cuốn sách mới xuất bản năm 2008: Nghiên cứu Truyện
Kiều những năm đầu thế kỷ XXI. Trong cuốn sách này tập hợp rất nhiều
những bài viết bình luận về tác phẩm Truyện Kiều và những giá trị đặc sắc
của nó nhưng về giá trị thẩm mỹ trong Truyện Kiều thì chưa được phản ánh

một cách sâu sắc.
Bên cạnh những tác phẩm ấy, tác giả Lê Đình Kỵ đã dành cả một cuốn
sách 483 trang để phân tích, bình luận, đánh giá Truyện Kiều và khẳng định
những tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1970. Nhìn Truyện Kiều

8


như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của Nguyễn
Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội – lịch sử nhất định, Lê Đình Kỵ
đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở tư tưởng – thẩm mỹ cũng
như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà thơ. Tác giả cuốn sách đã
chỉ ra đâu là huyền thoại và đâu là thực chất trong triết lý về Tài, Mệnh, Tâm
của Truyện Kiều. Những trang hay nhất của cuốn sách được dành để viết về
thế giới nhân vật đa dạng và sống động của Nguyễn Du, từ Thúy Kiều, Kim
Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh,… Với giọng văn
uyển chuyển, nhuần nhị, những trang sách này có thể xem là một dẫn chứng
điển hình về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của một con người hiện
đại có tầm văn hóa cao. Và từ niềm xác tín trên con đường nghiên cứu của
mình, Lê Đình Kỵ đã bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối với cảm hứng nhân
đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du trong việc nhìn nhận thế giới và con người.
Ông viết: “Sức mạnh của câu thơ Kiều không hẳn là ở chỗ khám phá ra những
hình tượng chưa ai hình dung được, những ý nghĩ chưa ai ngờ tới mà là ở cái
tình người, tình đời thăm thẳm mà Nguyễn Du đưa vào cái nhìn, cái nghe, cái
nghĩ của mình, vào một vầng trăng, một dòng suối, một ngàn dâu, một tiếng
chim, một ngọn lá. Đến đá dưới ngòi bút Nguyễn Du cũng mềm đi trước
những đau khổ của con người” [28, 170]. Lê Đình Kỵ cũng đã khẳng định:
“Tôi cố gắng tìm hiểu những tư liệu lịch sử về thời đại và cuộc đời Nguyễn
Du; căn cứ vào chính văn bản và các hình tượng trong Truyện Kiều để thuyết

phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại không chỉ vì phương pháp sáng tác
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bởi vì thực ra những gì mà Nguyễn
Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng ta chỉ có thể hình dung đến một chủ
nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn sơ kỳ của
nó mà thôi” [25, 11].

9


Ngoài ra còn rất nhiều các bài nghiên cứu cũng như sách khác viết về
Truyện Kiều nhưng do điều kiện thời gian có hạn, tác giả chưa thể khai thác
được đầy đủ những tài liệu liên quan nên về lịch sử vấn đề còn hạn chế nhiều.
Nhìn chung, khi xem xét quá trình nghiên cứu về Truyện Kiều, tôi nhận thấy
từ xưa đến nay các nhà nghiên cứu đã chú ý đến việc lý giải tính cách, phẩm
chất, hành động, cách ứng xử của các nhân vật Truyện Kiều, đến giá trị hiện
thực, nhân đạo của tác phẩm này,… nhưng hầu như chưa có ai xem xét
Truyện Kiều dưới góc độ thẩm mỹ, mỹ học. Đây là một khó khăn và cũng là
sự thách thức lớn đối với tôi khi lựa chọn đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu các tư tưởng của Nguyễn Du về cái
Đẹp, cái Xấu, cái Bi, cái Hài, cái Anh hùng và những tình cảm thẩm mỹ trong
thời đại của ông, qua đó đóng góp vào việc tôn vinh nhà văn hóa lớn của dân
tộc ta.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Trình bày lịch sử Việt Nam giai đoạn Nguyễn Du sống – đầu thế kỷ
XIX cũng như thân thế, sự nghiệp của ông.
- Nghiên cứu về Truyện Kiều và những tài liệu viết về tác phẩm này để
từ đó khái quát được tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du được thể hiện như thế
nào trong kiệt tác này của ông.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

- Phạm vi: Tác phẩm Truyện Kiều.
- Đối tượng: Tư tưởng thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm Truyện Kiều
của Nguyễn Du.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý mỹ học Marx –

10


Lenin, quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa nghệ thuật. Đồng thời
cũng nhìn nhận tư tưởng thẩm mỹ tác phẩm từ đặc trưng của tư tưởng phương
Đông để làm rõ, làm sâu sắc hơn vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu: chủ yếu sử dụng phương pháp logic – lịch
sử và phân tích – tổng hợp. Ngoài ra còn dựa vào các phương pháp khác như
phương pháp so sánh, phương pháp đồng đại và lịch đại, phương pháp quy
nạp – diễn dịch,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Luận văn góp phần khẳng định sự phong phú và mãnh liệt
của tâm hồn Việt Nam từ quá khứ tới hiện tại thông qua những tư tưởng thẩm
mỹ của Nguyễn Du để từ đó nhận thức sâu sắc hơn về giá trị muôn đời của
kiệt tác Truyện Kiều.
- Về thực tiễn: Có thể vận dụng vào việc làm đẹp tâm hồn con người
Việt Nam, giúp chúng ta thêm tự hào về những gì chúng ta đã có, để thế hệ trẻ
hôm nay ý thức hơn về bổn phận và trách nhiệm của mình đối với những giá
trị lâu bền của dân tộc.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 02 chương và 06 tiết.


11


Chương 1
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG THẨM MỸ CỦA
NGUYỄN DU TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU
1.1. Một số vấn đề lý luận về tư tưởng thẩm mỹ
Về khái niệm tư tưởng, theo Đại từ điển Tiếng Việt, tư tưởng dt được
định nghĩa là 1. Sự suy nghĩ: tập trung tư tưởng làm việc. 2. Quan điểm và ý
nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội: có tư tưởng tiến
bộ, đấu tranh tư tưởng [40, 1757].
Theo Giáo trình Lý luận văn học, Phạm Đăng Dư – PTS. Lê Lưu Oanh
có khẳng định: “Người ta thường hiểu tư tưởng là một phán đoán khái quát về
hiện thực. Trong phán đoán đó bao giờ cũng chứa đựng một quan hệ có tính
quy luật giữa các hiện tượng, sự vật của đời sống. Chẳng hạn, nếu nói “con
người” thì tuy khái niệm đó cũng khái quát, nhưng chưa bao hàm tư tưởng.
Nhưng nếu nói “người với người là bạn”, “Người ta là hoa đất”, “Con người,
hai tiếng tự hào”,… thì trước mắt ta đó là những tư tưởng. Tư tưởng chẳng
những bao giờ cũng nói lên một quan hệ có tính quy luật giữa các sự vật, mà
còn biểu thị một thái độ, một nhiệt tình khẳng định, phủ định một ý muốn.
Lênin nói: “Tư tưởng – đó là nhận thức và khát vọng (mong muốn) của con
người”. Tư tưởng đó dĩ nhiên gắn liền với một thế giới quan, một lập trường
giai cấp nhất định”[4,97]. Còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Hậu thì:
“Bản thân cuộc sống, bản thân hành động cũng mang tính triết học, cũng nói
lên tư tưởng”[9, 7].
Vậy, tư tưởng chính là sự suy nghĩ, quan điểm của con người đối với
hiện thực khách quan và xã hội nói chung. Những quan điểm, quan niệm, luận
điểm ấy được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương
pháp luận nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một


12


dân tộc), được hình thành trên cơ sở thực tiễn, cải tạo hiện thực. Tư tưởng
chứa đựng các mục đích, suy tư giúp điều chỉnh mục tiêu, dự tính và hành
động của con người. Một tư tưởng có thể hiểu như một tầm nhìn bao quát,
như cách thức để xem xét sự vật, thường gặp trong một vài trường phái triết
học xã hội. Theo đó, hệ tư tưởng là toàn bộ những quan niệm, quan điểm đã
được hệ thống hóa thành lý luận, học thuyết về đạo đức, chính trị, pháp
quyền,… Nói cách khác đó là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị,
triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,…) được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành lý luận, thành các học thuyết chính trị - xã hội phản ánh và bảo vệ lợi
ích của một giai cấp nhất định. Giai cấp nào thống trị xã hội thì hệ tư tưởng
của nó cũng thống trị xã hội – hệ tư tưởng thống trị. Hệ tư tưởng không hình
thành một cách tự phát mà hình thành một cách tự giác do các nhà tư tưởng
của những giai cấp nhất định xây dựng nên.
Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, là sản phẩm chủ quan của con người.
Ý thức như thế nào phụ thuộc vào đối tượng phản ánh, môi trường xung
quanh và trình độ nhận thức, tâm sinh lý của mỗi người. Vốn dĩ nhận thức của
con người lại có lúc hợp lý, có lúc chưa hợp lý, vì vậy, tư tưởng cũng sẽ có
những tư tưởng phù hợp với thực tế, cũng có những tư tưởng phản ánh sai
lệch thực tế. Kéo theo đó, hệ tư tưởng cũng có hệ tư tưởng khoa học, tức là
khi hệ tư tưởng ấy là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng, có sứ mệnh lật đổ
xã hội cũ lỗi thời, xây dựng xã hội mới, tiến bộ hơn; đồng thời cũng có hệ tư
tưởng không khoa học, khi hệ tư tưởng đó gắn liền với các giai cấp đã lỗi
thời, phản động đang cố duy trì quyền lợi ích kỷ của mình.
Với tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng đóng vai trò là khuynh hướng chủ
đạo, là yếu tố quan trọng nhất. Song nó không mang tính chất giáo điều, giáo
huấn khô khan qua những lời thuyết giáo về đạo đức của các nhân vật, nó
càng không phải là những công thức, khái niệm trừu tượng. “Nghệ thuật


13


không dung nạp những tư tưởng triết lý trừu tượng và nhất là những tư tưởng
duy lý. Nó chỉ dung nạp những tư tưởng thơ ca, không phải là một quy tắc,
mà là nhiệt tình sinh động, là cảm hứng chủ đạo,… Trong cảm hứng chủ đạo,
nhà thơ trở nên yêu tư tưởng như yêu cái đẹp,… Nhà thơ quan sát tư tưởng
không phải bằng lý trí, không phải bằng lý tính, không phải bằng cảm giác và
không phải chỉ bằng một năng lực nào đó của tâm hồn mà bằng tất cả tồn tại
tinh thần đầy đủ và hoàn chỉnh của mình”[3, 312].
Tư tưởng trong nghệ thuật bao giờ cũng được nghệ sĩ bộc lộ trong khi
tái hiện cuộc sống cụ thể. Nó không sống độc lập bên cạnh hình tượng, không
phải chỉ thể hiện dưới dạng những lời bình luận của tác giả, mà nó nằm ngay
trong cơ cấu hình tượng của tác phẩm và được toát ra từ chính cơ cấu này.
Đây chính là tư tưởng của cả K. Marx và F. Engels khi đánh giá Arixtôphan
và Honoré de Balzac. Tư tưởng tác phẩm bao giờ cũng phải tìm cho được
hình tượng của mình – có thể là nhân vật, cũng có thể là các hình tượng khác.
Do đó, trong nghệ thuật không có giới hạn nào ngăn cách tư tưởng và hình
thức. Chúng đều là một thể toàn vẹn và thống nhất.
Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội, một
hành động biểu hiện thế giới tinh thần của con người nên nó mang tính tư
tưởng một cách tất yếu. Tư tưởng tác phẩm chính là sự đánh giá và bộc lộ ý
nghĩa của những gì đã được thể hiện, là cách giải quyết vấn đề đã đặt ra trong
tác phẩm theo một khuynh hướng nhất định, vốn có ở lập trường, quan điểm
của tác giả. Nói cách khác, tư tưởng tác phẩm chính là sự bộc lộ, miêu tả tư
tưởng tác giả bằng tác phẩm văn học. “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn
học” (Nhà văn V. G. Korolenco).
Trong Truyện Kiều, tư tưởng chủ đạo là sự đau xót cho số phận bạc
mệnh của con người và khẳng định chính xã hội phong kiến tàn bạo mới là


14


thủ phạm chính vùi dập cuộc đời con người. Nhưng xoay quanh tư tưởng chủ
đạo ấy có nhiều mạch tư tưởng, tương ứng với vấn đề ca ngợi vẻ đẹp của con
người, nhất là người phụ nữ là vấn đề số phận con người, khóc thương cho bi
kịch khát vọng tình yêu và công lý; tương ứng với tư tưởng chủ quan của
Nguyễn Du cho cuộc đời con người đau khổ là do số mệnh (Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau!, Ngẫm thay muôn sự tại trời) là tư tưởng hình tượng của
tác phẩm khẳng định rõ xã hội phong kiến tàn bạo mới là thủ phạm chính vùi
dập cuộc đời con người.
Theo cách nói của nhà bác học Xôviết Bakhtin, có thể nói rằng, các
nhân vật chính của Nguyễn Du, của Balzac, Lỗ Tấn,… đều là “những nhà tư
tưởng”. Tố Như đã khắc họa tư tưởng của nhân vật là sự ý thức về địa vị,
hoàn cảnh và số phận của họ trong xã hội. Mỗi lời nói, ý nghĩ của nhân vật
đều là những ý kiến đồng tình hay phản đối trước hiện trạng của cuộc đời con
người. Con người trong văn học không giản đơn là người biết suy nghĩ, cảm
xúc, mà là người có ý kiến trước vận mệnh và thời cuộc. Mỗi nhân vật đều có
một lập trường, một quan điểm đánh giá, một khẩu hiệu sống giàu ý nghĩa.
Xét ở từng góc độ khác nhau, thì tư tưởng có những hình thức khác
nhau. Ở phạm vi luận văn này, chúng ta đề cập tới tư tưởng của một tác giả
thông qua một tác phẩm văn học, đó là tư tưởng của Nguyễn Du trong tác
phẩm Truyện Kiều mà cụ thể là tư tưởng thẩm mỹ. Song, tư tưởng thẩm mỹ là
gì? Nó được biểu hiện như thế nào thì tiếp theo chúng ta cần tìm hiểu về khái
niệm thẩm mỹ để rút ra định nghĩa về tư tưởng thẩm mỹ.
Cũng theo Đại từ điển Tiếng Việt, thẩm mỹ dt. Khả năng cảm thụ và
hiểu biết về cái đẹp: khiếu thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ cho học sinh [40,
1540]. Thẩm mỹ chính là quan niệm, sự đánh giá, cảm thụ của con người về


15


cái Đẹp, về những biểu hiện của các quan hệ thẩm mỹ trong cuộc sống: cái
thẩm mỹ trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong sáng tạo nghệ thuật.
Thẩm mỹ thuộc lĩnh vực tri giác cảm tính của con người đối với thế
giới xung quanh. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó khuyết đi khía cạnh tư
duy, lý tính. Con người tổng thể không chỉ gắn liền với chuyện cảm tính. Bản
thân mỗi chúng ta không hoàn toàn là quà tặng từ bà mẫu thiên nhiên mà là
sản phẩm lịch sử - văn hóa có năng lực tư duy logic, lập luận về thế giới. Sự
kém phát triển thẩm mỹ gắn liền hữu cơ với sự thiếu vắng sức sáng tạo, sức
tưởng tượng hiệu quả. Cá nhân kém phát triển về thẩm mỹ sẽ không có khả
năng tự thực hiện bước chuyển từ các tri thức chung được nó lĩnh hội một
cách hình thức sang tính cụ thể sống động, sang tính đặc sắc của dữ kiện, sự
kiện, tình huống.
Từ những kiến giải trên đây, ta có thể hiểu tư tưởng thẩm mỹ là
những suy nghĩ, quan niệm, quan điểm về những biểu hiện của cái Đẹp, cái
thẩm mỹ trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật của cá nhân, nhóm, trào lưu
nghệ thuật, tổng thể giai cấp, xã hội,… được bộc lộ qua các hoạt động thực
tiễn cụ thể. Tư tưởng thẩm mỹ là sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm, tức là
biểu hiện cả dưới dạng lý trí và xúc cảm. Nó thuộc về tư duy hình tượng. Tư
tưởng thẩm mỹ mang tầm lý luận, khái quát, ở cấp độ lý tính sáng suốt. Từ
nhận thức thẩm mỹ tới ý thức thẩm mỹ rồi khái quát thành tư tưởng thẩm mỹ.
Và từ tư tưởng được đúc kết dưới hình thái phát ngôn tư tưởng, từ trí tuệ được
đúc kết về lẽ sống, về nhân sinh, về tồn tại người dưới dạng câu nói ngắn gọn,
súc tích, ta có được những triết lý.
Nhờ lao động và hoạt động thực tiễn, con người được hình thành và
phát triển, trong đó có khả năng cảm thụ thẩm mỹ. Trong quá trình tiếp xúc
với nhau và với tự nhiên, con người phản ánh và nhận thức hiện thực, biến


16


hiện thực thành khách thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ. Khi tư duy của
chúng ta đã đạt tới trình độ lý luận, có định hướng nhất định thì khi đó nhận
thức thẩm mỹ sẽ được khái quát thành những tư tưởng thẩm mỹ. Vậy, nguồn
gốc và cơ sở khách quan của tư tưởng thẩm mỹ chính là quá trình lao động.
Nếu như nhận thức thẩm mỹ chỉ là sự phản ánh thế giới thẩm mỹ
khách quan, tư duy thẩm mỹ của con người; ý thức thẩm mỹ - hình thức đặc
thù của ý thức xã hội – cũng là sự phản ánh thực tại khách quan trong đầu óc
của con người nhưng được nâng lên thành kết quả của sự khái quát những đặc
điểm bản chất của sự vật tạo thành các tri thức, các chủ kiến của con người về
các mối liên hệ tất yếu, có tính quy luật về cái Đẹp, cái thẩm mỹ thì tư tưởng
thẩm mỹ là cái cốt lõi, tinh túy, khái quát, chắt lọc nhất của những sự phản
ánh ấy.
Trình độ tư tưởng thẩm mỹ và trình độ tâm lý - xã hội đều được bao
hàm trong mọi hình thức của ý thức xã hội, trong đó có ý thức thẩm mỹ. Nếu
như tâm lý xã hội mang lại tình cảm, tâm trạng, thể cảm cho con người thì hệ
tư tưởng mang lại một sự hệ thống hoá, sự hình thành về mặt lý thuyết của tư
tưởng, quan điểm và các quan niệm. Ý thức thẩm mỹ của trình độ tư tưởng
thể hiện trong các dạng thức của các quan điểm thẩm mỹ, trong các học
thuyết, các quan niệm và trong các dạng lý tưởng thẩm mỹ.
Tư tưởng, quan điểm và lý thuyết thẩm mỹ như là bộ phận hợp thành
thế giới quan của các nhóm xã hội này hay nhóm xã hội khác, giai cấp này
hay giai cấp kia Đó thường thường là những thành tố của những hệ thống triết
học khác nhau. Sự thể hiện một cách có hệ thống các tư tưởng thẩm mỹ có thể
tìm thấy trong các lý thuyết thẩm mỹ, trong mỹ học với tư cách là một khoa
học. Tư tưởng thẩm mỹ phản ánh trong dạng thức lôgic - lý thuyết thẩm mỹ
của các nhu cầu xã hội, được khái quát trong thực tiễn hoạt động thẩm mỹ và
từ đó hình thành ra các khái niệm về bản chất của cái đẹp, về quan hệ thẩm


17


mỹ của con người đối với hiện thực và bản chất của tình cảm thẩm mỹ, về các
dạng thức cơ bản và các hình thức nhận thức thẩm mỹ cũng như cải tạo thế
giới hiện thực.
Trong lịch sử phát triển của mỹ học, cũng như của hàng loạt các hình
thức khác của ý thức xã hội, tư tưởng thẩm mỹ luôn luôn mang tính chất thế
giới quan và tinh thần của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, tư tưởng thẩm mỹ cũng phản ánh cuộc đấu tranh giữa những lực
lượng thù địch của xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp. Hệ thống tư tưởng thẩm
mỹ phát triển không chỉ qua các tác phẩm triết học, mà cả trong các tác phẩm
chính trị, trong các luận văn về đạo đức học và tôn giáo, đặc biệt trong các
công trình nghiên cứu lý luận và kho tàng nghệ thuật của các nhà nghệ sĩ, các
nhà văn, các nhạc sĩ, các nhà hoạt động kịch, phim ảnh…
Trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc ở Trung Quốc, các khuynh hướng
tư tưởng lớn như Khổng giáo, Lão giáo, Mặc gia và Pháp gia… nảy sinh và
luôn tranh giành ảnh hưởng với nhau. Các quan niệm về đạo đức, chính trị,
thẩm mỹ… đua nhau phát triển và đã xuất hiện không ít tư tưởng thẩm mỹ
độc đáo, rất đáng lưu tâm tìm hiểu. Cái hay là chúng thường được trình bày
dưới hình thức những câu chuyện có tính ngụ ngôn, khá sinh động và thấm
thía. Chẳng hạn câu chuyện về công việc sáng tạo của họa sĩ trong Hàn Phi
Tử. Người đại diện lớn nhất của phái Pháp gia này kể rằng, có một nghệ sỹ
người nước Tề, nhân Tề Công hỏi vẽ vật gì khó nhất, ông đáp: ”Vẽ chó, ngựa
và những con thú khác”; còn đối với câu hỏi vẽ gì dễ hơn cả thì ông đáp: ”Vẽ
ma, quỷ và những tà lực khác”. Liền sau đó, người họa sỹ giải thích như
sau: ”Hàng ngày, mọi người đều thấy ngựa và biết rõ ngựa như thế nào. Chỉ
cần lầm lẫn chút ít trong bức họa là họ lập tức bàn tán. Còn ma quỷ thì
chẳng có một nhận thức rõ rệt nào về chúng cả, do vậy vẽ chúng là chuyện

dễ”. Hàn Phi Tử quan niệm giá trị của các tác phẩm nghệ thuật chỉ được xác

18


định trong tương quan với người tiếp nhận chúng, mà người cảm thụ thì bao
giờ cũng dùng sự từng trải của chính mình để đánh giá tác phẩm. Bởi vậy,
nghệ thuật muốn có ý nghĩa phải gắn với hiện thực đời sống. Mọi tưởng
tượng tách rời thực tại đều quái đản và huyễn hoặc. Sáng tạo nghệ thuật được
coi là một hình thức lao động công phu là vì thế. Ý nghĩa mỹ học của câu
chuyện này đâu có nhỏ và đâu có giới hạn chỉ ở thời trước. Tư tưởng thẩm mỹ
thuộc về cách nhìn của chủ thể nhưng nó lại xuất phát từ chính hiện thực.
Hy Lạp thời cổ đại cũng từng sản sinh ra nhiều nhà triết học, nhiều nhà
mỹ học lỗi lạc. Một trong những tên tuổi lừng danh là Heraclite (540 - 480
TCN). Với ông, chân lý luôn là cụ thể. Ông cho rằng: ”Lừa thích rơm hơn
vàng”. Ông còn nói: ”Nước biển sạch nhất đồng thời bẩn nhất. Đối với cá nó
dùng để uống và nó vô hại. Còn đối với con người, nó không dùng để uống
được và nó có hại”. Từ đó Heraclite chủ trương tính tương đối của cái đẹp.
Ông nói: ”Con khỉ đẹp nhất cũng là xấu so với loài người; và con người hoàn
thiện nhất khi so với thần thánh cũng chỉ như một con khỉ”. Những quan điểm
mỹ học, những tư tưởng thẩm mỹ duy vật biện chứng mang tính chất tự phát
tương tự có thể dễ dàng tìm trong các công trình lý luận của các nhà tư tưởng
duy vật ở Hy Lạp thời cổ đại.
Rõ ràng, các tư tưởng thẩm mỹ đã nảy sinh từ rất sớm trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại. Tuy nhiên, mỹ học với tư cách là một ngành khoa học
độc lập lại phải chờ tới thời cận đại. Một trong những yếu tố quan trọng giúp
mỹ học tách dần ra khỏi triết học là việc xác lập được đối tượng đặc thù của
ngành khoa học này.
Mặt khác, tư tưởng thẩm mỹ thuộc về nội dung của nghệ thuật bởi lẽ
nội dung nghệ thuật chính là hiện thực đã được nghệ sĩ nghiền ngẫm về mặt

tư tưởng thẩm mỹ trong quá trình sáng tác và được nghệ sĩ phản ánh vào

19


trong tác phẩm nghệ thuật dưới ánh sáng của những lý tưởng xã hội thẩm mỹ
của một thế giới quan nhất định. Bởi vậy, khi xem xét tư tưởng thẩm mỹ của
một tác giả thông qua một tác phẩm cụ thể, chúng ta cần xem xét chủ yếu ở
bình diện nội dung của tác phẩm. Tất nhiên không thể bỏ qua những khía
cạnh nghệ thuật – phương thức để thể hiện nội dung, thể hiện quan điểm tác
giả. Như thế, muốn hiểu tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
thì điều căn bản nhất là thấu đạt nội dung tác phẩm để hướng tới cách nhìn,
tầm suy ngẫm, tư tưởng về các khía cạnh thẩm mỹ của ông.
. Những tiền đề tư tưởng ảnh hưởng tới tư tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du
1.2.1. Ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão và tư tưởng thẩm mỹ Việt Nam
trước thế kỷ XIX đến tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du
1.2.1.1. Ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão đến tư tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo đã có một khoảng thời gian tồn tại hơn
2500 năm. Trong quãng thời gian hơn hai thiên niên kỷ rưỡi tồn tại, các học
thuyết này đã có rất nhiều biến đổi. Trong phạm vi luận văn này, người viết
chỉ xin nhấn mạnh những điểm quan trọng của các học thuyết này liên quan
tới vấn đề luận văn đang đề cập.
Trước hết, có thể thấy rằng, tư tưởng thẩm mỹ của Việt Nam nói
chung và của Nguyễn Du nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng mỹ
học cổ đại Trung Hoa. Chính bản thân Truyện Kiều cũng được Nguyễn Du
dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung
Quốc. Mỹ học Trung Hoa là sự đan cài và đầy mâu thuẫn giữa các luận thuyết
mỹ học khác nhau. Khuynh hướng tích cực nhất là xem cái “mỹ” có nguồn

gốc ở cái “chân” của tự nhiên. Vì vậy, cái “mỹ” của nghệ thuật cần lĩnh hội có
chọn lọc cái “chân” đó thông qua sự thể hiện cái “tâm”, cái “tình” thuần khiết

20


của người sáng tạo. Khuynh hướng mỹ học quý tộc thường đề cao “đạo”, “lý
tưởng” phụ thuộc vào hệ tư tưởng thống trị và xem cái thẩm mỹ là phẩm chất
“người quân tử” (kẻ đại diện cho quyền lực tinh thần của giai cấp thống trị).
Từ góc nhìn “phương Đông” và “bản địa”, mỹ học cổ đại Trung Hoa đã xây
dựng một hệ thống lý luận và các phạm trù cơ bản. Nó đề cao sự hòa đồng
giữa chủ thể và khách thể, giữa con người với tự nhiên, xã hội. Thấm đượm
triết lý nhân sinh, đạo đức và chính trị, mỹ học cổ đại Trung Hoa đòi hỏi sự
thống nhất giữa mỹ và thiện; tình, ý và đạo lý; sáng tạo thẩm mỹ và trách
nhiệm xã hội. Lịch trình phát triển của nền mỹ học này bao trùm cả hệ thống
quy ước của quần chúng và sự đòi hỏi của cá tính con người. Mỹ học Trung
Hoa cổ đại đã phát triển trên cơ sở của sự xung đột đa dạng, quyết liệt giữa
“bách gia, chư tử”. Nho gia với Khổng Tử, Mạnh Tử; Mặc gia với Mặc Tử;
Đạo gia với Lão Tử, Trang Tử; Pháp gia với Hàn Phi; Âm Dương – Ngũ
Hành, Dịch truyện, Dịch kinh,… Khổng Tử, Lão Tử, Tuân Tử, Khuất
Nguyên, Tư Mã Thiên, Lưu Hiệp, Viên Mai, Nguyễn Tịch, Hàn Dũ, Bạch Cư
Dị, Nguyên Chẩn, Đỗ Phủ,… là những chủ soái của mỹ học cổ đại Trung
Hoa. Nền mỹ học ấy đã có một lịch sử lâu dài và có những thành tựu to lớn.
Song, do nảy sinh và phát triển trên cơ sở của phương thức sản xuất châu Á
và chế độ nông nô, phong kiến, mỹ học Trung Quốc cổ đại đã không thể vượt
lên được và về sau thường rơi vào duy tâm, siêu hình.
Trong các trường phái mỹ học Trung Hoa cổ đại thì Nguyễn Du chịu
ảnh hưởng khá rõ nét từ Nho giáo và Đạo giáo. Nguồn gốc tư tưởng thẩm mỹ
của ông trước hết là tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo. Bởi lẽ, từ thế kỷ XV, cho
đến giữa thế kỷ XIX, thậm chí đến đầu thế kỷ XX, trong đời sống tinh thần

của nước ta, Nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối. Nguyễn Du sống ở
cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX nên đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ những
tư tưởng của Nho giáo, trong đó có tư tưởng thẩm mỹ, nhất là khi ông xuất

21


thân trong một gia đình, một dòng họ nổi tiếng về tước vị và văn chương, đặc
biệt ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh lại chuyên chú về Kinh Dịch.
Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ khi nước ta bị xâm lược
và sáp nhập vào Trung Quốc – đời Hán (206 TCN đến 220 SCN). Sĩ Nhiếp
(thế kỷ thứ II SCN) được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho học
nước ta. Trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo cùng với
Phật giáo và Đạo giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân
dân ta. Cuối thế kỷ XIV, sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh (1427) nhà
nước Lê sơ dành cho Nho giáo địa vị độc tôn – học thuyết chính thống của
nhà nước – cuối thế kỷ đó, vào thời Lê Thánh Tông (làm vua từ 1460 đến
1497), nó đạt đến mức toàn thịnh.
Khổng Tử được coi là người sáng lập ra học thuyết này. Nhưng trước
ông, nó đã tồn tại ở Trung Quốc dưới dạng các chất liệu tư tưởng. Và chỉ đến
Khổng Tử, Nho giáo mới trở thành một học thuyết thực sự. Học thuyết Nho
giáo hướng vào mục đích lớn nhất là “chống loạn cứu thế”, muốn xây dựng
một xã hội có trật tự, hài hòa, trong đó con người sống theo đúng phận vị –
một xã hội “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử). Nho giáo từ trong mục đích của mình đã hướng về xã
hội, mang tinh thần nhập thế tích cực. Học thuyết này hướng về một bộ phận
những người được xem là tinh hoa của các thời đại: quý tộc các loại và các
nhà nho bằng con đường trước nhất là tu thân rồi mới thực hiện các lý tưởng
“tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con đường xây dựng chính trị mà Nho gia
hướng theo chính là con đường Đức trị.

Trong hệ thống tư tưởng của mình, Nho giáo cũng đề cập tới những
tư tưởng thẩm mỹ sâu sắc. Đối với học thuyết này, thì mỹ chính là thiện, tận
thiện, tận mỹ tồn tại trong một sự vật hiện tượng, là tiêu chuẩn và yêu cầu cao
nhất của cái Đẹp. Khổng Tử quan niệm: mỹ tức là thiện. Thiện chủ yếu là sự

22


bình giá có tính công lợi của sự vật. Còn đối với mỹ thì ngoài tính công lợi ra
nó còn phải đáp ứng sự hài hòa giữa nội dung và hình thức. Khi nói thiện tức
là mỹ, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất thiện – nội dung, mỹ hình thức trong văn chương – nghệ thuật. Là sự biểu hiện giữa đức và văn.
Ông nói: “người có đức tất có lời, người có lời tức có đức”. Y phục xứng kỳ
đức. Cái đẹp của cách may mặc phải hài hòa với các giá trị đạo đức. Cũng bàn
về vấn đề này, từ góc độ nhân tính, Mạnh Tử cho rằng, cái Đẹp luôn có trong
mọi người. Ông quan niệm: “làm cho đầy đặn gọi là đẹp”. Vậy nên cái Đẹp
theo ông là thống nhất với cái thiện, thêm tín vào nữa là sự thống nhất Chân –
Thiện – Mỹ. Còn với Tuân Tử, cái Đẹp của con người thể hiện ở sự tu dưỡng
đạo đức, học tập không ngừng làm cho tính ác nhập vào quỹ đạo của thiện.
Các ông đều thấy cái Đẹp gắn liền với cái thiện, hạt nhân của thiện là lễ và
nhân. Mục đích của lễ và nhân là làm sao để cho thiên hạ đi đến bình trị:
thống nhất, hài hòa. Từ đó, các ông có chung tư tưởng cái Đẹp trung hòa với
nghệ thuật.
Theo Nho giáo, quan điểm thẩm mỹ về vẻ đẹp của con người cũng có
những chuẩn mực rất cụ thể. Chẳng hạn, một người phụ nữ đẹp phải có tứ
đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Trong tứ đức, có ba đức (công – ngôn – hạnh)
nói về vẻ đẹp của tâm hồn, của đạo đức. Nói gọn lại thì đó chính là sự lao
động phù hợp với khả năng của phụ nữ. Ngay trong nội dung của khái niệm
“Dung” cũng không hẳn chỉ là hình thức bên ngoài mà còn bao hàm cả vẻ đẹp
của tâm hồn. Một người phụ nữ chỉ có dung (vẻ đẹp của dung nhan, hình thức
bên ngoài) mà không biết làm những việc của phụ nữ (nữ công như thêu thùa,

vá may gia chánh,…), không có lời ăn tiếng nói dịu dàng, không có lễ, không
thùy mị nết na, không có những đức tính mà người phụ nữ cần có thì không ai
có thể chấp nhận đó là người đẹp lý tưởng.

23


Hơn nữa, tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo còn thể hiện ở quan niệm về cái
Đẹp nhân vi rèn luyện, chế ước, tức vẻ đẹp của sự tôi luyện, của sự vượt lên
và vẻ đẹp mang tính công dụng. Cũng như đối với con người, Nho giáo
thường quan tâm xem họ đã làm gì có ích cho nhân quần, xã hội, thì với cái
Đẹp cũng vậy, Nho giáo cũng rất quan tâm đến tính quan dụng, ích lợi của
chúng đối với con người.
Đồng thời, Nho giáo cũng đưa ra quan niệm về cái Đẹp thực hữu,
sống động. Tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo đề cao tính biểu tượng, được soi rọi
từ hiện thực của tâm, chí. Mặc dù đề cao vai trò của cái chủ quan trong quá
trình tiếp nhận ngoại cảnh, Nho giáo trong bản thân học thuyết của mình chưa
bao giờ phủ định tính hiện thực của sự tồn tại thế giới hiện tượng. Cái Đẹp,
cái thẩm mỹ trong quan điểm của Nho giáo vẫn là những gì gắn với mặt đất,
con người đang tồn tại chứ không nằm trong một thế giới siêu việt. Nó thường
vận động, biến đổi theo quy luật biến dịch chứ không hề tĩnh tại. Có thể coi
cái động là một phạm trù thẩm mỹ tiêu biểu của văn chương nhà nho. Từ cái
động, nho gia tiến tới xác lập các phạm trù thẩm mỹ khác như cái tự cường,
cái cương kiện, sinh sinh hài hòa. Nho gia từ trong tinh thần triết học nhân
sinh vốn đã theo đuổi quan niệm: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất
tức” (Thiên vận hành rất khỏe, người quân tử cũng cần làm cho mình không
ngừng tự cường cùng với sự tự cường không nghỉ của trời đất). Những hình
tượng thiên nhiên sống động, cương kiện như tùng, trúc, cúc, mai là sự tiếp
diễn một cách tự nhiên từ tinh thần triết học tới lĩnh vực thẩm mỹ. Hay nói
cách khác, thẩm mỹ cũng là một phương diện trong đời sống tinh thần lấy tu

dưỡng làm then chốt của nhà nho, thẩm mỹ cũng là một loại công cụ phục vụ
tu dưỡng.
Tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo còn được thể hiện ở thái độ đối với thiên
nhiên – khách thể thẩm mỹ. Giới tự nhiên được nhà nho xác định là miền đất

24


để bộc lộ tâm sự, để trứ tâm. Đó là nơi nhà nho có thể truy cầu sự thỏa mãn về
phương diện thẩm mỹ, ở đó có cái Đẹp toàn vẹn, có cái phong phú, phóng
khoáng thanh khiết. Mây, nước, phong, hoa, tuyết, nguyệt đều là cội nguồn
cái đẹp trong thơ miêu tả tự nhiên của các nhà nho. Chỉ có điều thiên nhiên
không phải là một khách thể thẩm mỹ khách quan mà là chủ khách thể tương
thông hợp nhất. Đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, các nhà nho thường có một
tâm trạng phổ biến là cảm nhận được sự trường cửu của non sông, đồng thời
cũng cảm nhận được cả cái phù vân, ngắn ngủi của cuộc đời con người, cái
một đi không trở lại của dòng thời gian. Từ đó trong mỗi người đều sinh ra
một lòng cảm khái đối với quá khứ, với lịch sử hào hùng. Trong phạm vi đạo
Nho, chí có một nghĩa cụ thể: khao khát muốn làm cái gì đó cho đời và nhất là
sống đúng theo những chỉ dẫn của thánh hiền. Đó chính là quan niệm thơ để
nói chí của mình (Thi ngôn chí).
Ngoài những quan niệm trên, mỹ học Nho giáo còn là một học
thuyết chính trị - xã hội nên thơ ca phải để quán đạo, minh đạo (Thi dĩ tải đạo,
thi dĩ minh đạo, thi dĩ quán đạo). Tức thơ ca, nghệ thuật phải trở đạo, phải làm
sáng đạo. Nếu như tách khỏi đạo thì văn thơ, nghệ thuật cũng không có ý
nghĩa gì hết.
Những đặc chất và tính khuynh hướng của Nho gia đã báo trước những
quan niệm thẩm mỹ của nhà Nho khó có thể nằm ngoài những mối quan tâm
lớn và thường trực: xã hội, nhân tâm và cái đẹp của nhân cách. Mỹ học Nho
giáo không tách rời với các vấn đề đạo đức của con người. Họ coi việc thực

hiện theo đúng chuẩn mực đạo đức sẽ đưa con người ta tới các khía cạnh của
thẩm mỹ. Như thế là mỹ học được đánh giá trên cơ sở của đạo đức. Còn với
riêng Nguyễn Du, ông luôn quan tâm tới cái “hùng tâm”. Đỗ Phủ - một nhà
thơ, nhà nho tiêu biểu đời Đường, được ông coi là bậc thầy văn chương ngàn

25


×