MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
BẢNG CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
CÁC KÝ HIỆU, CHỮ
GIẢI NGHĨA
VIẾT TẮT
[a;b]
a là số thứ tự của tài liệu được trích
dẫn trong TÀI LIỆU THAM KHẢO
b là số trang được trích dẫn
ĐHQGHN
Đại học quốc gia Hà Nội
ĐHSPHN
Đại học sư phạm Hà Nội
KHXHNV
Khoa học xã hội nhân văn
Nxb
Nhà xuất bản
PGS-TS
Phó Giáo sư – Tiến sĩ
tr
Trang
UBND
Uỷ ban nhân dân
VHTTDL
Văn hóa thể thao du lịch
VHDT
Văn hóa dân tộc
VHNT
Văn học nghệ thuật
A. MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Tranh dân gian là một kho tàng văn hóa được cha ông ta sáng tạo ra
trong quá trình lao động sản xuất. Mỗi bức tranh chính là một phần trong cuộc
sống, xã hội của thời kì lịch sử mà nó ra đời. Không chỉ có vậy, trong mỗi bức
tranh đều mang những nét văn hóa đại diện cho dân tộc mình. Tranh dân gian
Đông Hồ là một sản phẩm sáng tạo độc đáo của người Kinh Bắc. Những bức
tranh đã phần nào phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán hay
những ước vọng của con người trong thời kì lịch sử đó. Trải qua bao thế hệ,
tranh dân gian Đông Hồ vẫn giữ được giá trị của mình và trở thành một di sản
văn hóa quý giá của người dân Kinh Bắc nói riêng và người dân Việt Nam nói
chung.
Hiện nay, trong xu hướng phát triển của kinh tế, sự mở rộng giao lưu
văn hóa quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển, biến đổi đời sống của con người.
Cùng với sự phát triển đấy, tranh dân gian Đông Hồ cũng đã có những đổi
thay tích cực, mạnh mẽ để tồn tại, phát triển và bảo lưu những giá trị trao
truyền mà cha ông ta đã sáng tạo ra. Tác giả luận văn muốn nghiên cứu về
tranh dân gian Đông Hồ trong sự phát triển chung của đời sống đương đại
xuất phát từ những lí do sau:
Thứ nhất, trong xã hội xưa tranh dân gian Đông Hồ là dòng tranh được
rất nhiều người yêu thích, đặc biệt đó là món đồ trưng bày không thể thiếu
trong các gia đình những ngày Tết đến xuân về. Nó mang giá trị tinh thần vô
cùng sâu sắc, thể hiện ước vọng của con người về cuộc sống cũng như tương
lai. Những giá trị của tranh Đông Hồ chính là những gì quý báu nhất mà các
thể hệ cha ông đã đúc kết và trao truyền lại cho thế hệ mai sau.
Thứ hai, hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội và cơ chế thị
trường đã làm biến đổi mạnh mẽ nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của đại đa số
1
người dân. Tranh dân gian Đông Hồ đã không còn là món đồ trưng bày
“không thể thiếu” trong các gia đình vào dịp Tế nữa. Tại làng Hồ, trung tâm
sản xuất tranh dân gian Đông Hồ vào những ngày giáp Tết không còn cảnh
nhộn nhịp mua bán tranh mà thay vào đó trong làng bày la liệt những sản
phẩm hàng mã, tranh Đông Hồ dần mất đi vị thế của mình. Trước thực trạng
đó, tranh dân gian Đông Hồ đã có những thay đổi trên nhiều phương diện để
phù hợp với đời sống đương đại. Để có được sự biến đổi ấy không thể phủ
nhận được sự khéo léo, tài tình của các nghệ nhân làm tranh. Họ đã và đang
giữ gìn, phát triển những giá trị văn hóa to lớn của dân tộc.
Thứ ba, tranh dân gian Đông Hồ là một trong những di sản văn hóa nổi
bật của mảnh đất Kinh Bắc nói riêng và của cả nước nói chung. Trước những
biến đổi to lớn của xã hội, cùng với sự vào cuộc của giới truyền thông, tranh
dân gian Đông Hồ đã và đang được các cơ quan chức năng, nhân dân địa
phương và những người yêu thích tranh giữ gìn và phát triển. Như vậy, có thể
thấy được tầm quan trọng và những giá trị to lớn của tranh dân gian Đông Hồ
trong văn hóa Việt Nam.
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tranh dân gian Việt Nam và tranh Đông Hồ với những nét đặc sắc của
mình đã là đề tài của nhiều nhà nghiên cứu. Riêng với Đông Hồ trước nay vẫn
được giới nghiên cứu đánh giá là nơi khơi nguồn và phát triển của dòng tranh
dân gian khắc gỗ nổi tiếng – tranh dân gian Đông Hồ. Có rất nhiều bài viết
trên các báo, tạp chí hay các bài nghiên cứu của các nhà văn hóa, nhà nghiên
cứu mỹ thuật viết về dòng tranh cũng như làng tranh Đông Hồ. Tác giả luận
văn cũng đã tìm hiểu về những bài nghiên cứu đấy và thấy được rằng mỗi
nghiên cứu đều đưa ra những đánh giá sâu sắc về một nội dung nhất định mà
chưa làm rõ toàn bộ những vấn đề liên quan đến tranh dân gian Đông Hồ
trong đời sống đương đại.
2
Nghiên cứu “Khái quát về tranh dân gian Việt Nam” của nhà nghiên
cứu Trương Quốc Bình, đã nhắc đến tranh dân gian Đông Hồ như một dòng
tranh quý độc đáo trong văn hóa dân tộc. Đồng thời cũng thể hiện sức sống
bền bỉ của dòng tranh này trong sự biển đổi của lịch sử văn hóa và xã hội.
Nghiên cứu của tác giả Từ Thị Loan “Giá trị của tranh dân gian Đông Hồ”
đã đưa ra được những nội dung cho thấy giá trị của tranh dân gian Đông Hồ
trên các phương diện lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. Đây là các nghiên cứu
trong “Hội nghị về tranh dân gian Đông Hồ” diễn ra vào tháng 12-2014 tại
Viện Nghiên cứu Văn hóa quốc gia Việt Nam. Các nghiên cứu chưa đưa ra
những biến đổi của tranh Đông Hồ hiện nay và không có những giải pháp
nhằm bảo tồn dòng tranh quý này.
Dưới góc độ nghiên cứu văn hóa có khóa luận “Nghề làm đồ mã ở
Đông Hồ hiện nay” là đề tài khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị
Khuê khoa Việt Nam học, trường Đại học sư phạm Hà Nội. Đề tài nghiên
cứu chủ yếu đưa ra những thay đổi của làng nghề truyền thống tranh Đông
Hồ. Nổi bật hơn có thể nhắc đến một số công trình nghiên cứu công phu như
Luận văn Thạc sĩ văn hóa học “Làng tranh Đông Hồ” của tác giả Nguyễn Thị
Thái Lai, đưa ra những nghiên cứu từ làng nghề làm tranh chuyển sang nghề
làm hàng mã, phần nào nêu ra những nguyên nhân của sự biến đổi đó. Hay tác
giả Nguyễn Thị Hạnh với đề tài Luận văn “Làng tranh dân gian Đông Hồ,
xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh – thực trạng và giải pháp”
(Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học, thư viện Viện Việt Nam học và nghiên
cứu phát triển, trường Đại học KHXH NV, ĐHQGHN). Trong nghiên cứu
của mình, tác giả cho thấy thực trạng biến đổi của nghề tranh Đông Hồ trong
sự phát triển của làng tranh hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp bảo tồn
làng tranh.
3
Ngoài ra, còn nhiều những bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu như
PGS. Chu Quang Chứ, Nguyễn Bá Vân...đăng trên các tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, tạp chí Văn hóa Dân gian cho ta cái nhìn tổng thể và đa diện về tranh
Đông Hồ trong sự phát triển của xã hội ngày nay. Hoặc những bài viết về
tranh Đông Hồ được đăng trên báo, tạp chí, sách chuyên khảo của các tác giả
khác như Nguyễn Trọng Đức, Nguyễn Hữu Toàn...Gần đây nhất là Luận văn
Thạc sĩ của tác giả Nông Thị Trang Nhung với đề tài “ Sử dụng tranh Đông
Hồ trong hoạt động vẽ nhằm bỗi dưỡng khả năng cảm thụ thẩm mĩ cho trẻ
mẫu giáo từ 5 -6 tuổi” (Thư viện trường ĐHSP Hà Nội).
Nhìn chung các nghiên cứu đều xác định rõ ràng nghề làm tranh Đông
Hồ có từ rất lâu đời. Nội dung tranh phản ánh đầy đủ, chân thật mọi khía cạnh
của cuộc sống nhân dân lao động gắn liền với nền tảng nền nông nghiệp trồng
lúa nước. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào xem
xét, đánh giá tỉ mỉ chi tiết về sự biến đổi của tranh Đông Hồ trong đời sống
đương đại, khả năng tồn tại, nguy cơ mai một hay đưa ra những biện pháp bảo
tồn dòng tranh quý của dân tộc. Từ lí do trên mà tác giả muốn nghiên cứu đề
tài “Tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống đương đại”, nhằm tìm hiểu rõ
hơn về sự phát triển, biến đổi của một dòng tranh quý. Từ đó, đưa ra những
định hướng, giải pháp nhằm góp phần bảo tồn dòng tranh truyền thống của
dân tộc.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong kho tàng văn hóa dân tộc, tranh dân gian Đông Hồ có một vị trí
rất quan trọng đối với đời sống tinh thần của người dân. Nhận thấy những giá
trị văn hóa độc đáo của tranh dân gian Đông Hồ trong nền văn hóa dân tộc, sự
biến đổi của các dòng tranh dân gian nói chung và tranh Đông Hồ nói riêng
chính là nguyên nhân cơ bản thôi thúc tác giả nghiên cứu về tranh dân gian
4
Đông Hồ trong đời sống đương đại. Đề tài nghiên cứu muốn giải đáp những
vấn đề quan trọng như sau:
- Tranh dân gian Đông Hồ đã tồn tại và mang đến cho đời sống của
nhân dân ta những giá trị độc đáo, sự phát triển của dòng tranh dân gian này
đã mang đến cho người dân vùng kinh Bắc niềm tự hào về một nét đẹp văn
hóa nổi bật mà cho đến nay vẫn còn nguyên dấu ấn. Nhìn về văn hóa dân tộc
để tự hào hơn về những giá trị bảo lưu của cha ông trong đó có tranh dân gian
Đông Hồ.
- Tìm hiểu sự phát triển lâu dài của tranh dân gian Đông Hồ qua các
thời kì lịch sử. Sự phát triển của tranh dân gian Đông Hồ đã làm phong phú
thêm đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của người dân trong xã
hội. Điều đó cho thấy sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của tranh dân gian Đông Hồ.
- Đánh giá thực trạng phát triển của tranh dân gian Đông Hồ ngày nay.
Đặt tranh Đông Hồ trong sự đối sánh giữa quá khứ và hiện tại để thấy được sự
thay đổi của dòng tranh này trong xã hội hiện đại. Những biến đổi đấy phù
hợp với nhu cầu cũng như thị hiếu thẩm mĩ của người chơi tranh đã giúp tranh
Đông Hồ còn tồn tại và có chỗ đứng trong lòng người dân. Sự biến đổi đó thể
hiện tài năng, sự khéo léo của các nghệ nhân Đông Hồ, đồng thời nó cũng thể
hiện khát vọng giữ nghề, giữ tranh của những người yêu thích dòng tranh dân
gian Đông Hồ.
Từ những nghiên cứu toàn diện về thực trạng phát triển cũng như biến
đổi của tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống đương đại. Đề tài cũng tìm
hiểu thêm về những chính sách, dự án bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ của
các cơ quan chức năng cũng như các tổ chức văn hóa xã hội. Dựa trên những
nghiên cứu đó, tác giả luận văn xin đưa ra một số giải pháp của mình nhằm
góp phần vào việc bảo tồn và phát triển tranh dân gian Đông Hồ.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ trên phương diện
giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoạt động sản xuất, thị trường tiêu thụ. Từ
đó tìm ra được nguyên nhân lí giải sự biến đổi, đánh giá sự biến đổi là phù
hợp để cho dòng tranh Đông Hồ dần tìm lại vị trí của mình như trước đây.
Nghiên cứu về đặc trưng của một vài dòng tranh dân gian tiêu biểu của
Việt Nam như tranh hàng Trống, tranh làng Sình, tranh Kim Hoàng. Qua đó
thấy được sự độc đáo của các dòng tranh này, phần nào giải thích được lí do
tại sao các dòng tranh này bị suy tàn và mất hẳn trong xã hội đương đại, còn
tranh Đông Hồ đang dần được phục hồi và phát triển. Từ đây thấy được
những giá trị to lớn, cũng như sức ảnh hưởng của dòng trong Đông Hồ đối
với cuộc sống người dân hiện nay.
Nghiên cứu quá trình bảo tồn cũng như khả năng bảo tồn của dòng
tranh dân gian Đông Hồ. Từ những nghiên cứu về khả năng bảo tồn của tranh
tác giả xin đưa ra một số biện pháp nhằm bảo tồn, phát triển những nét đẹp
của di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
-
Phạm vi về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu sự phát triển của
tranh dân gian Đông Hồ tại làng Đông Hồ - Song Hồ - Thuận Thành – Bắc
Ninh.. Khảo sát một số khu phố như phố Hàng Trống, phố Chân Cầm, phố
hàng Buồn, phố Nguyễn Thái Học để thấy được đối tượng khách cũng như
tình hình tiêu thụ tranh Đông Hồ hiện nay.
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Tìm hiểu về tính phổ biến của tranh
dân gian Đông Hồ trong một số lĩnh-vực như văn học, kiến trúc, kinh tế - xã
hội. Nghiên cứu sự biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống
6
đương đại trên các phương diện: giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoạt động
sản xuất, thị trường tiêu thụ tranh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn là sự kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
khác nhau gồm phương pháp cụ thể và phương pháp liên ngành. Các phương
pháp cụ thể ở đây bao gồm:
Phương pháp phỏng vấn, thực tế điền dã là phương pháp cần thiết, hỗ
trợ cho quá trình tìm hiểu và làm sáng tỏ vấn đề. Phương pháp này giúp tác
giả luận văn thấy được sự biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ trên nhiều
phương diện thông qua quá trình thâm nhập thực tế, điền dã tìm hiểu tại địa
phương.
Phương pháp so sánh được áp dụng làm nhằm nổi bật đặc trưng của
dòng tranh dân gian Đông Hồ so với các dòng tranh dân gian khác, qua đó sẽ
phần nào giải thích được lí do tranh dân gian Đông Hồ đang dần tìm được chỗ
đứng của mình trong xã hội đương đại.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành đặc biệt quan trọng, phương pháp
này tỏ ra hiệu quả khi vấn đề được soi rọi ở những khía cạnh khác nhau. Vận
dụng kiến thức của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau để tập trung làm sáng rõ
vấn đề, như vậy, lập luận chặt chẽ và kết luận đưa ra sẽ khách quan và sáng rõ.
6. Bố cục nghiên cứu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn
bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về tranh dân gian Việt Nam.
Chương 2. Sự biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống
hiện nay.
Chương 3. Một số biện pháp nhằm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ.
7
B. NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
1.1 Khái niệm tranh dân gian
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về tranh dân gian. Theo
Wikipedia “Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời
gian phát triển rất mạnh mẽ, ngày nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn còn
được giữ gìn bảo tồn trong một số làng nghề và một số gia đình làm tranh.
Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh Tết và tranh thờ. Sở dĩ chúng xuất
hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại chính là tranh tết và tranh thờ xuất hiện
gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và việc thần
thánh hóa các hiện tượng tự nhiên”. Còn theo Bùi Quang Thanh định nghĩa
“Tranh dân gian là một trong những loại hình nghệ thuật xưa, nó là sản
phẩm của quá trình sáng tạo nghệ thuật của những nghệ nhân dân gian.
Những bức tranh thường thể hiện khát vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn của con
người. Tranh dân gian thường được người dân sử dụng trong những dịp lễ,
tết hay những hoạt động tín ngưỡng.” [41; tr.1]. Tác giả luận văn nhận thấy
khái niệm của nhà nghiên cứu Bùi Quang Thanh là hợp lý hơn cả.
1.1.1 Nguồn gốc tranh dân gian Việt Nam
Về nguồn gốc tranh dân gian Việt Nam, theo họa sỹ Tô Ngọc Vân có
thể xuất hiện từ năm 1942 nhưng hồi đó do chưa có những tài liệu lịch sử rõ
ràng nên chưa có câu trả lời chính xác. Những năm gần đây, một số nhà khảo
cổ và nghiên cứu nghệ thuật, trên những nguồn tài liệu tham khảo ngày càng
nhiều và đáng tin cậy, đã cố gắng mở ra con đường trở về nguồn gốc tranh
dân gian Việt Nam. Họ cho rằng loại hình nghệ thuật này xuất hiện từ thời Lý
(1010-1225) đến thời nhà Hồ (1400-1414), được duy trì phát triển mạnh mẽ
dưới thời Hậu lê (1533-1788), song song với việc in và phát hành tiền giấy,
cũng như đạo Phật thịnh hành. Tác giả luận văn cũng đồng ý với quan điểm
8
này. Thực ra đây không hẳn là tìm về nguồn gốc mà là tìm thời điểm xuất
hiện tranh dân gian Việt Nam. Vì rằng ngay từ xa xưa, người nguyên thủy ở
nước ta, qua lao động đã dần nảy sinh ý thức thẩm mĩ. Bắt nguồn xa từ nghệ
thuật nguyên thủy, nghệ thuật tranh dân gian nảy sinh, phát triển trong nhân
dân lao động. Nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ và tín
ngưỡng của công chúng ngày càng rộng rãi, các nghệ nhân dân gian đã làm
tranh và tìm cách cải tiến phương pháp sản xuất. Muốn có số lượng lớn tranh
các loại và bán với giá rẻ phù hợp túi tiền của người nông dân, phần lớn là
người nghèo thì người thợ làm tranh không thể dừng lại ở phương pháp vẽ
tranh bằng tay từng tờ tranh mà phải phát minh, cải tiến bằng cách in hàng
loạt.
Năm 1396, vào cuối thời Trần, Hồ Qúy Ly cho phát hành tiền giấy gọi
là “Thông báo Hội sao”. Các hình vẽ rong, sóng, mây, rùa, lân, phượng,
rồng là họa tiết được vẽ trên đồng bạc. Những hình vẽ quen thuộc, phù hợp
với cuộc sống sinh hoạt và đời sống tâm linh của người dân lao động nên rất
được yêu thích. Chính vì được mọi tầng lớp nhân dân yêu thích nên các nghệ
sĩ dân gian đã sử dụng phổ thuật khắc in tinh tế từng tờ in đều rất chính xác.
Và chỉ mấy thập kỉ sau, Lương Nhữ Hộc (người Hải Dương) đỗ thám hoa
thời Lê Thái Tông (1434-1442) khi đi biến rộng rãi trên tranh khắc gỗ dân
gian. Nghệ thuật vẽ tiền đạt đến đỉnh cao, kỹ sứ nhà Minh ông đã tìm hiểu
thêm nghề in ván gỗ của Trung Quốc. Về nước ông cải tiến ván gỗ và cách in
cổ truyền của ta, rồi dạy lại cho dân làng Hồng Lục và Liễu Tràng quê mình.
Ông trở thành “tổ sư” nghề in khắc ván từ đấy. Nghề in khắc ván cải tiến sẽ
ảnh hưởng đến nghề khắc ván in tranh dân gian. Tranh khắc gỗ dân gian thế
kỷ XV nhờ thế mà có bước tiến mới rất quan trọng. Thế kỷ XVII, tranh dân
gian phát triển khá mạnh. Chẳng những được nhân dân ở làng quê yêu thích
mà còn thâm nhập tự nhiên vào các gia đình quyền quý, khá giả ở kinh thành.
9
Nhà thơ Hoàng Sỹ Khải (người làng Lai Xá, Bắc Ninh) khi tả cảnh Tết ở
Thăng Long trong bài thơ nổi tiềng “Tứ thời khúc vịnh” đã ghi lại:
“Chung quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa Đào cấm quỷ phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương”
Hình “Chung quỳ” và bức “Bùa Đào” mà nhà thơ nói đến chính là hai
bức vẽ thần Thân Thư (hay Thần Trà) và Uất Luật có thể xua đuổi tà ma
theo quan niệm dân gian lúc bấy giờ, về hình tượng và ý nghĩa ta có thể liên
tưởng đến bức tranh “Ông Tướng” canh cổng sau này. Bức tranh Gà cũng
biểu tượng cho quan niệm đó – gà gáy sẽ xua tan đêm tối cùng ma quỷ. Vì thế
tranh Gà rất phổ biến trong các dòng tranh dân gian từ tranh hàng Trống,
tranh Kim Hoàng đến tranh Đông Hồ. [48; tr.89-90]
Theo nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, trong gia phả của dòng họ mình,
một họ lớn làm tranh ở trung tâm sản xuất tranh Đông Hồ thì dòng họ đã có
20 đời làm nghề in tranh, tức lên trải trên dưới 500 năm, tương đương với thời
gian mà Hoàng Sỹ Khải nói đến trong bài thơ. Đến thời nhà Nguyễn, một số
hộ gia đình làm ăn khó khăn đã chuyển đi nơi khác có mang theo nghề tranh
để sinh sống. Dòng tranh Đông Hồ dần dần lan rộng ra các vùng lân cận.
Những hiện vật lưu giữ được tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam có ván khắc tranh
hàng Trống mang ký hiệu I. 5484a.b.c…khắc cả hai mặt, đề tài lấy trong kinh
Phật và tích truyện cổ. Mặt ván khắc có in niên đại “Qúy Mùi lục nguyện
khởi Minh Mệnh tứ niên” (năm Qúy Mùi, tháng sáu, tức năm Minh Mệnh thứ
tư) tức là khắc vào năm 1823. Đến đầu thờ Nguyễn, nhiều loại tranh dân gian
truyền thống đã đi vào ổn định. Đến thời Pháp thuộc, do ảnh hưởng trực tiếp
của chiến tranh và chế độ sưu cao thuế nặng, việc sản xuất tranh hầu như bị
đình đốn. Có thời kỳ tranh dân gian không được in trên giấy dó, giấy báo
10
cũng hết phải in trên giấy học sinh đã viết với số lượng ít, lại in rất xấu. Và
đến Cách mạng tháng Tám (1945) nhiều làng nghề làm tranh đã phải bỏ nghề,
duy chỉ còn làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) là còn giữ lại nghề cho đến sau.
1.1.2 Một số vùng sản xuất tranh dân gian tiêu biểu
Việt Nam chúng ta có một số địa phương sản xuất tranh dân gian rải
rác từ Bắc vào Nam với nhiều phương pháp, chất liệu, phong cách khác nhau.
Được nhắc đến nhiều nhất và nổi tiếng nhất là tranh Đông Hồ (Bắc Ninh),
tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng (Hoài Đức, Hà Đông cũ, nay thuộc Hà
Nội), tranh làng Sình (Thừa Thiên Huế). Trong số các làng tranh nói trên, khu
vực đồng bằng sông Hồng có 2 làng tranh dân gian nổi tiếng đó là làng tranh
Đông Hồ hiện nay vẫn còn sản xuất và làng tranh Kim Hoàng đã tàn lụi từ
đầu thế kỉ XX. Dòng tranh Hàng Trống gồm những tranh thờ các loại, tranh
truyện, tranh chim muông, tranh cá, tranh hoa lá hoặc tranh sinh hoạt. Tranh
Đông Hồ được sản xuất tập trung, nghề nghiệp có truyền thống ổn định lâu
đời hơn, đều in bằng bản khắc gỗ từ in vành đến in các màu nên ít bị sao chép
lệch với bản gốc, bản mẫu như tranh hàng Trống. Về lối vẽ, lối in và sử dụng
nguyên liệu, tranh Đông Hồ tạo ra được sắc thái dân gian độc đáo hơn tranh
hàng Trống. Sự khác biệt cơ bản của chúng là ở chỗ: tranh Đông Hồ dùng
phương pháp in thủ công bằng bản khắc gỗ, nét tranh cứng rắn hơn, còn tranh
hàng Trống dùng bản khắc gỗ in nét viền, nét cơ bản, rồi dùng tay để tô màu
đậm nhạt nên tranh có vẻ mềm mại. Ngoài ra, ở một vài nơi trước đây cũng có
làm tranh dân gian. Nhưng nói chung, các tranh đều không trở thành một
phong cách riêng, mà chỉ làm theo một trong hai phong cách hoặc Đông Hồ
hoặc hàng Trống. Chẳng hạn, ở Nam Đàn (Nghệ An) có loại tranh in đen và
tô màu thông thường - dựa theo lối cổ truyền của tranh Đông Hồ mà làm có
phần nào khác đi. Còn ở làng tranh Kim Hoàng (xã Vân Canh – Hoài Đức –
11
Hà Nội) thì làm tranh đỏ Tết khá nổi tiếng, gọi là tranh đỏ Kim Hoàng phong
cách gắn với lối tranh Hàng Trống.
Như vậy, ngoài hai trung tâm lớn làm tranh là Đông Hồ và Hàng Trống
thì rải rác trên nhiều vùng khác của đất nước, tranh khắc gỗ dân gian cũng
được sản xuất ở một số trung tâm nhỏ hơn. Phần lớn những nghệ nhân chủ
chốt ở những nơi này là từ Đông Hồ di cư tới. Đó là các “chi lưu” của dòng
tranh Đông Hồ ở Phương Liệt, Hàng Bún, Bưởi, Chèm (Hà Nội); Bình Giang
(Hải Dương), Mông Phụ, Canh, Diễn, Hoài Đức (Hà Nội), Yên Thế, phố
Thắng, Đình Bảng, Thổ Tang, Phù Ninh, Lập Thạch, phố Hàng Nâu (Nam
Định), Nam Đàn (Nghệ An)…Ở một số nơi thuộc vùng núi Việt Bắc cũng có
thợ thủ công của Đông Hồ đi lên theo mùa hoăc di cư lên hẳn trên đó, khắc in
tranh thờ theo nhu cầu của đồng bào dân tộc ở địa phương. Xem thế đủ thấy
ảnh hưởng của dòng tranh Đông Hồ và sự phát triển của nó mạnh hơn tranh
hàng Trống. Biểu hiện sự sống của mỗi dòng tranh dân gian mạnh yếu khác
nhau, phải chăng là ở cái nền tảng truyền thống nghề nghiệp, môi trường địa
lý - lịch sử và ý nghĩa xã hội của nó. Tuy nhiên trong giới hạn nghiên cứu của
luận văn tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu vào những vấn đề của tranh dân gian
Đông Hồ.
1.1.3 Đặc điểm một số dòng tranh dân gian tiêu biểu của nước ta
* Tranh Đông Hồ
Tên đầy đủ của tranh Đông Hồ là "Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ" là
một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ nằm ở ven
sông Đuống cách Hà Nội chừng 40km về phía Đông. Đây là dòng tranh khắc
ván, sử dụng ván gỗ để in tranh, tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu lần
in. Dòng tranh này có đề tài rất phong phú, nó phản ảnh hầu như tất cả những
gì diễn ra trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan
12
hệ xã hội ở miền nông thôn Bắc Bộ. Từ những gì dân dã nhất như Hứng dừa,
Đánh ghen, Gà trống,... cho tới những bức tranh thờ: Phú Quý, Nhân Nghĩa...
Do đề tài gần gũi tranh Đông Hồ đã được người dân đón nhận và sớm
đi vào đời sống văn hoá của họ. Mỗi khi Tết đến dường như hầu hết các gia
đình ở nông thôn miền Bắc đều có treo một vài tờ tranh Đông Hồ. Cùng với
thời gian, với sức mạnh mang trong mình, tranh Đông Hồ ngày càng lan tỏa
ra các vùng xung quanh, để rồi nó đã trở thành một phần không thể thiếu của
đời sông văn hóa tinh thần của người dân.
Những đặc điểm nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ, tác giả luận văn
xin phép được trình bày trong phần 1.3 (Những giá trị của tranh dân gian
Đông Hồ). Vì thế, trong phần này tác giả xin phép không trình bày mà chỉ đi
trình bày những đặc điểm của các dòng tranh khác nhằm so sánh với tranh
dân gian Đông Hồ.
*Tranh Hàng Trống
Dòng tranh Hàng Trống là một trong những dòng tranh dân gian nổi
tiếng của Việt Nam, đây là loại hình khắc gỗ của một số gia đình nghệ nhân
sản xuất ở Hà Nội hoặc ở địa phương là tranh theo cùng một phong cách - chủ
yếu là tranh thờ. Tại Hà Nội, tranh được bán tập trung tại phố Hàng Trống với
các đồ thờ khác. Về lịch sử xuất hiện tranh hàng Trống
+ Về kĩ thuật in ấn tranh của dòng tranh Hàng Trống: Khác với tranh
Đông Hồ, tranh Hàng Trống sử dụng kĩ thuật nửa in, nửa vẽ. Tranh sẽ được in
ván nét lấy hình, còn màu là thuốc nước, tô bút lông mềm rộng bản, một nửa
ngọn bút chấm màu và một nửa chấm nước lã. Nhờ kĩ thuật này mà tranh
Hàng Trống có màu sắc uyển chuyển hơn, đáp ứng đòi hỏi của thị trường.
Tranh Hàng Trống được in trên giấy dó bồi dầy hay giấy báo khổ rộng, có
tranh lại bồi đến 2 hoặc 3 lớp giấy, khi hồ đã khô thì vẽ thêm màu lên. Để
hoàn thiện một bức tranh phải mất đến 3, 4 ngày.
13
+ Về đề tài và nội dung tranh: Đề tài trong tranh Hàng Trống được
phân thành hai loại là tranh Thờ và tranh Tết. Nổi bật nhất là tranh Thờ, ảnh
hưởng của Đạo giáo và Phật giáo với hình tượng tương đối bình dị, đời
thường, gẫn gũi với con người.
+ Về màu sắc và cách tạo màu: Trong tranh Hàng Trống sử dụng chủ
yếu các gam màu lam, lục, da cam, đỏ. Màu sắc được vẽ trên tranh không
theo tỉ lệ nào mà chỉ do thuận mắt của nghệ nhân.
Về lịch sử xuất hiện tranh Hàng Trống: Chưa có nhiều tài liệu ghi chép
về thời gian hình thành của dòng tranh này. Có thể dòng tranh này ra đời vào
khoảng thế kỉ XVI và chịu ảnh hưởng rõ rệt của luồng văn hóa, tôn giáo của
các vùng miền, các dân tộc. Theo tác giả luận văn, có thể tranh Hàng Trống
có cùng lịch sử ra đời với tranh dân gian Đông Hồ, dựa trên dữ liệu lịch sử về
những bức tranh: Gà, Thần trấn môn (Canh cửa) tại kinh đô từ nội phủ cung
điện đến nhà thường dân vào ngày Tết, từng được Hoàng Sĩ Khải nhà thơ cuối
thế kỉ XVI nhắc tới: "Chung quỳ khéo vẽ nên hình/ Bùa đào cấm quỷ phòng
linh ngấn tà/ Tranh vẽ gà cửa treo thiểm yểm/ Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ
Dương."
*Tranh Kim Hoàng
Đây là dòng tranh phát triển khá mạnh từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX
của làng Kim Hoàng, xã Vân Canh huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Tương
truyền dòng họ làm tranh đầu tiên là họ Nguyễn Sĩ - người Thanh Hóa theo
mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở Kim Hoàng. Hàng năm, người Kim Hoàng
làm tranh từ rằm tháng 11 âm lịch, đến giáp Tết để cúng tổ nghề và cung cấp
cho nhu cầu chơi tranh Tết của người dân. Có thể nói, trong dòng tranh Kim
Hoàng có những đặc điểm khác biệt so với dòng tranh Đông Hồ và tranh
Hàng Trống. Bởi nó được ra đời sau và có sự đúc rút kinh nghiệm để tạo ra
sản phẩm tranh độc đáo hơn. Điều này được thể hiện qua những yếu tố sau.
14
+ Về kỹ thuật in ấn: Tranh Kim Hoàng có nét khắc thanh mảnh, tỉ mỉ
hơn tranh Đông Hồ, màu sắc tươi tắn hơn tranh Hàng Trống. Đối với bản
khắc của tranh Kim Hoàng cũng có sự khác biệt ở chỗ màu của bản khắc chỉ
có nguyên màu đen. Sau khi tranh được in ra, các nghệ nhân sẽ tùy theo trí
tưởng tượng của mình mà vẽ lên tranh những màu sắc uyển chuyển khác
nhau. Đây cũng là một trong những nét khác biệt của tranh Kim Hoàng với
các dòng tranh khác.
+ Về đề tài và nội dung tranh: Đề tài và nội dung tranh trong dòng
tranh Kim Hoàng cũng tương tự dòng tranh Đông Hồ, bởi những chủ đề liên
quan đến đời sống của con người và những thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, trong tranh Kim Hoàng thì những câu thơ chữ Hán được viết theo
lối chữ thảo tạo sự mềm mại, hài hòa cho tranh.
+ Về màu sắc và cách tạo màu: Tranh Kim hoàng dùng mực tàu và các
màu có nguồn gốc tự nhiên. Màu trắng từ phấn, thạch cao, màu chàm xanh từ
mực tàu và nước chàm; màu đỏ lấy từ son; màu đen lấy từ rơm rạ, màu xanh
lấy từ gỉ đồng...Màu sắc tự nhiên được vẽ lên nền giấy màu đỏ đã tạo được
nét độc đáo cho tranh Kim Hoàng so với những dòng tranh khác.
* Tranh làng Sình
Tranh làng Sình là dòng tranh dân gian mộc bản, đáp ứng nhu cầu cúng
lễ của người dân. Dòng tranh này được sự dụng nhiều ở miền Trung mà trung
tâm của nó là Cố Đô Huế. Làng Sình được thành lập vào thế kỉ XV, nằm ở
ven sông Hương, cách thành phố Huế chừng 7km. Đây là trung tâm văn hóa
sầm uất của vùng cố đô, nơi tập trung những ngôi chùa lớn nhất vùng Hóa
Châu xưa. Nghề làm tranh tại làng Sình được ra đời từ xa xưa, phục vụ chủ
yếu cho việc thờ cúng của người dân trong vùng. Ngày nay tranh làng Sình đã
không còn giữ được những nét văn hóa truyền thống như xưa nữa. Các bản
khắc cổ còn rất ít, các bản khắc mới đã xa rời những yếu tố gốc và người làm
15
nghề tranh đã sử dụng chất liệu sơn công nghiệp để thay cho chất liệu màu
truyền thống.
+ Về kỹ thuật in ấn: Tranh làng Sình có nhiều loại tùy thuộc vào khổ
giấy dó. Giấy dó cổ truyền có khổ (25 x 70 cm), được xén thành cỡ pha đôi
(25 x 35) hay pha 3 (25 x 23). Tranh khổ lớn khi in đặt bản khắc nằm ngửa,
dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu quét màu đen
lên ván in. Bản in đợi khô mới đem ra tô. Điểm nổi bật của tranh làng Sình là
đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ, chất phát một cách hồn nhiên.
Trong công đoạn tô màu, các nghệ nhân cũng đã thả hồn mình và từng bức
tranh để tạo nên vẻ đẹp cho tranh.
+ Về đề tài nội dung: Là dòng tranh chủ yếu phục vụ cho tín ngưỡng
thờ cúng có khoảng 50 đề tài tranh. Các đề tài chủ yếu phản ánh tín ngưỡng
cổ xưa. Ngoài các đề tài về tín ngưỡng phục vụ thờ cúng còn có tranh Tố nữ,
tranh tả cảnh sinh hoạt xã hội…
+ Về màu sắc và cách tạo màu: Giấy in tranh là giấy mộc quét điệp, vào
khoảng tháng 5, tháng 6 người dân dong thuyền dọc theo đầm phá Tam Giang
đến Cầu Hai, Hà Trung, Lăng Cô để cào điệp – một loại trai sò có vỏ mỏng và
phẳng. Điệp được mang về lọc hết tạp chất sau đó giữ lại vỏ trắng bên trong
và đem ra giã nhỏ. Sau đó trộn với bột nếp khuấy thành hồ phết lên giấy tạo
ra một loại giấy trắng lấp lánh ánh bạc. Bàn chải quét điệp làm bằng lá thông
khô bó lại gọi là “thét” khi quét qua mặt giấy sẽ để lại những vệt trắng lấp
lánh song song. Màu sắc tranh làng Sình trước đây được tạo ra từ các sản
phẩm tự nhiên như: màu vàng nhẹ (từ lá dung dã nhỏ với búp hòe non); màu
xanh dương (từ rau mùng tơi); màu vàng đỏ (từ hoa hòe); màu đỏ (từ nước lá
bang đá son); màu đen (màu tro rơm nếp hòa tan trong rồi lọc sạch, cô lại
thành thứ mực đen bóng)…Màu có thể được trộn với hồ điệp hoặc tô riêng,
khi tô riêng phải trộn thêm keo nấu bằng da trâu tươi.
16
1.2
Khái quát về tranh dân gian Đông Hồ
1.2.1 Đôi nét về làng tranh dân gian Đông Hồ
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát, có nghề làm tranh
Câu ca dao kia như lời nhắn nhủ, đưa ta về làng Mái, làng tranh. Làng
Mái tức làng Đông Hồ, quê hương của dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng. Xưa
kia, Đông Hồ (còn gọi là làng Hồ) nằm ngay bờ sông Thiên Đức, tức con
sông Đuống ngày nay, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, vốn mang
tên cổ là làng Đông Mái (hoặc ấp Kiêu Mại). Bà con quanh vùng quen gọi
Đông Mái bằng cái tên nôm na, gọn ghẽ là làng Mái. Làng nằm ở hữu ngạn
sông Đuống, sát bến đò Hồ. Người Đông Hồ vừa làm ruộng, vừa làm nghề
thủ công khắc gỗ in tranh và làm hàng mã. Đất Bắc Ninh xưa vốn là vùng đất
Kinh Bắc nổi tiếng có truyền thống văn hóa và thanh lịch, cũng là quê hương
của nhiều nghề thủ công: nghề mộc Thiết Úng, Phù Khê, nghề dệt, nghề sơn
Đình Bảng, nghề gốm Thổ Hà, Phù Lãng, nghề mành trúc Đông Xuyên, Giới
Tê...Ngay gần làng Đông Hồ, ta có thể thấy những làng nghề nổi tiếng: làng
Qủa Cảm với nghề làm bút lông và mực nho từ tro lá tre, làng Kẻ Nía làm
vàng hương, làng Đạo Tú với nghề làm điệp thường cung cấp cho làng Đông
Hồ làm tranh...
Trên cái nền văn hóa và nghề thủ công truyền thống nhộn nhịp ấy,
Đông Hồ nổi lên như một trong những trọng điểm văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần đáng tự hào của miền Kinh Bắc – Hà Bắc, và của chung đất
nước, trở thành một trong hai trung tâm sản xuất tranh dân gian nổi tiếng
nhất Việt Nam. Đông Hồ là một làng nhỏ, có khoảng vài trăm nóc nhà,
đường trong làng là đường đất. Giữa các gia đình nhà nọ cách nhà kia bằng
một hàng rào bụi râm bụt, hay duối, hoặc một vài cành rong làm biên, vẫn
17
thường để lối nhỏ thông sang nhà nhau như bao gia đình ở làng quê nông thôn
Bắc Bộ khác. Không giống với đại đa số các gia đình nông thôn sống bằng
nghề làm ruộng thì người Đông Hồ sống chủ yếu bằng nghề làm tranh, bởi
diện tích đất nông nghiệp không nhiều và nằm ở vũng trũng nên sản xuất nông
nghiệp gặp lũ lụt, năng suất chất lượng không đảm bảo cuộc sống. Dân làng
Đông Hồ chịu thương chịu khó, dù nghèo nhưng vẫn giữ được nét thanh lịch,
nhẹ nhàng kiểu nhà Nho. Năm nào cũng thế, từ tháng 5, tháng 6 (âm lịch) trở
đi, các nhà trong làng bắt đầu rục rịch đi mua nguyên vật liệu để chuẩn bị làm
tranh bán Tết. Giấy mua ở Đông Cao, hoa hòe, lá chàm, đá son và đất đồi ở
Lạng Sơn. Còn lá tre để đốt than làm màu mực đen huyền thì quét ngay trong
nhà trong xóm cũng không dùng hết. Qua Rằm tháng 7 (âm lịch) các nhà bắt
đầu làm tranh, đầu tiên là kiểm tra lại các ván khắc, sửa soạn dụng cụ, đồ
nghề, xếp dọn lại nhà cửa, chuẩn bị sân phơi, sào tre nứa, hiên liếp... Nhà khá
giá có lưng có vốn thì thế, nhà nghèo thì tìm xem ai mời, ai thuê. Cứ như vậy
mọi người trong làng từ nhỏ đến lớn, già trẻ, trai gái không ai là không biết
làm tranh. Vào thời kỳ thịnh đạt của nghề, trước đó trung bình mỗi năm Đông
Hồ phải sản xuất hàng triệu bản tranh mới thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ từ các
vùng miền trong cả nước. Số lượng đó rất lớn, nếu đem ra so sánh với số
người sản xuất ở đây không phải là đông lắm. Các cụ già ở làng cho biết lúc
bấy giờ trong làng chỉ ngót 100 hộ làm tranh và cả làng chỉ có khoảng 120 hộ.
[48, tr.97-98]
Cùng với nghề làm tranh Đông Hồ còn có thêm nghề làm mã. Có người
cho rằng nghề làm tranh và nghề làm hàng mã ở làng tranh Đông Hồ là do một
vài dòng họ Lê gốc Hải Dương, họ Nguyễn Đăng gốc Thanh Hóa du cư đến
mang theo nghề này từ vài trăm năm, và làng Hồ phát triển thành làng nghề từ
khoảng thế kỷ XVII-XVIII. Về mặt nghệ thuật dân gian, ngoài yếu tố tín
ngưỡng khi sử dụng, hàng mã thực chất là những đồ mĩ nghệ làm bằng giấy.
Trong sử sách xưa có nói tới hàng mã của Đông Hồ. Chẳng hạn sách “Kinh
18
Bắc phong thổ kí” viết năm 1807 có nói: “Đông Hồ có nghề làm đồ mã, áo
giấy”. Sách “Bắc Ninh phong thổ tạp kí” viết cụ thể hơn: “Đông Hồ làm các
thứ hình người, hình súc vật và các đồ mã khác”. Thời kỳ thịnh vượng làng Hồ
đông đúc, tấp nập, sầm uất, trên bến dưới thuyền nô nức người phương xa đến
buôn tranh, buôn hàng mã đi các tỉnh. Đặc biệt vào dịp giáp Tết nguyên đán
nhà nhà làm tranh, cả làng bán tranh. Chợ tranh đông vui sầm uất được tổ chức
ngay trong đình làng. Người buôn tranh mua ở chợ và còn vào từng gia đình
đặt và chọn mua. Như vậy nghề làm tranh và làm mã như một cặp song sinh.
Đình Đông Hồ trước kia hàng năm tháng Ba có hội thi Mã và tháng Chạp có
chợ bán tranh. Mấy thập kỉ qua, hàng mã bị cấm, hàng tranh teo tóp dần. Từ vài
năm nay với cơ chế thị trường, hàng mã tự phát hồi dậy rồi bung ra mạnh mẽ,
với chủ trương chăm sóc di sản văn hóa dân tộc, hàng tranh được đánh giá cao
nhưng còn thoi thóp, chưa tìm ra hướng để phát triển mạnh nẽ như nghề làm
mã. Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ có lịch sử phát triển lâu dài trên 500
năm, theo nhiều nguồn sử liệu và công trình nghiên cứu thì nghề tranh dân gian
xuất hiện từ thế kỉ XVI. Trong suốt thời kì phong kiến, làng tranh dân gian
Đông Hồ là nơi cung cấp tranh chủ yếu cho các làng xã vùng châu thổ Bắc Bộ.
Cho đến cách mạng tháng 8 năm 1945, tại làng tranh Đông Hồ đã có 17 dòng
họ làm tranh. Hòa bình lập lại nghề làm tranh ở làng lại phát triển trở lại sản
phẩm vẫn tiếp tục phát triển được.
Làng Đông Hồ hiện nay nhộn nhịp quanh năm, nhà ngói sân gạch mọc
lên san sát, xóa dần đi cảnh nhà tranh vách đất bao đời. Dân làng đã làm đường
gạch vào các ngõ xóm. Người dân Đông Hồ làm ruộng, trồng ngô, làm tranh,
làm hàng mã và làm thêm nghề thảm bẹ ngô. Cũng như nhiều làng quê Việt
Nam ngày nay, làng cũng có điện thắp sáng, có tivi, nhà cao tầng mọc lên san
sát vơí đủ mọi kiến trúc tây, tàu. Cuộc sống vật chất và tinh thần được nâng cao
rõ rệt. Như ta đã biết, Đông Hồ là nơi phát tích dòng tranh dân gian nổi tiếng
của dân tộc, nghề làm tranh chiếm phần lớn thời gian trong năm. Nhưng hiện
19
nay, ở làng tranh Đông Hồ chỉ còn nhà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ
nhân Nguyễn Hữu Sam vẫn in tranh điệp. Gia đình nghệ nhân Chế do làm
tranh, thu thập và khắc thêm bản khắc gỗ, thu hút được khách du lịch trong và
ngoài nước, đứng ra thực hiện một số dự án bảo tồn…nên đã trở thành hộ làm
tranh giàu nhất làng. Gia đình nghệ nhân Sam cũng in tranh và bản thân ông
trong nhiều năm đã tập trung nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật tranh Đông Hồ.
Các nhà khác chuyển sang nghề làm hàng mã. Làm tranh, làm mã ở đây vẫn
tập nập, làm quanh năm chứ không theo mùa vụ như trước đây. Gìa trẻ lớn bé
đều biết làm, sản phẩm được mang ra Hà Nội bán và các vùng lân cận. Tranh
Đông Hồ làm ít đi có lẽ do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu
vẫn là do thị trường tiêu thụ đã thu hẹp, thị trường quốc tế chưa mở rộng, người
sản xuất tranh không sống được với nghề. Nhưng một vài năm trở lại đây, được
sự quan tâm của các cấp chính quyền, các nhà nghiên cứu văn hóa mà tranh
dân gian Đông Hồ đang dần hồi sinh. Những sự biến đổi phù hợp với nhu cầu,
thị hiếu thẩm mỹ của người dân nên rất được ưa chuộng. Làm sao để khôi
phục, phát triển nhanh chóng nghề tranh Đông Hồ là một câu hỏi khó có câu trả
lời chính xác. Bởi tranh Đông Hồ trước hết là một làng nghề, hơn nữa lại là
làng nghề nghệ thuât dân gian, cần lưu ý đến đặc điểm này nếu muốn dòng
tranh này phát triển. Việc đầu tư khai thác, sử dụng con người và sản phẩm
không dễ làm mà phải thực hiện theo một chiến lược lâu dài. Tranh dân gian
Đông Hồ xứng đáng nhận được sự quan tâm của Nhà nước và các tổ chức xã
hội để có thể tồn tại và phát triển, bởi nó có ý nghĩa và giá trị trong đời sống xã
hội, trong nghệ thuật và tư tưởng, trong kinh tế và du lịch.
1.2.2 Tính phổ biến của tranh dân gian Đông Hồ trong cuộc sống
1.2.2.1 Trong lĩnh vực văn học
Trong mỗi bức tranh dân gian Đông Hồ xưa lại chứa đựng trong nó là
một kho tàng thơ ca độc đáo. Những bài thơ được sáng tác bởi người nghệ sĩ
dân gian chứa đựng trong đó là ý nghĩa mô tả cuộc sống đời thường hay châm
20
biếm những thói hư tật xấu của con người trong xã hội lúc bấy giờ. Tất cả đều
rất đỗi bình dị nhưng lại mang trong đó rất nhiều ý nghĩa. Chính vì thế, nó đã
trở thành một sản phẩm văn học vô cùng quý báu cho các thế hệ sau này. Như
trong bức tranh “Hứng dừa” bên cạnh hình ảnh hứng dừa thì những nghệ nhân
Đông Hồ có khắc thêm hai câu thơ: Khen ai khéo nặn nên dừa/ Đấy trèo, đây
hứng cho vừa một đôi. Những bức tranh dân gian Đông Hồ là nguồn cảm hứng
vô tận cho biết bao nhà thơ khi ngắm nhìn tranh. Những bức tranh nổi tiếng
như Hứng dừa, Đám cưới chuột, Đánh ghen…đã được rất nhiều nhà thơ mô tả
bằng những câu thơ dí dỏm của, đầy tính hình tượng. Như bài thơ “Hứng dừa”
được đăng trong câu lạc bộ thơ Phạm Đạo Phú:
“Ai căng vạt váy hứng chùm dừa
Khép cặp bồng đào tim rạo rực
Nhìn đôi mắt sáng ả đong đưa
Chân dài gen mẹ trời trao tặng
Tóc biếc huyết cha gió giỡn đùa
Em thả dáng hình em chẳng thích
Xem tranh làng Mái, ối người ưa.”
Hay bài thơ “Cưới chuột”
“Từ xưa cưới chuột bé tèo teo
Vạn thứ đâu đâu chút phận nghèo
Sắm sửa chép ngon đồ cống nạp
Vẹt vòi bạc quý lễ nghi cheo
Muốn sang cầu ấy vui hai họ
Phải có quà chi biếu các mèo
Làng Mái tích xưa người vẽ khéo
Bởi trời sinh mão dạ quăn queo.”
21
Không chỉ có vậy, tranh dân gian Đông Hồ là một trong những đề tài
được nhiều nhà thơ khai thác và đưa vào những sáng tác của mình. Trong bài
thơ “Bên kia sống Đuống” nhà thơ Hoàng Cầm cũng nhắc đến tranh Đông Hồ
như một nét văn hóa độc đáo và một niềm tự hào dân tộc.
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Hai câu thơ nhà thơ đã nhắc đến dòng tranh Đông Hồ với những bức
tranh nổi bật và nét độc đáo trong việc việc sử dụng giấy điệp để làm tranh
của những nghệ nhân tranh Đông Hồ. Với nhà thơ Hoàng Cầm, dòng tranh
Đông Hồ chính là nét độc đáo của dân tộc, là màu của dân tộc Việt. Hay trong
thơ của nhà thơ Tú Xương:
Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Lòe loẹt trên vách bức tranh gà
Những câu thơ mô tả một làng tranh Đông Hồ nhộn nhịp chuẩn bị cho
Tết xưa. Tranh Đông Hồ đã đi vào thơ ca và trở thành chủ đề được nhiều nhà
thơ khai thác sau này. Hiện nay, trong xã hội hiện đại những ảnh hưởng của
tranh Đông Hồ vẫn luôn tồn tại trên mọi phương diện trong xã hội. Trong lĩnh
vực văn học cũng vậy, những bức tranh dân gian Đông Hồ được in làm hình
ảnh minh họa cho những sáng tác văn, truyện ngắn dành cho trẻ em, kích
thích trí tưởng tượng của trẻ.
1.2.2.2 Trong lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc
Trước đây, tranh dân gian Đông Hồ hầu như được xuất hiện trong hầu
hết những công trình kiến trúc, không gian sống của người Việt. Tranh được
treo ở rất nhiều nơi thuộc kiến trúc của căn nhà người Việt. Có thể nói, treo
tranh Đông Hồ vào mỗi dịp Tết đã trở thành một tục lệ, một thói quen không
thể thiếu của người Việt. Tranh được treo ở trong tất cả các gia đình dù là gia
đình giàu sang, quyền quý hay những gia đình nông dân nghèo.
22
Trong những gia đình trí thức nho học khá giả, ở phòng khách, trên
tường vách họ treo tranh “Anh hùng độc lập” tượng trưng bởi một con chim ó
đậu trên mỏm đá cao, hoặc tranh Tam Đa tượng trưng cho ý chúc “Phúc, Lộc,
Thọ” tranh “Lý ngư vọng nguyệt”, hay treo tranh bộ Tứ bình, Tứ quý. Trong
những gia đình bình dân ở thôn quê, ta thấy tranh dán từ ngoài cổng vào đến
trong nhà. Từ cổng vào, đã thấy hai bên cánh cửa dán đối nhau hai bức tranh
Tiến tài - Tiến lộc vẽ hình hai vị thần mũ áo triều phục văn quan, một vị mang
biển “Tiến tài”, một vị mang biển “Tiến lộc” . Tục cho rằng dán hai bức tranh
này ngoài cổng sang năm mới hai vị thần sẽ mang lại thịnh vượng. Có nhà
dán ngoài cổng tranh hai ông tướng Vũ Đình – Thiên Ất. Đây là hai vị thần y
phục võ tướng vũ khí trang bị đầy người, hai vị này trừ tà ma, quỷ quái. Hoặc
dán hai bức tranh Đại cát – Nghinh xuân để cầu may và xua đuổi ma quỷ
không dám vào nhà quấy nhiễu.
Vào trong nhà, trên tường vách còn dán la liệt các loại tranh từng đôi
một đối nhau: Vinh hoa – Phú quý, Đàn gà – Lợn đàn, Đánh ghen – Hứng
dừa, Trạng chuột vinh quy – Thầy đồ Cóc, Đánh vật – Chọi trâu, Nông dân đi
cấy – đi cày, Bà Trưng – Bà Triệu, Trần Hưng Đạo – Ngô Quyền...Ở gian
chính giữa, trên tường phía sau bàn thờ gia tiên còn dán tranh Chủ với đôi
câu đối chữ viết cách điệu, cài hoa lá, tứ linh (bốn con vật thiêng). Phía
trước bàn thờ treo tranh Y môn thay rèm vải gấm. Màu sắc rực rỡ của tranh
nổi bật lên như đưa ánh sáng vào làm cho những gian nhà tranh vách đất
giản dị tối tăm như tươi vui, ấm cúng hẳn lên. Tết đến, tranh Đông Hồ đến
với mọi nhà, mọi người, có đủ các loại tranh phù hợp với mọi lứa tuổi, nhu
cầu. Tùy theo sở thích của người lớn hay trẻ em mà dán tranh khác nhau trên
tường vách. Đặc biệt đối với trẻ nhỏ, nhất là thôn quê tục chơi tranh quả là
một thú chơi say mê kỳ lạ khi Tết đến: [18; tr.1419]
23