Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Case quan tri chat luong cham soc suc khoe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG
QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG
CHĂM SÓC SỨC KHỎE
CASE STUDY IN HEALTHCARE QUALITY MANAGEMENT

Tuyển chọn, biên tập, và biên dịch:

TS Lưu Trọng Tuấn

TP HCM, 6/ 2014
1


Phòng khám Carilion
Alexandra Piriz
Kurt Darr
The George Washington University, Washington, D.C.
SƠ LƯỢC VỀ THÀNH PHỐ ROANOKE
Thành phố Roanoke nép mình trong vùng thịnh vượng Liên bang Virginia, giữa Salem và
Vinton. Số dân mới nhất vào khoảng 95,000 người, trong đó dân thành thị chiếm hơn 293,000
người. Roanoke là một trung tâm thương mại và văn hóa của vùng tây Virginia và nam West
Virginia, cắt đôi bởi dòng sông Ronanoka và được bao quanh bởi Blue Rigde Mountain
Parkway.
Cộng đồng sau này là thành phố Roanake được thành lập vào năm 1842. Sự phát triển kinh tế rất
sớm của Roanake xuất phát từ tầm quan trọng với vai trò mối nối giữa các tuyến xe lửa
Shenandoah Valley Railroad và Norfolk và Western Railway. Đây là những tuyến đường quan
trọng vận chuyển than đá từ vùng mỏ tây Virginia và West Virginia. Khu vực dịch vụ hiện tại
của Roanoke bao gồm sân bay của vùng, trung tâm thương mại, trụ sở chính của các công ty, và
trung tâm phân phối của nhiều công ty quốc gia, trong số đó có công ty về phụ tùng ô tô cao cấp.


PHÒNG KHÁM CARILION
Phòng khám Carilion (trước đây là Hệ thống y tế Carilion) sử dụng gần 13% tổng dân số của
Roanoke, gồm 12 bộ phận khác nhau trong vòng 20 dặm từ trung tâm thành phố. “Phòng khám”
có bệnh viện nhi và nhiều trung tâm chăm sóc vú và cho trẻ bú cũng như bệnh viện chăm sóc cấp
tính và nhóm bác sĩ thực hành. Phòng khám Carilion thuê hơn 500 bác sĩ thực hành đa ngành
đang làm việc tại mười bệnh viên phi lợi nhuận trong bán kính 150 dặm. Hệ thống nhận vào hơn
một triệu bệnh nhân hàng năm. Năm 2008, tám bệnh viện chính được cấp phép cho 1215 giường
bệnh, chưa bao gồm giường cho trẻ sơ sinh và bệnh nhân nội trú đang phục hồi ở bệnh viện cơ
sở, bệnh viện Carilion Roanoke Memorial.
Những công ty liên doanh cộng sự của phòng khám và những công ty liên quan được liệt kê
trong danh sách còn thiếu dưới đây:
Trung tâm phẫu thuật cấp cứu Roanoke (quyền sở hữu 50%)
Trung tâm phẫu thuật New River Valley (quyền sở hữu 50%)
Bác sĩ Phòng khám Carilion, LLC (công ty cổ phần bất động sản)
Phòng nghiên cứu Carilion, LLC
Dịch vụ cấp cứu Carilions, Inc
Sức khỏe hành vi Carilion, Inc
Điều hành bởi Bác sĩ Edward Murphy từ năm 1998, Hệ thống y tế Carilion trở thành Phòng
khám Carilion, một hệ thống tích hợp theo chiều dọc của 10 bệnh viện, bao gồm chương trình
giáo dục y khoa bậc đại học và sau đại học, nhóm bác sĩ thực hành với hơn 500 thành viên, và
những công ty dự án khác. Doanh thu hoạt động thực đạt hơn 1.2 tỉ đô la, với giá trị tài sản 1.1
vào khoảng tỉ đô la năm 2007. Mức đền bù của bác sĩ Murphy tổng cộng gần 2.3 triệu đô la vào
2


năm 2007. Nancy Agee, giám đốc điều hành phòng khám, kiếm được số tiền cao nhất tiếp theo
khoảng 800,000 đô la, cách biệt hơn 1.5 tỉ đô la.
TRANH CÃI Ở ROANOKE
Phòng khám Carilion không phải lúc nào cũng có mối quan hệ tích cực với công đồng, mặc dù
có mục đích từ thiện và ảnh hưởng tích cực lên sự lớn mạnh của Roanoke. (Xem thêm Nhiệm

vụ, phương hướng và công bố có giá trị của Phòng khám Carilion ở Phụ lục 1)
Tháng 5 năm 2008, Bộ phận chống độc quyền của Bộ tư pháp Mỹ tìm kiếm ngăn chặn sự sát
nhập của hai bệnh viện tại Roanoke: Bệnh viện Memorial Roanoke và bệnh viện cộng đồng
Roanoke Valley. Hai bệnh viện này sau đó được biết đến với tên gọi Hệ thống y tế Carilion. Vụ
kiện cố gắng ngăn chặn sự sát nhập này dựa trên khả năng tạo nên độc quyền có thể xuất hiện ở
khu vực này. Chưa đầy một năm sau khi đơn kiện được đệ trình, Tòa án phúc thẩm (Fourth
Circuit)1 tuyên bố cho các bị cáo:
… việc sát nhập giữa các bệnh viện bị cáo sẽ không tạo thành sự kiềm chế bất
hợp lý về thương mại theo Chương 1 của luật Sherman. Sự sát nhập này sẽ đẩy mạnh sức
cạnh tranh giữa các bệnh viện trong khu vực bởi vì các bệnh viện bị cáo có thể đề xuất
mức giá và dịch vụ cạnh tranh.
Trong hai kháng cáo riêng biệt sau đó, tòa án tuyên bố thắng cho bị cáo. Những quyết định này
đã cho phép sự lớn mạnh của việc hình thành Phòng khám Carilion.
TRÊN THỊ TRƯỜNG: ĐIỀU GÌ TẠO THÀNH ĐỘC QUYỀN?
Độc quyền xuất hiện khi một hay nhiều cá nhân hoặc công ty chiếm lĩnh một thị trường kinh tế.
Thị trường thống trị này thể hiện chủ yếu ở việc cho phép khai thác hay cấm vận những nhân tố
trong thị trường hay những nhân tố muốn vào thị trường (nhà cung ứng, nhà cung cấp dịch
vụ,hay người tiêu dùng)
Trong suốt thế kỷ 19, chính phủ Mỹ bắt đầu theo đuổi sự độc quyền dưới thông luật “hành vi vi
phạm can thiệp thị trường” trong sự nỗ lực nhằm hạn chế việc tăng giá từ người cung cấp. Họ
tìm thấy những công ty thường mua hết tất cả sản phẩm riêng biết của các nhà cung ứng hoặc
sản phẩm trong một khu vực nhất định, một động thái ngày nay liên quan đến “tích lũy thị
trường”.
Năm 1887, Quốc hội tăng cường mọi nỗ lực và thông qua Dự luật thương mại liên bang hướng
đến đường dây những động thái mang tính độc quyền của các công ty trong những thị trường địa
phương nhỏ lẻ. Pháp chế này bảo vệ những gia đình nông dân nhỏ đã đang bị đánh thuế quá mức
trong vận chuyển hàng hóa. Quốc hội tiếp tục chỉ ra những vấn đề trong thủ đoạn độc quyền
bằng việc thông qua Dự luật Chống độc quyền Sherman năm 1890. Dự luật đã hạn chế bớt
những thủ đoạn chống cạnh tranh trong kinh doạnh. Dự luật chặn đứng việc chuyển nhượng cổ
phần cho người được ủy quyền, đổi lại họ có giấy chứng nhận doanh nghiệp được quyền một

phần thu nhập. Dự luật Sherman trở thành nền tảng cơ bản cho Dự luật Chống độc quyền

1

The United States Court of Appeals for the Fourth Circuit là tòa án liên bang ở Richmond, Virginia, có thẩm quyền
phúc thẩm so với tòa án khu vực ở các vùng của Virginia, Carolina và Maryland.

3


Clayton năm 1914, Dự luật của Ủy ban Thương mại liên bang năm 1914, và dự luật RobinsonPatman vào năm 1936 thay thế cho dự luật Clayton.
Luật chống phá giá và luật cạnh tranh nêu lên ba vấn đề chính:
1. Nghiêm cấm những thỏa thuận hoặc những thủ đoạn làm hạn chế thị trường tự do và sức
cạnh tranh giữa các đơn vị kinh doanh.
2. Cấm những hành vi lăng mạ từ những công ty chiếm lĩnh thị trường, hoặc những thủ
đoạn chống cạnh tranh nhằm hướng đến vị trí thống lĩnh.
3. Theo dõi sự hợp nhất và thâu tóm của các công ty kinh doanh lớn, bao gồm cả một số
công ty liên doanh
Chỉ số Herfindahl-Hirschman giúp thực thi đầy đủ những bộ luật bằng cách đưa ra phương pháp
nằm quyết định mật độ phân tán hay tập trung của thị trường (Xem thêm các chỉ số ở Phụ lục 2).
Luật chống độc quyền và phương pháp tính toán mật độ thị trường, như chỉ số HerfindahlHirschman, chưa thật hoàn hảo và có thể sẽ để lại những lỗ hổng khi khai thác sau này
SỰ HỢP NHẤT THEO CHIỀU DỌC: PHÒNG KHÁM MAYO
Phòng khám Mayo là mô hình hàng đầu cho sự hợp nhất theo chiều dọc trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Mỹ. Được thành lập vào năm 1863 ở Rochester, Minnesota, Phòng
khám Mayo khởi đầu sự nghiệp hành nghề y của Bác sĩ William Worrall Mayo và hai người con
trai, cùng là bác sĩ đa khoa. Nó lớn mạnh nhờ vào sự hoàn thiện các chuyên khoa.
Sự mở rộng này cho phép Mayo phát triển lên nhiều cấp độ chăm sóc khác nhau trong chuỗi liên
tục các dịch vụ y tế. Cuối cùng, nó trở thành một hệ thống y tế được tích hợp đầy đủ. Đáng chú
ý, bác sĩ ở Mayo được trả lương với mức cạnh tranh trên thị trường, và họ kiểm soát cấu trúc
quản lý.

Đặt cơ quan đầu não tại Rochester, Minnesota, và cùng với những phòng khám và bệnh viện vệ
tinh ở Jacksonville, Florida, và Scottsdale, Arizona, Phòng khám Mayo vẫn duy trì việc đưa ra
những nhân tố xuất sắc và những cống hiến trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc thông qua cam
kết vững vàng ( và thường tự thừa nhận, ngoan cường) với giá trị cốt lõi của nó. Trong số những
giá trị đó thì nhu cầu của bệnh nhân được đặt lên hàng đầu, sau đó là tích hợp làm việc theo
nhóm, sự hiệu quả, và nhiệm vụ trên tinh thần lợi nhuận.
Phòng khám Mayo được biết đến trên thế giới về chất lượng và sự xuất sắc trong cung cấp dịch
vụ chăm sóc. Nó được tờ US News and World Report xếp hạng Bệnh viện tốt nhất của năm trong
suốt 19 năm liên tiếp và nhiều lần được xác nhận Bệnh viện danh dự, điều này đã giúp nó trở
thành một trong 19 bệnh viện ưu tú được biết đến
Những nỗ lực và thành công của đội ngũ quản lý đã vẫn đang được ghi nhận. Năm 2008, cuốn
sách Những bài học quản lý từ Phòng khám Mayo của Leonard L.Berry, người nắm giữ nền
công nghiệp dịch vụ, và Kent D. Seltman, giám đốc tiếp thị của Phòng khám Mayo, được xuất
bản. Cuốn sách này đã nêu ra khái niệm tầm nhìn kinh doanh, trình bày về những kết quả lâm
sàng xuất sắc, sự hiệu quả và sự hài long của bệnh nhân
BÁO TRƯỚC MỘT BẢN SAO PHÒNG KHÁM MAYO
4


Trước khi Bác sĩ Murphy lèo lái hệ thống y tế Carilion, những việc làm của tổ chức đã khuất
động những cuộc tranh cãi quan trọng nhưng vẫn có thể kiểm soát được do trường hợp chống
độc quyền vào năm 1988. Theo quyết định của tòa án, sự hợp nhất là hợp pháp và không đưa ra
những mối lo ngại nào về độc quyền, bệnh việc quay lại sự tồn tại yên tĩnh của nó trong cộng
đồng.
Cho đến khi Bác sĩ Murphy xuất hiện, ông ta đã bắt đầu hợp nhất theo chiều dọc tổ chức, và giới
thiệu kế hoạch chính thức vào mùa thu 2006. Kết quả của hành động này lên từng phần của Hệ
thống y tế Carilion, trong số đó có điểm tựa của các âm mưu còn tồn tại và dấu chấm hết của
những người khác, đã đặt Carilion lên trước cuộc đấu tranh giữa những bác sĩ địa phương, thành
viên trong cộng đồng, và vào tháng 8 năm 2008, truyền thông quốc gia.
BÁC SĨ EDWARD MURPHY LÀ AI?

Làm thế nào đạt được hạng 23 trong dah sách 100 nhân vật quyền lực nhất trong lĩnh vực Chăm
sóc sức khỏe? Hay hạng 4 trong danh sách 50 bác sĩ đa khoa giỏi nhất> Bạn phải làm gì để thu
nhập 2.27 triệu đô la một năm (1.37 triệu đô la cho lương và lợi nhuận đạt 901,206 đô la năm
2007)? Với bác sĩ Murphy, bạn phát triển hệ thống y tế gồm hai bệnh viện thành hệ thống y tế
hợp nhất theo chiều dọc giữ chân nhóm bác sĩ thực hành chuyên khoa với 500 người từ 10 bệnh
viện phi lợi nhuận, chương trình y khoa bậc đại học và sau đại học, một phần lớn dịch vụ giới
thiệu học vụ, và dịch vụ phòng thí nghiệm thuộc nhiều tiểu bang.
Bác sĩ Murphy nhận bằng Cử nhân Khoa học tại Đại học Albany và bằng y khoa danh dự ở
Trường Y khoa Đại học Harvard. Mặc dù ông ấy chưa từng hành nghề y, bác sĩ Murphy vẫn
đang giảng dạy lâm sàng tại Đại học Albany, trường Y tế công cộng, và là phụ tá phó giáo sư tại
Học viện bách khoa của trường Quản lý Renssela. Trước khi đến bang New York, ông ta còn
đồng thời là thành viên của Hội đồng xem xét và lập kế hoạch bệnh viện tiểu bang New York và
là Phó chủ tịch Ban chấp hành của Hội đồng chính sách tài chính.
Trong giai đoạn 1989-1991, Bác sĩ Murphy là Phó chủ nhiệm Khoa dịch vụ lâm sàng tại bệnh
viện Leonard, với sức chứa 143 giường bệnh ở phía bắc Albany, New York. Năm 1991, ông
được tiến cử vào vị trí Chủ tịch và Giám đốc điều hành của bệnh viện Leonard cho đến khi nó
được sát nhập với bệnh viện St. Mary để hình thành nên Hệ thống y tế Seton vào năm 1994. Bác
sĩ Murphy trở thành Chủ tịch và Giám đốc điều hành của hệ thống y tế mới thành lập này và ở
lại Seton cho đến năm 1998, sau đó ông về Roanoke để lãnh đạo Hệ thống y tế Carilion
Trong cộng đồng Roanoke, bác sĩ Murphy còn là thành viên hội đồng quản trị của Công ty bảo
hiểm y tế chuyên nghiệp và tin cậy, liên hiệp Luna Innovation và ngân hàng Hometown. Ông ta
nguyên là giám đốc Bảo tàng Nghệ thuật Western Virginia. Đồng thời, ông ấy cũng có vị trí ảnh
hưởng trong Hội đồng về tương lai Virginia – hoạt động để đưa vào khuôn khổ một cách chủ
động sự trưởng thành và tiến triển của bang, bao gồm kinh doanh, dân số, và sức khỏe của dân
cư.
TÍCH HỢP THEO CHIỀU DỌC: TRỞ THÀNH ‘MỘT PHÒNG KHÁM’
Bác sĩ Murphy vạch rõ dự dịnh của mình cho tương lai của Hệ thống y tế Carilion. Trong một
buổi phỏng vấn vào tháng 8 năm 2006, ông ta nêu rõ “ Ngay lúc này công việc cốt lõi của chúng
tôi là những dịch vụ của bệnh viện. Trong mô hình mới, công việc cốt lỏi sẽ là dịch vụ bác sĩ,
5



bệnh viện sẽ trở thành phụ thuộc”. Trong một buổi phỏng vấn với tạp chí Heath Leaders năm
2007, bác sĩ Murphy giải thích “Tôi đã phải long mô hình cung cấp chăm sóc sức khỏe cả một
thời gian dài…”
Mùa thu năm 2006, Bác sĩ Murphy,cùng với nhân viên của mình, và Hội động quản trị của Hệ
thống y tế Carilion đưa ra thông báo chính thức về dự định tạo nên một hướng tiếp cận mới trong
việc quản lý Carilion, được đặc trưng bởi nhóm bác sĩ với chế độ lương bổng và làm việc nhóm,
và những người chăm sóc khác tập trung vào việc chăm sóc bệnh nhân theo năng lực. Bác sĩ
Murphy giải thích,
Điểm chính của mô hình phòng khám là bệnh viện chấm dứt việc trở thành những công
việc độc lập và bắt đầu hình thành một dịch vụ phụ thuộc giữa các bác sĩ thực hành …
Nếu như cuối cùng bệnh viện muốn cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn với chi
phí hiệu quả, thì nó nhất thiết phải thay đổi.
Quá trình chuyển đổi được lên kế hoạch thực hiện trong hơn 7 năm, với một giai đoạn khéo dài
18 tháng với tên Phòng khám Carilion và giai đoạn tách khỏi tên gọi Hệ thống y tế Carilion, tên
gọi được áp dụng từ những năm đầu 1990. Kế hoạch cho Hệ thống y tế Carilion gồm một công
ty hình thức 50 – 50 với Trường Đại học Công nghệ Virginia ở Blackburg, Virginia, để thành lập
một viện nghiên cứu lâm sàng tư nhân phi lợi nhuận và một trường y khoa mới. Hơn thế nữa,
trong vòng năm năm tới (2007-2012) phòng khám dự tính sẽ thêm vào 4 – 5 vị trí bằng các học
bổng khác để hỗ trợ công việc.
Sau một năm tuyên bố chính thức, Hệ thống y tế Carilion và Đại học Công nghệ Virginia đưa ra
một tuyên bố chung thông báo về việc sáng tạo ra một trường y khoa mới ở Virginia như là ‘một
trường y khoa cá nhân có tính phối hợp hoạt động, đặt tại trung tâm thành phố Roanoke, liền kề
bệnh viện Carilion Roanoke Memorial. Nhiều dự đoán mang tính đột phá đã có kế hoạch sớm từ
2008. Vào 20 tháng 7 năm 2009, Hội đồng Giáo dục đại học của bang Virginia đã phê duyệt cho
trường y khoa Carilion thuộc trường Công nghệ Virginia hoạt động như một tổ chức sau trung
học. Sự phê chuẩn này đã cho phép trường quyền hạn cấp bằng và có đủ điều kiện trao học bổng
và cấp kinh phí, và sẽ văn bản áp dụng theo sau từ Hiệp hội trường Cao đẳng của Bang vào mùa
thu 2009. Trường được lên kế hoạch ghi tên vào sổ nhập học trong buổi khai mạc lớp vào mùa

thu 2010
PHÁT HIỆN CỦA TỜ WALL STREETS JOURNAL
Nói chung, một tổ chức sẽ có thể được vui nếu được tờ Wall Street Journal (WSJ) xuất bản một
bài báo về tổ chức đó. Điều này, tất nhiên, nếu như câu chuyện không bắt đầu từ một vụ bùng nổ
dữ dội dẫn đến sự chia rẽ giữa cư dân và liên minh bác sĩ làm việc chống lại bạn, và tạo nên một
từ bóng ma trong lịch sử trước đây của Carilion: độc quyền
Một mẩu tin với tựa đề “Quyền định giá của bệnh viện phi lợi nhuận ở Roanoke Va., Phí của
Carilion đã vượt quá các đối thủ cạnh tranh: Một ca nội soi đại tràng giá 4,727 đô la” được xuất
bản ngay trên trang đầu của tờ WSJ vào 28 tháng 8 năm 2008 (Xem toàn văn ở Phụ lục 3). Đưa
tin bởi John Carreyrou, bản tin khám phá lịch sử của Carilion, gồm có vụ chống phá giá? Năm
1989, sự bành trướng ‘thị trường uy quyền’ của nó, và những bước sải dài tích cực hướng đến
mục tiêu tích hợp theo chiều dọc, với sự đề xuất của các phương thức đã sử dụng, đáng nghi vấn.
Vẽ nên một bức tranh không kém sắc hồng cho hàng triệu độc giả của WSJ trên toàn thế giới,
6


Carreyrou vạch trần những bí mật ít được biết đến ở Roanoke, Virginia – giá chăm sóc sức khỏe
tăng vọt, ảnh hưởng một phần, hoặc thậm chí được dẫn dắt bởi Phòng khám Carilion.
Carilion phủ nhận những cáo buộc về hành vi độc quyền hoặc lợi dụng giá cả và tuyên bố rằng
họ đang đối mặt với sức cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung tâm y khoa Lewis-Gale, nằm gần Salem,
Virginia (Thông cáo của Phòng khám Carilion phát hành nằm ở Phụ lục 4, và xem thêm những
thông tin chung về Trung tâm y khoa Lewis-Gale ở Phụ lục 5). Phòng khám Carilion bào chữa
cho sự tăng giá, chỉ ra rằng họ cần trợ cấp cho những dịch vụ tốn kém là bộ phận cấp cứu và
những khoản chăm lo không được đền bù của những người không được bảo hiểm trong quá trình
hoạt động.
Đáng chú ý trong bài điều tra của Carreyrou là sự việc kiện tụng ra tòa bệnh nhân cũ của
Carilion vì những hóa đơn y tế chưa được thanh toán. Một khi phán quyến tại tòa được đưa ra,
Carilion đặt thế chấp đối với căn nhà của bệnh nhân. Một thế chấp trên bất động sản sẽ đặt một
‘vết ngay trên giấy tờ, điều này ngăn chủ sở hữu chuyển nhượng tài sản với giấy tờ hợp pháp cho
đến khi việc thế chấp được hoàn thành. Trả lời cho tờ WSJ, bác sĩ Murphy phát biểu,

Carilion chỉ kiện những bệnh nhân và nắm giữ thế chấp nhà của khi Phòng khám tin rằng
họ có khả năng chi trả … Nếu bạn hỏi tôi rằng điều này có đúng như trong chuẩn mực
đúng – sai hay không, thì nó không … Nhưng Carilion không thể đổ lỗi cho hệ thống y tế
đã bị ‘phá vỡ’ của thành phố.
Bác sĩ Murphy dường như cũng đã chấp nhận sự thật là mặc dù những nỗ lực của Carilion nhằm
bảo vệ những lợi ích tài chính để phù hợp với những yêu cầu pháp lý, nhưng họ thiếu sót về mặt
đạo đức. Điều này dường như trái ngược với tiêu chí “Chăm lo cho bệnh nhân là tiêu chí hàng
đầu”. Và có lẽ đây chỉ là một trong nhiều điều mâu thuẫn tại Carilion.
TRUYỀN THÔNG ĐỊA PHƯƠNG ĐÃ Ở ĐÂU?
Như Carreyrou đã tường thuật, Carilion đã có nhiều than phiền đến biên tập của tờ Roanoke
Times liên quan đến những tin tức của phóng viên Jeff Sturgeon về hệ thống và hoạt động của
họ. Ngay sau khi những than phiền đưa đưa ra, chủ yếu đáp lại mẩu tin vào tháng 5 năm 2008
của Sturgeon về việc tập trung vào sự kiện hành vi của Carilion trao khoản tiền thưởng kinh
doanh cho thành viên Hội đồng quản trị (tổng cộng hơn 19 triệu đô la mỗi người), Carilion kéo
xuống nhiều quảng cảo của mình trên tờ Roanoke Times. Vào cùng khoảng thời gian đó,
Sturgeon, tác giả của nhiều bài viết về vấn đề sức khỏe, đã được bổ nhiệm lại (Bài báo in lại
trong Phụ lục 6).
Nhưng thậm chí khi Sturgeon đã chuyển đi, Carilion vẫn tiếp tục ở trang đầu tin tức của Roanoke
Times qua tường thuật của Sarah Bruyn Jones, người đã thu thập phản ứng của cộng đồng đối
với tờ WSJ và thúc đẩy đến liên minh địa phương. Những bài báo của cô ta gồm có: “Vụ phê
bình Carilion thu hút hàng trăm người đến hội nghị” (tháng 9, 2008) ; “Cơ quan liên bang trong
vụ mua bán của Carilion”, (tháng 9, 2008); “Sự bành trướng của Carilion trong thỏa thuận”
(tháng 8, 2008); và “Carilion mua Thiết bị tim mạch” (tháng 8, 2008). Những bài tường thuật
của Jones tiếp tục đưa những việc làm của Carilion trước công chúng của Roanoke, nhưng cũng
như Carreyrou ghi nhận, sự lớn mạnh của Carilion có vẻ như không thể dừng lại, sự kháng cự
cũng không được thực thi tốt.
7


PHẢN ỨNG

Sự chú ý và đóng lại cuộc điều tra được báo cáo từ tháng 8/2008 trên WSJ nhận được phản ứng
dữ dội từ cộng đồng và thúc đẩy các bác sĩ nỗ lực đưa ra những điều họ đã tuyên bố là có liên
quan đặc biệt. Những vấn đề liên quan bao gồm hành vi chống cạnh tranh, bất đồng về giá, và
ước muốn có giấy giới thiệu mở cho những bệnh nhận đến từ ngoài hệ thống y tế của Carilion
Cư dân và liên minh bác sĩ thường gặp gỡ trong trung tâm hội nghị khách sạn và trung tâm cộng
động để thảo luận về “những hành vi và việc làm không công bằng” của Carilion. Một liên minh,
Liên minh Cư dân chịu trách nhiệm về chăm sóc sức khỏe, đã tài trợ cho một kiến nghị nêu lên
rằng,
Gửi Bác sĩ Murphy và Hội đồng quản trị của Hệ thống y tế Carilion
Hãy xem xét lại kế hoạch Phòng khám Carilion của mình. Tôi muốn có
quyền được lựa chọn bác sĩ cho mình, ngay cả khi họ là bác sĩ độc lập. Hãy nghĩ
lại việc sự dụng 100 triệu đô la tiền của cộng đồng vào mô hình Phòng khám, mô
hình có thể sẽ hủy hoại những bệnh viện của chúng ta! Độc quyền không bao giờ
tốt cho vấn đề chăm sóc sức khỏe.
Trang mạng của liên minh này ( www.responsiblehealthcare.org) đăng tải bản sao bài báo của
WSJ, phim quay lại những buổi gặp gỡ của họ, thong tin về chương trình mới của diễn dàn và
bản đăng ký thành dành cho những người muốn tham gia cùng với những nỗ lực của họ.
Liên minh dân cư này duy trì ý định mang tiêu điểm vào điều họ tưởng rằng ảnh hưởng tiêu cực
của sự biến đổi Carilion vào bệnh viện do bác sĩ làm chủ rằng sẽ tăng giá và đẩy đi nhiều bác sĩ
địa phương. Kế hoạch của bác sĩ Murphy sẽ mang vào Carilion càng nhiều bác sĩ càng tốt, và
mỗi người sẽ có mức lương tương xứng với vị trí của mình. Những vấn đề liên quan của liên
minh cư dân bắt nguồn từ những nỗ lực mục tiêu đã tuyên bố kết thúc hay bán đi các bác sĩ thực
hành. Các bác sĩ quả quyết rằng họ không thể tranh đua. Hơn thế nữa, giấy giới thiệu nội bộ của
hệ thống Carilion, cùng với lợi nhuận từ thủ tục đang tồn tại, đã đẩy nhiều bác sĩ có chuyên môn
vào hai lựa chọn: vác túi lên ra đi, hay ở lại và đấu tranh.
Mặc dù nhiều tranh cãi, kế hoạch của Carilion không có dấu hiệu gì sẽ chậm lại và họ sẽ đưa ra
bản dự thảo vào mùa thu 2006.
HỒI ĐÁP CỦA CARILION
Vào 28 tháng 8 năm 2008, không đầy 24 giờ sau khi bài báo của Carreyrou phát hành trên WSJ,
Carilion khởi động một pha phản công. Bài phát biểu được phát hành trên báo và đăng tải trên

trang mạng của Carilion và thông cáo báo chí cho báo đài đánh vào những cáo buộc và chỉ ra
rằng phần lớn kết luận của các bài báo là đưa thông tin sai và làm sai lạc nhận thức.
Carilion chỉ ra rằng những chứng cứ từ bệnh viện Virginia và trang mạng của Hiệp hội Định giá
về chăm sóc sức khỏe (một thành viên của bệnh viện này), nó không chỉ mang tính so sánh với
những bệnh viện xung quanh mà nhìn chung giá còn thấp hơn đối thủ cạnh tranh gần nhất, Trung
tâm y tế Lewis-Gale của vùng hàng xóm Salem. Để chứng minh thêm mức giá của họ trên thị
trường, Carilion nói thêm, “ … chăm sóc y tế ở bệnh viên thì đắt đỏ hơn … có nhiều nhân viên
và kỹ thuật ở thời điểm hiện tại có giá trị của nó?”. Đồng thời, họ cũng đề cập đến trực thăng
cứu hộ Carilion Clinic’s Life-Guard cũng là một dịch vụ được trợ giá thêm.
8


Carilion đóng góp 42 triệu đô la cho chăm sóc từ thiện và 25 triệu đô la thêm cho chăm sóc tự do
( phần nợ xấu đã được xóa bỏ) để minh chứng thêm cho sự cống hiến và đóng góp của họ cho
Roanoke và cộng đồng xung quanh. Carilion đồng thời cũng hỗ trợ nghiên cứu và giáo dục, là
một trong cam kết nguồn lực đáng kể và nên được nhận thức như một phần đóng góp quan trọng
thêm cho tổ chức và những trợ cấp dịch vụ đến cộng đồng.
Để giải thích về cho vụ việc kiện bệnh nhân, Carilion tuyên bố rằng họ đã nỗ lực phục vụ tốt
bệnh nhân cho chương trình công cộng sau khi bệnh nhân được nhận vào phòng khám. Hơn thế
nữa, Carilion cũng phát biểu rằng “chỉ một phần nhỏ trong gần hai triệu” những hóa đơn của
bệnh nhân họ có mỗi năm phải đệ trình ra tòa.
Hồ sơ tòa án là biện pháp cuối cùng, và chúng tôi cố gắng linh hoạt. Nếu bản án bao gồm
quyền được giữ tài sản cá nhân cho đến khi thanh toán hết nợ, chúng tôi sẽ không tịch thu
tài sản. Quyền lưu giữ chỉ thỏa mãn nếu và chỉ khi tài sản được bán
Trả lời về những liên quan về việc giấy giới thiệu nội bộ của phòng khám, Carilion phát biểu
rằng giấy giới thiệu được chuyển nội bộ từ bác sĩ Carilion này đến bác sĩ Carilion khác với ý
muốn chuyển bệnh nhân đến một bác sĩ tốt hơn, chất lượng hơn Hơn nữa, Carilion cũng tuyên bố
rằng tư tưởng “kiếm được, không phải ép buộc” đóng góp cho mục tiêu ưu việt của sự phối hợp
tốt chăm sóc và dịch vụ, lựa chọn hàng đầu của bệnh nhân.
Thông cáo báo chí khép lại bằng việc miêu tả một hệ thống chăm sóc sức khỏe lãng phí và tổ

chức kém của Mỹ. Họ hy vọng cải thiện với mô hình phòng khám tích hợp theo chiều dọc để
cung cấp dịch vụ chăm sóc. Hy vọng một sự chăm sóc toàn diện, chất lượng cao, và chi phí hợp
lý sẽ đặt bệnh nhân lên hàng đầu. Thông cáo báo chí gợi cho độc giả nhớ đến những gì đã xuất
hiện ở Mayo có thể được tái tạo lại ở Carilion
TÌNH TRẠNG HIỆN TẠI Ở ROANOKE (2009)
Sau gần ba năm kể từ thông báo công khai, Hệ thống y tế Carilion chỉ là quá khứ xa xôi. Phòng
khám Carilion đã thay thế chỗ của nó. Hiện tại, có một trường y khoa mới theo mô hình hợp tác
và ngày càng mở rộng các bác sĩ thực hành với nhiều chuyên khoa khác nhau. Tuy nhiên,
Roanoke có lẽ vẫn chưa nhìn thấy điều gì cả.
Hai thập kỷ kể từ khi những cuộc tranh cãi nguyên sơ xung quanh việc sát nhập bệnh viện thị
trấn nhỏ ở Roanoke, Virginia, cảnh quan đã thay đổi, dân số đang tăng lên, và chi phí chăm sóc
sức khỏe cũng tăng. Khi vụ chống phá giá bắt đầu vào năm 1988, Roanoke nằm trong nhóm có
mức phí bảo hiểm y tế thấp nhất; bây giờ thì nó nằm trong nhóm cao nhất.
Quyết định chống phá giá năm 1989 là điềm báo hiệu của những sự kiện xuất hiện sau này ở
Roanoke Valley. Vấn đề của Phòng khám Carilion với Ủy ban Thương mại liên bang vẫn tiếp
tục. Vào giữa năm 2009, Ủy ban đưa ra khiếu nại hành chính với Carilion để buộc lấy đi những
bác sĩ chuyên khoa thần kinh và chỉnh hình. Trong chưa đầy một tháng, Carilion đã đạt được
thuận với Ủy ban trong việc đòi hỏi chiếm hữu hai chuyên khoa này. Những động thái của Ủy
ban đã tác động làm nhụt chí khả năng của Phòng khám Carilion trở thành nhà cung cấp hệ
thống chăm sóc sức khỏe tích hợp theo chiều dọc toàn diện.
9


Bảo hiểm y tế và Giá đỡ có tẩm thuốc
David M. Currie
Mark Arundine
Richard Ivey School of Business
The University of Western Ontario

IVEY


Vào ngày 24 tháng 4 năm 2003, Cơ quan quản lí dược phẩm và thực phẩm Hoa Kì (FDA) đã
chấp thuận việc sử dụng giá đỡ Cypher trong các cuộc phẫu thuật tại Mỹ. Việc chấp thuận dựa
trên các kết quả nghiên cứu của nước này và Châu Âu cho thấy giá đỡ Cypher đóng vai trò quan
trọng trong việc giảm tỉ lệ tái hẹp động mạch vành sau giải phẫu thông động mạch vành bị tắc.
Giá đỡ Cypher là dụng cụ đầu tiên trong nhóm giá đỡ có tẩm thuốc, được bao bọc bởi một loại
thuốc làm ngăn chặn việc hình thành các mô sẹo sau phẫu thuật. Theo các chuyên gia y khoa, giá
đỡ có tẩm thuốc là bước đột phá quan trọng trong việc điều trị bệnh tim mạch, nguyên nhân chủ
yếu gây tử vong ở Mỹ.
Bảo hiểm y tế, kế hoạch bảo hiểm sức khỏe do Chính phủ Hoa Kì tổ chức thực hiện và là bên
mua chính của loại giá đỡ này, đã đi tiên phong trong việc tuyên bố trước việc chấp thuận của
FDA rằng điều này có thể làm tăng số tiền mà nước này có thể hoàn lại cho các bệnh viện đối
với một ca phẫu thuật thông động mạch vành bị tắc có sử dụng giá đỡ tẩm thuốc. Thật không
may, số tiền mà bảo hiểm y tế có thể hoàn lại thấp hơn chi phí một ca phẫu thuật sử dụng giá đỡ
Cypher. Vì các bệnh viện không thể chịu toàn bộ chi phí cho việc lắp đặt giá đỡ Cypher, họ có
thể mất tiền mỗi lần thực hiện phẫu thuật.
Các nghiên cứu cho thấy trong thời gian ngắn, giá trị của một ca phẫu thuật có sử dụng giá đỡ
Cypher trái ngược với một ca mổ truyền thống, giá đỡ không có tẩm thuốc không phải trả thêm
chi phí, điều này có thể giải thích cho trường hợp của Bảo hiểm y tế. Trong thời gian dài, giá đỡ
có thể có tác động tích cực vì 2 lí do: 1. Giá đỡ Cypher giúp tránh một trong những vấn đề
nghiêm trọng có liên quan đến giải phẫu thông động mạch vành bị tắc – lặp lại phẫu thuật để
vượt qua khuynh hướng tự lành vết thương của cơ thể sau phẫu thuật; 2. Giá đỡ có thể trì hoãn
việc cần thiết phải phẫu thuật can thiệp sử dụng tim nhân tạo. Mặc dù các kết quả có lợi cho
bệnh nhân, các kết quả này lại cho thấy tổn thất lớn về mặt doanh thu cho các bệnh viện.
David M. Currie và Mark Arundine chuẩn bị tài liệu này nhằm mục đích thảo luận trong lớp.
Các tác giả không có chủ định mô tả việc hiệu quả hay không hiệu quả trong việc xử lícủa một
tình huống quản lí. Các tác giả cũng có thể đã thay tên và các thông tin cá nhân khác để bảo vệ
tính riêng tư.
Ivey Management Serives nghiêm cấm bất kì hình thức tái bản, lưu trữ chuyển đổi nào mà
không được chấp thuận bằng văn bản. Tái bản tài liệu này không được phép dưới sự cho phép

của bất kì tổ chức quyền tái bản nào. Để đặt và yêu cầu sự cho phép tái bản lại tài liệu này, liên
hệ Ivey Pulishing, Ivey Management Services, nhờ chuyển Richard Ivey School of Business,
The University of Western Ontario, London, Ontario, Canada, N6A 3K7; sđt (519)661-3208;
fax (519) 661-3882; email
Copyright © 2005, Ivey Management Services
Cho phép tái bản một lần bởi Ivey Management Services vào ngày 1 tháng 4 năm 2012.
10


Giá trị kinh tế và chữa bệnh của giá đỡ đối với bệnh nhân, bệnh viện và bên bảo hiểm như là Bảo
hiểm y tế, cả trong thời gian ngắn lẫn về lâu dài, cho thấy cơ hội phát hiện ra một vài vấn đề nan
giải về tài chính và đạo đức xảy ra đối với chăm sóc sức khỏe tại các nước phát triển, cụ thể là ở
Mỹ. Hơn thế nữa, giá đỡ có thể có tác động tích cực đối với một bộ phận này nhưng lại có tác
động không tốt đối với các bộ phận khác, vì vậy mà giá trị tổng thể của giá đỡ đối với xã hội vẫn
chưa rõ.
BỆNH TIM MẠCH
Bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong số một tại Mỹ. Tim là bộ phận trong cơ thể người chịu
trách nhiệm phân phối máu, cung cấp ôxy giúp các tế bào tổng hợp năng lượng. Bản thân cơ tim
cũng cần ôxy, vì vậy mà hai ống nhỏ - hai động mạch vành – bao quanh tim để cung cấp máu
(xem Hình 1). Qua thời gian, các mảng – chất béo, cholesterol hoặc các chất khác – có thể tích tụ
lại trong động mạch vành gây tắc mạch – một quy trình được gọi là hẹp động mạch vành (xem
Hình 2). Khi mạch bị hẹp lại, lượng máu truyền vào tim giảm, làm giảm lượng ôxy vào tim. Nếu
tim không nhận đủ lượng ôxy cần thiết, kết quả là bị tức ngực, gọi là chứng đau thắt ngực. Nếu
mạch bị tắc hoàn toàn, máu không lưu thông được đến bộ phận đó của tim (chứng thiếu máu cục
bộ) và các tế bào chết – gây đau tim hoặc nhồi máu cơ tim.
Động mạch chủ
Tĩnh mạch chủ trên
Thân động mạch phổi
Động mạch
vành phải


Động mạch vành trái

Mạch

nhánh

của

động mạch vành trái

Tĩnh mạch chủ dưới

TIM VÀ
ĐỘNG MẠCH VÀNH

Hình 1. Hình mô phỏng tim cho thấy cách động mạch vành
Nguồn: www.patient.co.uk/showdoc/21692419/.

11


Thành cơ tim

Động mạch vành
bình thường

Luồng máu bị chặn

Hình thành mảng bám


Mảng bám hình thành nhiều

Hình 2. Hình ảnh mảng động mạch vành (chứng hẹp). Minh họa bởi Bob Morreale, được sự cho
phép của Tổ chức Hỗ trợ Tim của Hoa Kì
Nguồn: www.ahaf.org/hrtstrok/about/CoronaryHeartDisease_2003.htm.
Vào năm 1968, các nhà nghiên cứu y khoa đã phát triển một phương pháp để cấp thêm nguồn
cung máu cho tim khi động mạch vành bị tắc. Qui trình phẫu thuật có liên quan tới việc chuyển
một mạch hoặc ven từ một vị trí khác trong cơ thể và ghép vào quanh động mạch vành bị tắc.
Việc phẫu thuật được biết đến như là mổ tim có can thiệp (hay ghép động mạch vành có can
thiệp) được xem như là phẫu thuật quan trọng vì việc này đòi hỏi phải mở lồng ngực bệnh nhân
để tiếp cận tim. Việc mổ có can thiệp đòi hỏi bệnh nhân phải ở lại lâu trong bệnh viện, làm tăng
chi phí phẫu thuật. Mặc dù có hơn 540.000 ca mổ can thiệp ở Mỹ vào năm 2000, việc thường
xuyên mổ can thiệp đã giảm kể từ năm 1996 do sự phát triển của các phương pháp phẫu thuật
thay thế rẻ hơn và ít mổ xẻ hơn.
GIẢI PHẪU THÔNG ĐỘNG MẠCH VÀNH BỊ TẮC VÀ GIÁ ĐỠ
Một biện pháp thay thế nhằm tránh hẹp động mạch vành đã được các nhà nghiên cứu chữa bệnh
phát triển vào năm 1977. Giải phẫu thông động mạch vành bị tắc bằng bong bóng là phẫu thuật
trong đó một ống nhỏ có chứa một bong bóng được đặt vào động mạch vành tại điểm bị tắc.
Việc làm phồng bong bóng đè lên những mảng bám lên thành động mạch vành làm rộng động
mạch vành và cho phép cải thiện luồng máu. Sau phẫu thuật, bong bóng và ống được gỡ bỏ.
Trong 25 năm kể từ ngày phát triển loại hình này, việc phẫu thuật thông động mạch vành bị tắc
đã trở thành quy trình phổ biến để chữa trị bước đầu cho bệnh tim nên vào năm 2003, khoảng
650.000 ca phẫu thuật thông động mạch vành bị tắc sử dụng bong bóng đã được thực hiện ở Mỹ,
tăng 320% kể từ năm 1987. Phẫu thuật thông động mạch vành bị tắc bằng bong bóng được xem
là ít phải mổ xẻ hơn việc phẫu thuật có can thiệp, phải ở lại ít ngày hơn trong bệnh viện và trong
một vài trường hợp có thể được thực hiện theo diện ngoại trú. Kết quả là việc điều trị ít tốn kém
hơn.

12



Thật không may, quá trình phẫu thuật thông động mạch vành bị tắc lại tạo ra một vấn đề khác.
Cơ thể người có khuynh hướng tự chữa lành vết thương một cách tự nhiên sau chấn thương, như
là phẫu thuật. Trong số 40-50% bệnh nhân trải qua giải phẫu thông động mạch vành bị tắc sử
dụng bong bóng, động mạch vành bị tắc trở lại từ 3-6 tháng sau phẫu thuật, quá trình này gọi là
tái hẹp động mạch vành. Lí do chủ yếu của việc tái hẹp là do việc hình thành mô sẹo tại vị trí vết
mổ do phẫu thuật thông động mạch vành bị tắc. Vào năm 1993, các nhà nghiên cứu đã phát triển
một kĩ thuật để tránh tái hẹp bằng việc cấy một giàn kim loại giúp giữ động mạch vành mở ra.
Giàn này, gọi là giá đỡ là một ống dây có nhiều mắt tương tự như cái lò xo trong cây bút mực.
Giá đỡ được nén lại khi cấy vào, như sẽ bung ra khi được để lại trong động mạch vành, giữ cho
động mạch vành mở ra (xem Hình 3). Giá đỡ trở nên phổ biến đối với bác sĩ và bệnh nhân mong
muốn tránh tái hẹp làm cho việc lắn đặt giá đỡ tăng 147% từ năm 1996 (lần đầu được ghi lại)
đến năm 2000. Hiệp hội Tim mạch Hoa Kì ước lượng rằng 70 đến 90% quy trình phẫu thuật
thông động mạch vành bị tắc có đặt giá đỡ trợ tim. Sau đó giá đỡ cơ bản được biết đến như là giá
đỡ kim loại hay giá đỡ không tẩm thuốc vì họ không bọc thuốc xung quanh giá đỡ. Mặc dù giá
đỡ không tẩm thuốc làm giảm tái hẹp, nó không loại bỏ được việc tái hẹp này. Tái hẹp vẫn diễn
ra với 20 đến 30% bệnh nhân trong vòng 3 đến 6 tháng sau phẫu thuật có sử dụng giá đỡ không
tẩm thuốc, việc bị tái hẹp chủ yếu là do việc hình thành các mô sẹo.

Động mạch

A. Một ống thông được dẫn từ vòm về
tim, sau đó dẫn tới khu vực có mảnh
bám ở động mạch vành. Ống thông đi
kèm với một bong bóng không bơm
hơi bên trong một giá đỡ bị biến dạng.

Mảng bám


Giá đỡ

Giá đỡ nới rộng

Bong bóng

Bong bóng được làm xẹp

B. Bong bóng được làm xẹp, làm giãn
giá đỡ và làm rộng động mạch vành.
C. Bong bóng bị làm xẹp và ống thông
và bong bóng được lấy ra. Giá đỡ vẫn
giữ nguyên, cho phép máu chảy qua
động mạch vành.

Giá đỡ hoạt động
Hình 3. Mô tả quy trình lắp giá đỡ. Được sự cho phép của Image © Texas Heart Institute,
www.texasheart.org . Nguồn: www. tcm.edu/thi/card.html.
Vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu về y khoa phát triển giá đỡ có tẩm thuốc, được phát
hiện có khả năng ngăn chặn việc hình thành các mô sẹo. Giá đỡ có tẩm thuốc đầu tiên – giá đỡ
Cypher – được chấp thuận sử dụng ở Châu Âu vào năm 2002. (Chất hóa học của giá đỡ Cypher,
sirolimus, là một sản phẩm lên men của một loại vi khuẩn được tách từ mẫu đất lấy từ đảp Phục
Sinh.) Ở Mỹ, công nghệ y khoa mới phải được FDA thông qua, và giá đỡ Cypher đã được thông
qua vào tháng 4 năm 2003, sau khi công bố các kết quả kiểm tra về tính hiệu quả và độ an toàn
của giá đỡ. Loại giá đỡ có tẩm thuốc thứ hai, Taxus Express, được chấp thuận vào năm 2004, và
13


các giá đỡ có tẩm thuốc khác đang thực hiện các thử nghiệm y khoa vào năm 2005. (Paclitaxel,
loại thuốc kích hoạt trong Taxus Express, được chiết xuất từ cây thủy tùng hiếm thấy ở vùng Tây

Bắc Thái Bình Dương của Mỹ).
Các giá đỡ có tẩm thuốc giảm nguy cơ tái hẹp bằng cách từ từ giải phóng các chất hóa học tập
trung nhiều ngay tại vết thương. Việc thuốc tập trung nhiều giúp tránh khuynh hướng tự nhiên
làm lành vết thương của cơ thể làm hình thành mô sẹo. Do sự tập trung được khoanh vùng, việc
này không gây ra phản ứng phụ nghiêm trọng có thể có nếu sự tập trung nhiều được phân phối
trên toàn bộ cơ thể bằng cách uống hoặc tiêm một liều thuốc. So với giá đỡ không tẩm thuốc, giá
đỡ có tẩm thuốc giảm tỉ lệ tái hẹp động mạch vành, nhưng không làm loại bỏ được hoàn toàn
việc tái hẹp. Tái hẹp diễn ra đối với khoảng 8% bệnh nhân sau phẫu thuật thông động mạch vành
bị tắc có sử dụng giá đỡ tẩm thuốc.
Mặc dù giá đỡ tẩm thuốc hiện nay được xem như là công cụ hữu hiệu nhất trong việc ngăn chặn
tái hẹp động mạch vành, không có bằng chứng cho thấy chúng ảnh hưởng tới tỉ lệ tử vong (chết)
hoặc chứng suy tim. Khuynh hướng tử vong hoặc suy tim phụ thuộc vào yếu tố sức khỏe của
bệnh nhân, như là chế độ ăn uống và lối sống. Giá đỡ có thể trì hoãn việc cần thiết phải phẫu
thuật thay thế, nhưng chúng không đề cập đến những nguyên nhân phía sau của các bệnh tim
mạch.
Ngay cả trước khi giới thiệu giá đỡ Cypher ở Hoa Kì, phản ứng của giới chuyên môn và công
chúng đối với công nghệ giá đỡ tẩm thuốc rất tích cực và hào hứng. Bệnh nhân, bị hấp dẫn bởi
viễn cảnh tránh được các ca phẫu thuật lặp đi lặp lại, đã yêu cầu được sử dụng giá đỡ có tẩm
thuốc hơn là phẫu thuật thông động mạch vành sử dụng bong bóng hoặc giá đỡ không tẩm thuốc.
Một vài bệnh nhân bệnh tim mạch hoãn phẫu thuật do dự đoán về sự chấp thuận của FDA về
việc sử dụng giá đỡ có tẩm thuốc, điều này đã gây ra những phản ứng không đáng có, cũng như
một vài bệnh nhân phải chịu đựng chứng suy tim do trì hoãn việc phẫu thuật. Nhiều bác sĩ chia
sẻ sự nồng nhiệt của công chúng. Một bác sĩ về tim mạch nói rằng nó “có thể sẽ không đạo đức
nếu không sử dụng giá đỡ có tẩm thuốc.” Một bài báo đánh giá các bước đã nói rằng giá đỡ có
tẩm thuốc đại diện cho “sự tiến bộ của dược lí và kĩ thuật” trong điều trị bệnh tim mạch vành.
HỆ THỐNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA HOA KÌ
Hoa Kì đặt giá trị cao đối với chất lượng của bảo hiểm y tế. Kết quả là, Hoa Kì đã chi phần trăm
Tổng sản lượng nội địa (GDP) nhiều hơn vào y tế so với bất kì quốc gia công nghiệp hóa nào
(Xem Hình 4). Quy ra đôla Mỹ, Hoa Kì chi hơn 4.000 đôla mỗi năm cho bảo hiểm y tế cho mỗi
người dân, con số cao hơn 80% so với Đức, quốc gia đứng hạng thứ 2.

Chi tiêu cho sức khỏe
Chi tiêu y tế/ người để theo đuổi sự
Quốc gia
(%GDP)
bình đẳng
Mỹ
13,10
$ 4.539
Đức
10,60
2.671
Canada
8,90
2.503
Pháp
9,30
2.456
Nhật
7,60
2.971
Anh
7,30
1.833
Hình 4. Chi tiêu cho y tế - các quốc gia được chọn lựa, 2000. Nguồn: Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế, Dữ liệu y tế OECD 2003, OECD, Paris, 2000.

14


Ngay khi sinh

Ở độ tuổi 65
(Mọi giới tính)
Quốc gia
Nữ
Nam
Nhật
81,2
22,7
17,8
Canada
79,37
20,6
17,1
Pháp
79,0
21,3
16,9
Đức
78,0
19,6
16,0
Anh
77,9
18,9
15,7
Mỹ
76,8
19,3
16,2
Hình 5. Tuổi thọ trung bình dự kiến lúc sinh và lúc 65 tuổi – những quốc gia được lựa chọn,

2000 (các năm). Nguồn: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Dữ liệu y tế OECD 2003,
OECD, Paris, 2000.
Tuy nhiên, mức chi cao không dẫn đến tăng tuổi thọ trung bình của công dân Mỹ (xem Hình 5).
Tuổi thọ trung bình khi sinh ra ở Mỹ thua tuổi thọ trung bình khi sinh ra ở rất nhiều quốc gia
khác. Mỹ không làm tốt hơn theo như chỉ tiêu về sống lâu, tuổi thọ trung bình ở độ tuổi 65. Hơn
thế nữa, Mỹ xếp hạng 24 trong các quốc gia theo một yếu tố đo tuổi thọ trung bình đối với sức
khỏe bình thường được phát triển bởi Tổ chức Y tế Thế giới.
Việc nhấn mạnh vào chất lượng dẫn đến đổi mới công nghệ và dẫn đến giá cả cao hơn trong việc
chăm sóc sức khỏe qua thời gian. Vào năm 2001, số tiền chi vào chăm sóc sức khỏe tăng 8,7%
so với năm trước khi lạm phát của Mỹ chỉ ở mức 1,6%. Việc tăng chi tiêu chăm sóc sức khỏe do
nhiều nguyên nhân, bao gồm cả thành phần dân cư. Do người lớn tuổi cần chăm sóc sức khỏe
nhiều hơn, dân số già ở Mỹ dẫn đến chi tiêu nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe. Cùng lúc, việc sử
dụng dịch vụ ngoại trú của bệnh nhân, chẩn đoán, kê toa thuốc và công nghệ mới phát triển. Đi
kèm với tăng giá, tổng chi tiêu vào chăm sóc sức khỏe đã tăng liên tục trong những năm gần đây.
Hiệp hội Tim mạch của Mỹ tính toán chi phí chữa bệnh tim mạch và đột quỵ năm 2005 là 394 tỉ
đôla. Việc tính toán này bao gồm chi phí trực tiếp, như là chi phí đi bác sĩ và các dịch vụ ở bệnh
viện, và các chi phí gián tiếp, như là đạo đức và mất năng suất. (Tương tự, những tính toán cho
năm 2004, đối với tất cả các dạng ung thư, con số là 190 tỉ đôla). Các ca phẫu thuật gắn giá đỡ
cho tim được thực hiện ở Mỹ nhiều hơn bất kì quốc gia nào: Năm 2002, khoảng 454.000 ca phẫu
thuật đã được thực hiện ở Mỹ, trong tổng số 900.000 ca trên toàn thế giới. Thị trường thế giới
đối với các giá đỡ các loại được tính là 3,3 tỉ đôla năm 2003.
Chăm sóc y tế ở Mỹ được cung cấp và hỗ trợ tài chính thông qua các kênh đa dạng. Về mặt lịch
sử, Mỹ thích cung cấp và hỗ trợ tài chính cho chăm sóc y tế về cá nhân hơn là công cộng. Thay
vào đó, hầu hết mọi người mua bảo hiểm y tế thông qua các nhà cung cấp bảo hiểm tư nhân.
Những người trên 65 tuổi đủ tiêu chuẩn được chính phủ cung cấp kế hoạch bảo hiểm, gọi là Bảo
hiểm y tế. Mặc dù nhiều nhà cung cấp bảo hiểm tồn tại ở Mỹ, người ta tính toán rằng 45 triệu
người không có bảo hiểm y tế. Các cá nhân không có bảo hiểm phải gánh chịu gánh nặng tài
chính để chăm sóc sức khỏe từ các nguồn quỹ của chính họ hoặc được cung cấp bảo hiểm bởi
các bệnh viện hoặc các tổ chức từ thiện.
BẢO HIỂM Y TẾ

Bảo hiểm y tế ra đời năm 1965, để cung cấp bảo hiểm sức khỏe cho những người trên 65 tuổi.
Bảo hiểm y tế chịu chi phí bảo hiểm cho khoảng 39 triệu người ở Mỹ vào năm 2002. Ban đầu,
bảo hiểm y tế chỉ hoàn trả cho bác sĩ, bệnh việc và các bên cung cấp dịch vụ y tế khác cho những
chi phí liên quan đến sức khỏe. Tuy nhiên, hoàn tiền cho những chi phí không cung cấp một
15


khoản tiền khuyến khích cho các bên cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để kiểm soát các chi
phí. Khi chi phí chăm sóc sức khỏe tăng lên, nhiều người gọi điện cho Bảo hiểm y tế để thay đổi
hệ thống thanh toán. Vào năm 1983, Bảo hiểm y tế bắt đầu thiết lập tỉ lệ có thể thanh toán cho
các dịch vụ. Mỗi năm, Trung tâm Bảo hiểm y tế và Dịch vụ hỗ trợ y tế khảo sát các bệnh viện
trên toàn quốc để quyết định chi phí các ca phẫu thuật, các sản phẩm và các dịch vụ. Số tiền
hoàn lại có thể nhiều hơn, nhưng thông thường là ít hơn, chi phí thực sự cung cấp cho các dịch
vụ. Trung bình, Bảo hiểm y tế hoàn tiền các bệnh viện 98 cent cho mỗi đôla cho các dịch vụ Bảo
hiểm y tế mà họ cung cấp. Một nghiên cứu chỉ ra rằng 67% các bệnh việc mất tiền cho các dịch
vụ Bảo hiểm y tế mà họ cung cấp. Bảo hiểm y tế hoàn trả cho các bác sĩ hoàn toàn riêng biệt với
các bệnh viện.
Tuy nhiên việc thanh toán này không có nghĩa là tất cả các dịch vụ Bảo hiểm y tế mất tiền. Như
một phần của quy trình thành lập tỉ lệ thanh toán, một hội gồm các bác sĩ và các chuyên gia
chăm sóc sức khỏe quyết định số tiền tương đối mà Bảo hiểm y tế sẽ hoàn lại cho các ca phẫu
thuật khác nhau mà Bảo hiểm y tế chi trả. Ví dụ, hội này có thể quyết định Bảo hiểm y tế sẽ chi
trả 7.200 đôla cho phẫu thuật thông động mạch vành sử dụng bong bóng, nhưng sẽ thanh toán
28.000 đôla cho một ca phẫu thuật sử dụng tim nhân tạo. (Những con số này là ước tính. Con số
hoàn lại thực tế của Bảo hiểm y tế thay đổi tùy theo nhiều yếu tố, bao gồm cả vị trí của bệnh
viện mà ca phẫu thuật được thực hiện.) Phẫu thuật thông động mạch vành sử dụng bong bóng có
thể tạo lợi nhuận nhiều hơn cho bệnh viện với mức giá như vậy, nhưng phẫu thuật sử dụng tim
nhân tạo có thể tạo nhiều lợi nhuận hơn. Bảo hiểm y tế chủ yếu thanh toán nhiều cho các ca phẫu
thuật liên quan đến tim mạch.
Trên thực tế, hội quyết định chiếc bánh ngân sách của Bảo hiểm y tế được phân bổ như thế nào.
Bởi vì ngân sách tổng cộng của Bảo hiểm y tế được Quốc hội quyết định hằng năm, cách duy

nhất để tăng số tiền hoàn lại đối với phẫu thuật thông động mạch vành sử dụng bong bóng là
giảm hoàn tiền cho phẫu thuật tim có can thiệp hoặc các ca phẫu thuật khác. Do ngân sách của
Bảo hiểm y tế được quyết định trong suốt cuộc thảo luận chi tiêu của Quốc hội, cũng có trường
hợp các thành viên của Quốc hội gây ảnh hưởng đến các ca phẫu thuật và các dịch vụ mà Bảo
hiểm y tế chi trả.
Một vài nhà bình luận đưa ra lí lẽ rằng quy trình đưa ra mức giá của Bảo hiểm y tế dẫn đến việc
thiên vị cho vài chuyên viên qua chăm sóc sức khỏe căn bản. Những nhà bình luận khác chỉ ra
rằng kế hoạch hoàn tiền của Bảo hiểm y tế ít liên quan đến chi phí thực tế của một ca mổ. Ví dụ,
Bảo hiểm y tế hoàn 7.200 đôla cho phẫu thuật đặt giá đỡ giả định rằng mỗi bệnh nhân nhận được
1.5 giá đỡ trong suốt mỗi lần phẫu thuật. Giả định 1.5 giá đỡ được dựa trên thực tế rằng một vài
bệnh nhân nhận được 1 giá đỡ trong suốt quá trình phẫu thuật, còn những người khác nhận được
hơn 1 giá đỡ. (Trong người của một vài bệnh nhân, khu vực động mạch vành bị tắc có thể quá
dài nên cần hơn 1 giá đỡ để làm cho động mạch vành mở ra.) Do đó, bệnh viện kiếm được tiền
nếu bệnh nhân cần 1 giá đỡ, nhưng có thể mất tiền nếu một bệnh nhân cần 2 hay nhiều giá đỡ
hơn.
ẢNH HƯỞNG VỀ NGÂN SÁCH CỦA GIÁ ĐỠ
Giá đỡ có tẩm thuốc cho thấy một vấn đề phức tạp đối với các nhà bảo hiểm tư nhân và Bảo
hiểm y tế. Các nghiên cứu cho thấy rằng khi giá đỡ Cypher được so sánh với giá đỡ không tẩm
thuốc, chi phí của ca phẫu thuật tăng lên xấp xỉ 2.800 đôla. Chi phí tăng lên ban đầu được quy
cho chi phí của giá đỡ cao hơn, nhưng cũng do sự thật rằng bệnh nhân cần điều trị lâu hơn cho
việc làm tan các cục vón của thuốc trong suốt quá trình hồi phục. Do đó, sử dụng giá đỡ có tẩm
thuốc thay cho giá đỡ không tẩm thuốc chắc chắn dẫn đến việc tăng chi phí chăm sóc y tế, ít nhất
16


là trong thời gian ngắn. Cả các nhà bảo hiểm tư nhân và nhà nước đều phải chịu chi phí tăng lên
bằng cách tăng giá hoặc giảm thanh toán cho các dịch vụ khác.
Do các bệnh nhân được thanh toán bằng Bảo hiểm y tế lớn tuổi và do đó họ là khách hàng
thường xuyên của giải phẫu thông động mạch vành, khoảng 50% trong tổng các ca phẫu thuật
đặt giá đỡ có tẩm thuốc ở Mỹ do Bảo hiểm y tế chi trả. Quyết định của Bảo hiểm y tế về giá đỡ

mới có ảnh hưởng quan trọng tới ngân sách của khoảng 100 triệu đôla cho chăm sóc bệnh viện
cho bệnh nhân ngoại trú vào năm 2003. Việc dự đoán chi phí cao của giá đỡ, Bảo hiểm y tế nhận
định rằng bên Bảo hiểm y tế có thể tăng khoản hoàn lại lên tới 1.800 đôla nếu và khi FDA chấp
thuận giá đỡ có tẩm thuốc: mỗi ca phẫu thuật sử dụng giá đỡ có tẩm thuốc có thể tốn kém hơn số
tiền mà Bảo hiểm y tế hoàn lại, thậm chí với khoản tăng thêm 1.800 đôla. Do số tiền mà Bảo
hiểm y tế chọn để hoàn lại không bao gồm toàn bộ chi phí phẫu thuật, phẫu thuật đặt giá đỡ tẩm
thuốc có thể làm giảm lợi nhuận cho các bệnh viện, không phải giá đỡ không tẩm thuốc.
Việc tăng chi phí ngắn hạn đã phần nào bù lại trong dài hạn bằng lợi ích của giá đỡ. Do giá đỡ có
tẩm thuốc giảm mức độ tái hẹp, bệnh nhân không phải trải qua nhiều lần phẫu thuật lặp đi lặp
lại. Các nghiên cứu cho thấy rằng một năm kể từ ngày phẫu thuật, giá đỡ Cypher đã tiết kiệm
được khoảng 2.500 đôla, phần nào bù lại được chi phí cao ban đầu. Tuy nhiên, giá đỡ có tẩm
thuốc lại làm mất tiền theo dữ kiện gần đây về giá và các ca phẫu thuật lặp đi lặp lại và phẫu
thuật tim có can thiệp. Nếu thực hiện mỗi ca trong số 650.000 ca phẫu thuật thông động mạch
vành bằng bong bóng hằng năm mất 300 đôla chẵn (sự khác biệt giữa chi phí cao hơn 2.800 đôla
và khoản tiết kiệm 2.500 đôla), tổng chi phí bị mất vượt quá 190 triệu đôla.
Thêm vào đó, do giá đỡ có tẩm thuốc giảm nguy cơ tái hẹp, luồng khí ôxy đến tim có thể được
duy trì lâu dài hơn, hoãn được sự cần thiết phải phẫu thuật tim có can thiệp. Do đó các bệnh
nhân không phải trải qua nhiều đợt phẫu thuật can thiệp như khi chưa có giá đỡ có tẩm thuốc,
điều này có thể tiết kiệm cho Bảo hiểm y tế hàng triệu đôla trong việc chi tiêu trong tương lai
cho dù các khoản chi tiêu trong hiện tại có thể tăng.
Ảnh hưởng về lâu dài đối với ngân sách Bảo hiểm y tế cũng phụ thuộc vào phản ứng của bác sĩ
và bệnh nhân đối với giá đỡ có tẩm thuốc. Thành công của giá đỡ có tẩm thuốc trong việc ngăn
chặn tái hẹp động mạch vành để thực hiện những chẩn đoán chữa bệnh bằng giá đỡ ngăn chặn
từng phần động mạch vành mà trước đây họ đã nghĩ rằng chúng không đáng giá. Do Bảo hiểm y
tế chi trả nhiều hơn cho các ca phẫu thuật liên quan đến giá đỡ có tẩm thuốc, việc sử dụng tăng
lên dẫn đến doanh thu nhiều hơn cho các bác sĩ và bệnh viện và Bảo hiểm y tế thanh toán nhiều
hơn.
Tình huống mà các bệnh viện đang đối mặt chỉ phức tạp giống như tình huống mà các bên cung
cấp bảo hiểm đang gặp phải. Các ca phẫu thuật có liên quan đến giá đỡ có tẩm thuốc có thể tăng
chi phí của bệnh viện cả về ngắn hạn lẫn dài hạn. Trong thời gian ngắn, các bệnh viện không

nhận được số tiền hoàn lại bằng với chi phí của ca phẫu thuật theo hướng dẫn hiện hành của Bảo
hiểm y tế. Do đó, các bệnh viện có thể mất tiền đối với mỗi ca phẫu thuật có liên quan đến giá đỡ
có tẩm thuốc. Về lâu dài, các bệnh viện có thể đối mặt với việc giảm doanh thu và lợi nhuận nếu
ít ca phẫu thuật tim có can thiệp hơn được thực hiện. Một nguồn tin dự đoán rằng phẫu thuật can
thiệp có thể giảm 20%. Theo hướng dẫn hiện hành của Bảo hiểm y tế, các ca phẫu thuật có can
thiệp là nguồn doanh thu và lợi nhuận quan trọng của các bệnh viện. Trong thực tế, một vài bệnh
viện chuyên về các ca phẫu thuật động mạch vành như vậy do chúng có khả năng tạo ra lợi
nhuận, để các ca phẫu thuật ít lợi nhuận hơn cho các bệnh viện khác. Một bài báo trên tờ New
York Times chỉ ra rằng, tại một bệnh viện, phẫu thuật tim mạch có đóng góp biên cao nhất,
chiếm 13% số lượng bệnh nhân nhưng lại đóng góp 28% lợi nhuận. Vào tháng 1 năm 2005, vào
buổi họp lần thứ 41 hằng năm của Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực, người ta báo cáo
17


rằng chủ đề quan trọng là tập trung vào “sự lo ngại đang tăng” gây ra bởi việc giảm số lượng các
ca phẫu thuật.

18


Mayo Clinic: Hệ thống Chăm Sóc Sức Khỏe Đẳng
cấp hàng đầu Thế giới: mô hình Bệnh viện Đa
Khoa có tinh thần hợp tác cao, do các Y Bác sĩ
lãnh đạo, và nền văn hóa lấy bệnh nhân làm trung
tâm


Sứ mệnh của Quỹ Thịnh Vượng
Chung là thúc đẩy hệ thống
chăm sóc sức khỏe năng suất

cao. Quỹ thực hiện nhiệm vụ này
bằng cách tài trợ cho các nghiên
cứu độc lập về các vấn đề chăm
sóc sức khỏe và thành lập các
nguồn quỹ nhằm cải thiện các
chính sách và việc chăm sóc sức
khỏe. Nghiên cứu này được hỗ
trợ bởi Quỹ Thịnh Vượng Chung.
Các quan điểm đưa ra trong bài
nghiên cứu này là các quan điểm
của các tác giả, không nhất thiết
là quan điểm của Quỹ Thịnh
Vượng Chung hoặc của giám
đốc, cán bộ và nhân viên của
Quỹ.



DOUGLAS McCARTHY, KIMBERLY MUELLER, và JENNIFER
WRENN
ISSUES RESEARCH, Inc.

Tổng quan
Vào tháng 8 năm 2008, Ủy Ban Quỹ Thịnh Vượng Chung cho Hệ
thống Chăm Sóc Sức Khỏe Năng Suất Cao đã phát hành một bản báo
cáo, với tựa đề Tổ chức Hệ thống Chăm Sóc Sức Khỏe Hoa Kỳ nhằm
đạt Năng Suất cao, bài báo cáo xem xét các vấn đề gây ra bởi sự rời
rạc trong hệ thống chăm sóc sức khỏe và đưa ra những khuyến nghị để
thúc đẩy cách tổ chức nhằm đạt hiệu quả cao. Khi đề ra các khuyến
nghị của mình, Ủy Ban đã nêu ra sáu thuộc tính của một hệ thống

cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe lý tưởng ( Phụ mục 1).
Mayo Clinic là một trong 15 địa điểm tiến hành nghiên cứu tình
huống được Ủy Ban khảo sát chọn lựa để điều tra 6 thuộc tính này ở
các bối cảnh tổ chức khác nhau. Phụ mục 2 tóm tắt các kết quả khảo
sát ở Mayo Clinic và một tổ chức điển hình trong Mayo Health
System, hệ thống vùng trực thuộc Mayo Clinic.
Thông tin được thu thập từ các cuộc phỏng vấn với các lãnh đạo trong
hệ thống chăm sóc sức khỏe và từ việc xem xét các tài liệu hỗ trợ. Các
điểm nghiên cứu đều hiển thị 6 thuộc tính nhưng theo những cách
khác nhau và ở các mức độ đa dạng. Tất cả đều đem đến những ý
tưởng và bài học hữu ích dành cho các tổ chức khác đang trong quá
trình tìm cách nâng cao năng lực để đạt được hiệu quả hoạt động cao
hơn.

Sơ lược lịch sử của bệnh viện
Để biết thêm thông tin về nghiên
cứu này, xin liên hệ:
Douglas McCarthy, M.B.A.
Issues Research, Inc.


Mayo Clinic là bệnh viện tích hợp đa khoa đầu tiên và lớn nhất
trên thế giới hoạt động trên mô hình nhóm. Tiền thân của bệnh
viện là nhóm hành nghề y của William Mayo cùng các con trai của
mình vào thế kỷ 19. Trước thập niên 1920 Mayo đã phát triển các
đặc điểm then chốt tạo nên bản sắc của bệnh viện ngày hôm nay:
một bệnh viện tư, không vì lợi nhuận, với đội ngũ thầy thuốc cơ
hữu và với sứ mệnh “cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất
đến mỗi người mỗi ngày qua việc kết hợp giữa thực hành lâm sàng, giáo dục và nghiên cứu.”
Mô Hình Chăm Sóc Sức Khỏe của Mayo Clinic đã định nghĩa các kỳ vọng chủ chốt đối với việc

khám chữa bệnh lâm sàng tại Mayo Clinic ngày nay.
19


Phụ Mục 1. Sáu thuộc tính của một Hệ Thống Chăm Sóc Sức Khỏe lý tưởng








Thông tin xuyên suốt Tất cả các y bác sĩ đều có thể truy cập các thông tin có liên quan đến tình
trạng sức khỏe của bệnh nhân tại thời điểm bệnh nhân được chữa trị thông qua hệ thống bệnh án
điện tử
Phối hợp và chuyển giao khi chăm sóc bệnh nhân Các nhân viên y tế ở các bộ phận khác nhau
cùng nhau phối hợp trong việc chăm sóc bệnh nhân và việc chuyển viện giữa các cơ sở khám
chữa bệnh được thực hiện một cách chủ động.
Trách nhiệm của bệnh viện Bệnh viện phải có các quy định rõ ràng về trách nhiệm khi chăm
sóc sức khỏe bệnh nhân. (Chúng tôi xếp thuộc tính này chung với thuộc tính Phối hợp chăm sóc
sức khỏe, vì 2 thuộc tính này bổ trợ lẫn nhau)
Bình duyệt và làm việc theo nhóm để đem lại sự chăm sóc giá trị cao Các nhân viên y tế (bao
gồm cả các y tá và nhân viên thuộc các bộ phận chăm sóc sức khỏe khác) trong cùng một cơ sở
hay giữa các cơ sở khác nhau có trách nhiệm với công việc của nhau và phối hợp cùng nhau để
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng cao và giá trị cao.
Không ngừng cải tiến Hệ thống phải không ngừng cải tiến và học hỏi để cải thiện chất lượng,
giá trị và trải nghiệm của bệnh nhân về dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Bệnh nhân dễ dàng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp Bệnh nhân dễ dàng tiếp
cận các dịch vụ thích hợp và thông tin tại bất cứ thời điểm nào trong ngày, bệnh nhân có thể

khám chữa bệnh tại bệnh viện qua nhiều con đường khác nhau, và các y bác sĩ đều có hiểu biết về
các nền văn hóa khác nhau và nhanh nhạy đáp ứng các nhu cầu của mỗi bệnh nhân.

Hàng năm Mayo Clinic phục vụ 520,000 bệnh nhân riêng lẻ (nhiều bệnh nhân đã trải qua nhiều
giai đoạn điều trị) từ khắp nước Mỹ và trên khắp thế giới. Đội ngũ y bác sĩ gần 55,000 người bao
gồm hơn 3,400 bác sĩ lâm sàng và nghiên cứu sinh với đầy đủ các chuyên khoa cung cấp một
cách toàn diện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nội trú và ngoại trú ở 4 bệnh viện thuộc quyền sở
hữu và các cơ sở khám chữa bệnh ngoại trú ở ba trụ sở chính: Rochester, Minn.; Scottdale, Ariz.;
và Jacksonville, Fla. (Phụ mục 4). Tổ chức phi lợi nhuận Mayo Foundation sở hữu các cơ sở
khám chữa bệnh này và các tài sản khác.
Bắt đầu từ năm 1992, Mayo Health System được thành lập như một tổ chức hợp danh trong
Mayo Clinic. Mayo Health System là hệ thống chi nhánh vùng và hệ thống chuyển viện với gần
800 y bác sĩ và 13.000 nhân viên y tế hoạt động song hành với các bác sĩ phục vụ 2,4 triệu bệnh
nhân ở 17 bệnh viện thuộc quyền sở hữu và 2 bệnh viện thuộc quyền quản lý, 8 bệnh xá thuộc
quyền sở hữu và 1 bệnh xá dưới quyền quản lý và nhiều phòng khám ở 70 cộng đồng dân cư ở
Minesotam Iowa và Wisconsin.
Nghiên cứu và học tập, thông qua các chương trình giáo dục chính quy và việc phổ biến kiến
thức liên tục, được xem là hai điều thiết yếu nhằm đem lại sự chăm sóc tốt nhất cho bệnh nhân
tại Mayo Clinic. Sứ mệnh giáo dục chính quy được thực hiện thông qua 5 trường đại học thuộc
chuyên ngành y sinh là Cao học Mayo và Trường Y Mayo, Giáo dục bậc Cao Học Mayo, Khoa
Học Sức Khỏe, và Trường Giáo Dục Thường Xuyên Y Khoa. Mayo dành phân nửa số tiền trong
quỹ nghiên cứu trị giá 400 triệu đô của mình cho nội bộ, bao gồm các hoạt động nghiên cứu cơ
bản, lâm sàng và ứng dụng.
Bệnh viện được các bác sĩ lãnh đạo ở mọi cấp quản lý và hoạt động thông qua hội đồng y bác sĩ
với triết lý điều hành quyền lực chia đều. Triết lý này chủ trương các bác sĩ lãnh đạo phối hợp
với các bộ phận quản lý trong cấu trúc theo chiều ngang và dựa trên sự đồng lòng nhất trí. Các
bác sĩ xoay tua đảm đương các nhiệm vụ trong hội đồng và trong các vị trí lãnh đạo để tăng mức
độ tham gia sâu rộng vào đội ngũ quản lý và cải thiện sự phát triển của đội ngũ nhân viên. Hội
Đồng Quản Trị chủ yếu bao gồm các bác sĩ lãnh đạo điều hành bệnh viện dưới sự giám sát của
Ban Quản Trị Mayo.

20


Phụ mục 2.Tóm tắt các kết quả của bài nghiên cứu
Sơ lược: Mayo Clinic là bệnh viện tích hợp đa khoa đầu tiên và lớn nhất trên thế giới hoạt động
trên mô hình nhóm, với hơn 3.400 bác sĩ lâm sàng và nhà khoa học phục vụ 520.000 bệnh nhân
ở 4 bệnh viện thuộc quyền sở hữu và các bệnh viện khác thuộc quyền quản lý của Mayo và các
cơ sở khám chữa bệnh ngoại trú tại 3 trụ sở chính (Rochester, Minn.; Scottdale, Ariz.; và
Jacksonville, Fla.) và 5 trường giảng dạy y sinh. Hệ thống chăm sóc sức khỏe Mayo là một mạng
lưới trực thuộc gồm 17 bệnh viện và phòng khám dưới quyền sở hữu với gần 800 bác sĩ phục vụ
2.4 triệu bệnh nhân trong 70 cộng đồng dân cư ở Minesota, Wisconsin, and Iowa.
Thuộc tính
Các ví dụ từ Mayo Clinic và Mayo Health System
Thông
tin Tất cả các bác sĩ đều có thể truy cập vào hệ thống bệnh án điện tử EHR tại
mọi cơ sở của Mayo Clinic, với các đường link giữa các cơ sở dưới dạng
xuyên suốt
Web. Sử dụng cổng thông tin EHR cho các bác sĩ làm thủ tục chuyển viện để
đăng tải các thông tin của ngườ bệnh và nhận kết quả từ các buổi khám bệnh
của bệnh nhân.
Hệ thống nhắn tin bao phủ toàn bệnh viện dành cho việc tham vấn nhanh
Các dụng cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định đang được cải thiện và cổng thông
tin điện tử dành riêng cho bệnh nhân đang trong quá trình phát triển.
Phối hợp và Mỗi người bệnh tại Mayo Clinic đều được chỉ định với một bác sĩ với nhiệm
chuyển
giao vụ điều phối viên, bác sĩ này sẽ đảm bảo việc lên kế hoạch điều trị thích hợp
khi chăm sóc cho bệnh nhân, lên lịch các dịch vụ đi kèm và các buổi tư vấn kịp thời nhanh
chóng, và đảm bảo bệnh nhân được truyền tải các thông tin một cách rõ ràng
bệnh nhân;
suốt và cuối mỗi buổi khám bệnh. Các thí nghiệm đang được tiến hành để tổ

chức lại các buổi khám bệnh ngoại trú nhằm tăng thời gian thăm khám cho
người bệnh bằng việc sử dụng các thực tập sinh ở tuyến giữa, sử dụng các
phương tiện liên lạc điện tử, kiểm soát để khuyến khích bệnh nhân tham gia
vào việc tự chăm sóc sức khỏe bản thân giữa những lần khám bệnh.
Trách nhiệm Lucifer Midelfort làm việc tại Mayo Health System khởi xướng phong trào
quản lý sức khỏe trong cộng đồng dân cư dành cho người bệnh tiểu đường.
của bệnh viện
Chương trình này mở rộng mô hình khám bệnh truyền thống …đến những
bệnh nhân không thể thường xuyên khám bệnh, lên kế hoạch trước mỗi buổi
thăm khám để tìm ra các nhu cầu của người bệnh, sắp xếp lịch thực hiện các
xét nghiệm và giáo dục bệnh nhân và theo dõi bệnh nhân sau buổi thăm khám
để đảm bảo bệnh nhân tuân thủ đúng phương pháp điều trị giữa những lần
khám bệnh.
Bình duyệt và Hội Đồng Thực Hành Lâm Sàng chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng chăm
làm việc theo sóc sức khỏe tại mỗi cơ sở Mayo Clinic, bao gồm cả việc phổ biến các phác
nhóm để đem đồ điều trị được phát triển bởi các chuyên gia. Hội Đồng Tư Vấn Thực Hành
lại sự chăm sóc Lâm Sàng toàn Hệ Thống thống nhất các phác đồ giữa các cơ sở và chịu trách
nhiệm trước Hội Đồng Quản Trị về chất lượng chung của toàn hệ thống.
giá trị cao
Hệ thống bệnh án EHR là hệ thống mở dành cho tất cả bác sĩ làm việc tại
Mayo và luôn sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến phê bình nhận xét và cộng tác từ
các bộ phận chăm sóc sức khỏe khác. Chất lượng được báo cáo trong nội bộ
bệnh viện và ngoài nội bộ để thúc đẩy sự cải tiến.
Không ngừng Mayo đang tìm cách tạo ra “tương lai chăm sóc bệnh nhân” thông qua việc
liên tục áp dụng các nguyên tắc kiến thiết hệ thống và cải tiến quy trình để cải
cải tiến
thiện các hệ thống và quy trình giúp đem lại dịch vụ chăm sóc năng suất cao
và hiệu quả.
21



Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng tạo ra một hệ thống tân tiến nhằm đem kết
quả các nghiên cứu khoa học ứng dụng vào việc thực hành y khoa hàng ngày.
Ngoài các buổi grand round, chương trình học trực tuyến, và tờ tạp chí nội bộ
hiện có, một hệ thống học tập điện tử đang được xây dựng để phố biến các
kiến thức y khoa trong toàn hệ thống.
Bệnh nhân dễ Hệ thống xếp lịch hẹn bệnh nhân sử dụng các phương pháp xử lý dữ liệu để
dàng tiếp cận đưa các bệnh nhân mới đến với các bác sĩ và sắp xếp lịch khám bệnh cho
các dịch vụ bệnh nhân tại Mayo Clinic; hệ thống sẽ xem xét thời gian rảnh của bệnh nhân,
chăm sóc sức từng thời gian cụ thể và sắp xếp theo trình tự yêu cầu của các buổi tư vấn tại
khỏe thích hợp phòng khám, và thời gian di chuyển giữa những lần hẹn khám.
Một vài cơ sở chăm sóc ban đầu có khả năng xếp lịch hẹn trong ngày hay qua
ngày hôm sau.
Các bệnh viện tim mạch sử dụng phương pháp “Lean” để giảm thời gian chờ
đợi của bệnh nhân và giảm các buổi hẹn khám bị nhỡ và tăng thời gian giá trị
gia tăng giữa bác sĩ và bệnh nhân.
*Trách nhiệm của bệnh viện được xếp chung nhóm với thuộc tính Phối hợp và chuyển giao khi
chăm sóc bệnh nhân, vì 2 thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết.

Thông Tin Xuyên Suốt
Ý tưởng về một loại bệnh án có thể theo dõi một bệnh nhân qua những lần khám bệnh với các
bác sĩ khác nhau đầu tiên được ấp ủ bởi bác sĩ Henry Plummer làm việc ở Mayo Clinic vào năm
1907. Ngày nay, hệ thống bệnh án điện tử Mayo (EHR) chứa đến 6,2 triệu bệnh án của các bệnh
nhân Mayo được điều trị từ năm 1907. Hệ thống cung cấp hồ sơ về triệu chứng bệnh, chuẩn
đoán, kết quả xét nghiệm, kế hoạc điều trị, các quy trình, và các hình ảnh được lưu trữ của các
bệnh nhân nội trú và ngoại trú. Hệ thống EHR nhắc nhở các bác sĩ thực hiện các xét nghiệm định
kỳ và cảnh báo các bác sĩ về những nguy cơ có thể xảy ra, là tài liệu giáo dục và nhắc nhở các
bệnh nhân, và còn được dùng để làm tư liệu nghiên cứu.






Các trạm EHR được đặt ở mỗi văn phòng, khu vực làm việc và phòng thí nghiệm. Các biểu đồ
điện tử thường xuyên được chia sẻ với các bệnh nhân tại thời điểm bệnh nhân được chăm sóc sức
khỏe và được sử dụng trong các buổi tham vấn trực tuyến với các bác sĩ và các nhân viên y tế
khác.
CarePages, dịch vụ Web miễn phí dành cho tất cả bệnh nhân khi khám chữa bệnh tại Mayo, giúp
các bệnh nhân giữ liên lạc với gia đình và bạn bè ở bất cứ địa điểm nào có nối mạng Internet.
Một cổng thông tin điện tử dành riêng cho bệnh nhân đang được phát triển.
Mayo đang nỗ lực để thống nhất 6 hệ thống EHR đang sử dụng ở các địa điểm khám chữa bệnh
khác nhau thành một. Trong lúc đó, các bác sĩ sử dụng cổng thông tin mạng để xem bệnh án từ
các cơ sở khác khi bệnh nhân được chữa trị tại nhiều địa điểm khác nhau.

Cổng thông tin EHR dành cho các bác sĩ làm thủ tục chuyển viện cho phép các bác sĩ tại địa
phương của bệnh nhân đăng tải bệnh lịch có liên quan và kết quả các xét nghiệm như vậy các
bác sĩ điều trị cho bệnh nhân tại Mayo có thể truy cập được các thông tin này, tránh được việc
lặp lại cùng một xét nghiệm. Vào cuối buổi khám bệnh, cổng thông tin sẽ chuyển tải kết quả của
buổi khám và tư vấn đến các bác sĩ địa phương, đảm bảo tính liên tục trong việc chăm sóc sức
khỏe người bệnh.
Cổng thông tin trực tuyến dành cho Khoa Cấp Cứu tổng hợp thông tin từ nhiều hệ thống khác
nhau (như đơn đăng ký khám bệnh của bệnh nhân, phòng xét nghiệm, nhà thuốc) trên một “bảng
22


điều khiển” mạch lạc giúp các bác sĩ nắm rõ tình hình và kiểm soát tốt bệnh nhân. Cổng thông
tin (tên gọi là YES) hiển thị lời than phiền của các bệnh nhân, thông tin cá nhân của người bệnh,
các dấu hiệu sinh tồn, thời gian chờ đợi của bệnh nhân, tình trạng của các xe cứu thương đang
chạy đến bệnh viện và bệnh nhân đang được chuyên chở trên chiếc xe đó, cùng các thông tin
quan trọng khác.

Các bác sĩ bệnh viện Mayo có thể sử dụng hệ thống nhắn tin độc đáo, được thiết kế bởi AT&T
Labs dành riêng cho Mayo Clinic, trong các trường hợp cần tham vấn nhanh. Nhạc chuông nhắn
tin đặc trưng của từng bác sĩ cho phép một bác sĩ kết nối trong tích tắc với một đồng nghiệp để
hỏi về một vấn đề, mà không cần phải xếp lịch hẹn. Phó giám đốc Mayo Clinic Thạc sĩ Y khoa
Nina Schwenk chia sẻ: “Nếu tôi đang điều trị một bệnh nhân với các triệu chứng về tiết niệu và
tôi thắc mắc nên thực hiện loại xét nghiệm tiết niệu nào, tôi có thể nhắn tin cho một bác sĩ
chuyên khoa tiết niệu bằng cách nhấn 5 con số. Máy nhắn tin của họ sẽ rung lên, họ có thể đến
bất kỳ máy điện thoại nào trong khuôn viên bệnh viện, quay số nhắn tin của họ và ngay lập tức
chúng tôi được kết nối với nhau. Tôi sẽ nói, “Tôi đang tiếp một bệnh nhân 55 tuổi với các triệu
chứng thế này; anh khuyên tôi nên làm gì là tốt nhất?” Tôi không cần phải để lại lời nhắn; không
còn tình trạng các cuộc gọi nhỡ chồng chéo giữa hai đầu dây. Đây là hình thức liên lạc nhanh
chóng, trực tiếp giữa người với người.
Phụ mục 3. Mô Hình Chăm Sóc của Mayo Clinic
Chăm sóc bệnh nhân








Môi trường làm việc theo nhóm thân thiện, hòa đồng, mang tính hợp tác với sự kết hợp đa khoa
đích thực
Thăm khám từ tốn cẩn thận, dành thời gian lắng nghe bệnh nhân
Bác sĩ chịu trách nhiệm các nhân khi chỉ đạo việc chữa trị cho bệnh nhân phối hợp cùng với bác
sĩ tại địa phương của người bệnh
Dịch vụ chăm sóc bệnh nhân có chất lượng tốt nhất đi đôi với lòng trắc ẩn và tin tưởng
Tôn trọng bệnh nhân, gia đình và bác sĩ tại địa phương bệnh nhân
Khảo sát toàn diện với những lần đánh giá và khắc phục yếu kém kịp thời, hiệu quả

Sở hữu các phương pháp chuẩn đoán, các kỹ thuật và công nghệ trị liệu tối tân và tiến bộ nhất

Môi trường


Đội ngũ y bác sĩ chất lượng cao được đào tạo trong nền văn hóa của Mayo và trân trọng vì những
đóng góp của đội ngũ này
 Đội ngũ các nhân viên y tế chuyên nghiệp hoạt động song hành với các bác sĩ có đạo đức nghề
nghiệp cao, giỏi chuyên môn, và có tâm huyết cống hiến cho Mayo
 Môi trường nghiên cứu và giáo dục mang tính học thuật
 Được các bác sĩ lãnh đạo
 Bệnh án tích hợp với các dịch vụ hỗ trợ chung cho các bệnh nhân nội trú và ngoại trú
 Chế độ lương bổng hậu đãi chuyên nghiệp nhấn mạnh chất lượng chứ không phải số lượng
 Chuyên nghiệp trong trang phục, tác phong và thiết bị y khoa
Nguồn: Mayo Clinic

23


Phụ mục 4: Địa điểm của Mayo Clinic và các chi nhánh

PHỐI HỢP VÀ CHUYỂN GIAO KHI CHĂM SÓC BỆNH NHÂN:
HƯỚNG ĐẾN VIỆC CHĂM SÓC TOÀN DIỆN ĐÁNG TIN CẬY HƠN
CHO BỆNH NHÂN
Phối hợp chăm sóc theo nhóm. Mayo Clinic chuyên chẩn đoán và điều trị các căn bệnh phức
tạp. Tại đây, các bác sĩ ở tất cả các chuyên khoa hợp tác làm việc để đáp ứng tốt nhu cầu của
từng bệnh nhận, thường trong mỗi đợt khám đều có nhiều bác sĩ tham gia. “Chúng tôi cố gắng
mang đến điều tốt nhất của toàn hệ thống chữa trị đến từng bệnh nhân, dù họ đang được chữa trị
ở khoa nào,” Dawn Milliner, bác sĩ chuyên khoa, trưởng bộ phận tư vấn thực nghiệm y học của
Mayo.

Mỗi bệnh nhân tại Mayo được ấn định với một y sĩ, vị y sĩ này có nhiệm vụ đảm bảo bệnh nhân
có được quy trình chữa trị hợp lý, các dịch vụ và buổi tư vấn đi kèm phải được sắp xếp đúng
thời gian theo nhu cầu của bệnh nhân, và đảm bảo bệnh nhân được thông tin rõ ràng trong suốt
và sau mỗi lần khám bệnh. Các y sĩ phối hợp này thường được giữ nguyên vị trí trong suốt quá
trình chữa trị và chăm sóc khác nhau, nhưng nếu có một quy trình chuyển vùng điều trị chính
thức thì một y sĩ khác đúng chuyên môn sẽ được phân công đến để đảm bảo nhu cầu trị liệu của
bệnh nhân.
Một thử nghiệm hiện tại là xem xét các cách tái tổ chức thăm khám bệnh nhân ngoại trú để tăng
hiệu quả và lượng thời gian bác sĩ đến với bệnh nhân, ví dụ như sử dụng y sĩ trung cấp, liên lạc
qua trang web, và quản lý bệnh mãn tính để khuyến khích bệnh nhân tự chăm sóc tốt hơn giữa
các kỳ khám.
Quản lý chăm sóc sức khỏe mãn tính dựa trên số lượng bệnh nhân
Hệ thống Chăm sóc Sức khỏe Mayo sử dụng Dự án Chuyển đổi Bệnh tiểu đường cuối thập niên
24


1990. Dự án này, có kết luận rằng một mô hình chăm sóc có kế hoạch (bao gồm đầy đủ hướng
dẫn quy trình, hỗ trợ bệnh nhân tự chăm sóc, và sử dụng hệ thống thông tin tại viện), đã dẫn đến
sự tiến bộ trong chăm sóc bệnh nhân tiểu đường và kết quả trao đổi chất.
Gần đây hơn, Luther Midelfort—một nhánh của Hệ thống chăm sóc Sức khỏe Mayo hoạt động
tại vùng Trung Tây Wisconsin—đã khởi động một phương án quản lý chăm sóc sức khỏe mới để
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người bệnh tiểu đường. Nỗ lực này dựa trên những cố gắng trước
đây của nơi này nhằm phát triển một mô hình chăm sóc có kế hoạch theo nhóm đối với bệnh
nhân mãn tính, dùng Mô hình Chăm sóc Mãi tính của Wagner làm nền lý thuyết. Hướng tiếp cận
này mở rộng mô hình thăm khám bệnh nhân truyền thống, kết hợp những yếu tố như:
• Liên lạc với những bệnh nhân không đến khám thường xuyên qua điện thoại
• Lên kế hoạch trước khi thăm khám để nhận ra nhu cầu của bệnh nhân cũng như lên lịch
vào phòng thí nghiệm
• Hướng dẫn bệnh nhận để khuyến khích sự hợp tác chữa trị của bệnh nhân giữa các lần
thăm khám của bác sĩ

Ngoài thực tế, yếu tố then chốt của kế hoạch này là làm việc nhóm, tăng vai trò của y tá tập sự người chịu trách nhiệm liên lạc bệnh nhân ngoại trú và lên kế hoạch trước đợt thăm khám, và
tiếp tân – người đóng vai trò điều phối việc đăng ký bệnh nhân tiểu đường. Một hội đồng chăm
sóc ban đầu—gồm trưởng khoa nội, bác sĩ gia đình, nhi, và cấp cứu—nhận diện và chia sẻ
nhhững mô hình cũng như phương pháp để đảm bảo bệnh nhân ở khu vực nào cũng được chữa
trị như nhau. Một đội ngũ chuyên gia do một bác sĩ chuyên khoa nội tiết dẫn đầu sẽ tận dụng
chuyên môn của các y sĩ chăm sóc ban đầu, y tá, và những nhà tập huấn bệnh tiểu đường; tất cả
làm việc với nhau để phát triển và chia sẻ các công cụ nâng cao kiến thức phổ thông cho bệnh
nhân.
Hệ ghống EHR của Luther Midelfort cho phép chia sẻ thông tin khi bệnh nhân chuyển vùng
chăm sóc. Viện dùng một chương trình đăng ký bên thứ ba để theo dõi bệnh nhân đến kỳ thăm
khám hoặc kiểm tra hoặc những bệnh nhân chưa đạt được mục tiêu kiểm soát bệnh một cách có
hệ thống. Bệnh nhân nhận được một tấm thẻ tham khảo có ghi năm mục tiêu (Phụ mục 5), người
bệnh có thể dán thẻ này lên cửa tủ lạnh để nhắc mình về tầm quan trọng của việc giữ đúng liệu
trình chữa trị. Tấm thẻ còn là danh sách để bác sĩ theo dõi khi hướng dẫn bệnh nhân và cũng là
dụng cụ nhắc nhở khi có thay đổi trong thuốc điều trị hay các thông số khác.
Phụ mục 5. Năm mục tiêu trong điều trị bệnh tiểu đường
Lượng Hemoglobin A1c < 7%
Dùng Aspirin hàng ngày
Ngưng hút thuốc
Huyết áp < 130/80
Lượng Cholesterol < 100

Luther Midelfort dùng phương pháp “tất cả hoặc không gì cả” (phải đạt cả năm mục tiêu mới
25


×