Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

ngôi chùa trong đời sống văn hóa người khmer ở sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.02 KB, 45 trang )

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia có nhiều cộng đồng dân cư sinh sống, bên cạnh
đó là những phong tục tập quán khác nhau góp phần làm phong phú bản sắc văn
hóa Việt Nam. Trong cuộc sống thường nhật với bao bộn bề lo toan con người
luôn muốn gửi gắm tình cảm, ý niệm của mình vào một đấng siêu nhiên, huyền
bí nào đó để hằng mong được sự thanh thản và những điều may mắn trong cuộc
sống.
Cũng như vùng Bắc Bộ, Nam Bộ mà cụ thể là vùng Tây Nam Bộ với sự
đánh dấu mốc hình thành và phát triển mặc dù còn non trẻ nhưng nền tảng văn
hóa đã có từ lâu. Ở đây với sự hòa nhập về văn hóa, thiên nhiên đã tạo nên một
chủ thể tộc người bản địa từ xa xưa, đã định cư lâu dài ở đây đó chính là tộc
người Khmer. Người Khmer là một cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Việt
Nam, họ có một nền văn hóa rất phong phú từ xưa đến nay vẫn được bảo lưu và
tồn tại
Như cộng đồng người Việt sống thành làng tập trung quây quần với nhau
trong xóm làng, mỗi làng như vậy đều có một miếu mạo đình chùa, một nơi để
thờ thần, thờ Phật. Đồng bào Khmer họ cũng sống tập trung trong phum sóc và
mỗi điểm đó là một ngôi chùa ở giữa trung tâm các Sóc để tiện cho người dân ra
chùa sinh hoạt văn hóa tôn giáo.
Người dân Khmer luôn gắn bó với ngôi chùa, chùa của người Khmer
không những là một công trình nghệ thuật kiến trúc mà còn là trung tâm văn hóa
của cả phum sóc. Ngôi chùa không chỉ đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của nhân dân,
còn đóng vai trò chủ đạo chi phối cuộc sống của người dân Khmer. Hầu như các
lễ hội lớn , lễ tết đều diễn ra ở chùa, lễ tết mang tính dân gian hay mang màu sắc
của Phật giáo đều được cử hành tại chùa, mà lễ hội của người Khmer lại rất nhiều
không kém gì người Kinh cho nên chúng tôi chỉ giới thiệu một số lễ hội chính có
liên quan trực tiếp tới cộng đồng cư dân nơi đây. Không chỉ có vậy, nghi lễ chu
kỳ vòng đời của người Khmer đều có liên quan trực tiếp tới ngôi chùa.

1




Qua việc đi khảo sát thực tế cho thấy những ngôi chùa của người Khmer
đều mang dáng dấp, xây dựng theo lối Khmer cổ, Ăngkor hùng vỹ của
Campuchia, một số còn giống với chùa Tháp ở Thái Lan. Ngôi chùa là sự tổng
hòa một khối kiến trúc, tạo thành một tam giác cân, nổi trội lên là ngôi chính điện
nguy nga chót vót.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long tổng thể có khoảng hơn 500 ngôi chùa
lớn nhỏ khác nhau, riêng ở Sóc Trăng đã có tới hơn 90 ngôi chùa, trong đó có
nhiều ngôi chùa có lịch sử hàng trăm năm tuổi như: Chùa Dơi, chùa Khleang,
chùa Trà Tim… ở thành phố Sóc Trăng. Trong đó ngôi chùa được xây dựng sớm
nhất đó là chùa Khleang, từ khi xây chùa tới nay đã được khoảng 500 năm tuổi,
ban đầu chùa Khleang cũng như các ngôi chùa khác đều đươc xây dựng bằng gỗ,
lợp lá dừa nước, theo kiểu nhà sàn, ngôi chính điện ở chùa Khleang hiện nay
được xây dựng lại cách đây đã 80 năm. Vì thế nó có vai trò rất quan trọng trong
đời sống người dân nơi đây. Sóc Trăng là một trong những nơi có cư dân Khmer
sinh sống lâu đời nhất của vùng Tây Nam Bộ. Vì thế ở đây phần nào còn lưu giữ
những đặc trưng nguyên thủy của người Khmer cổ mà ngôi chùa chính là nơi thể
hiện những đặc trưng đó.
Tóm lại ngôi chùa là một trung tâm văn hóa, là nơi diễn ra mọi sinh hoạt
tín ngưỡng của cộng đồng người Khmer. Vì để muốn tìm hiểu thêm lý do ngôi
chùa lại có ảnh hưởng lớn tới đời sống của đồng bào như vậy, mặt khác chúng tôi
muốn tìm hiểu đôi nét về đời sống văn hóa của cư dân nơi đây, cho nên Tôi đã
chọn đề tài: “Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người Khmer ở tỉnh Sóc
Trăng” để làm khóa luận tốt nghiệp này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ Trước đến nay cũng đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, trong các tác
phẩm nghiên cứu của mình đã đi sâu nghiên cứu đời sống văn hóa của đồng bào
Khmer và đã được xuất bản thành sách như:
Trường Lưu, Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb

Văn hóa dân tộc, 1993.
Trần Văn Bính, Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ Thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002.
2


Lê Đắc Thắng, Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Tổng
hợp Hậu Giang, 1988.
Trần Văn Bổn, Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng sông Cửu
Long, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999.
Trần Hồng Liên, Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Sóc TRăng, Nxb Khoa học
xã hội, 2002.
Song đây chỉ là những công trình nghiên cứu một cách tổng quan về văn
hóa người Khmer vùng Tây Nam Bộ, mà chưa có một cuốn sách chuyên biệt nào
đào sâu nghiên cứu giải thích về sự ảnh hưởng của ngôi chùa trong đời sống văn
hóa người Khmer, đặc biệt là người Khmer ở Sóc Trăng. Vì thế có thể đây là
công trình đầu tiên đề cập đến vấn đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay ngôi chùa của người Khmer ở Sóc Trăng có tới hơn 90 ngôi
chùa, mà thời gian nghiên cứu và khả năng nghiên cứu thì có hạn. Cho nên chúng
tôi đã chọn đối tượng nghiên cứu chính cho khóa luận là di tích chùa Khleang ở
thành phố Sóc Trăng và đời sống bà con nơi đây. Ngoài ra chúng tôi còn nghiên
cứu một số ngôi chùa Khmer khác ở chung quanh thành phố Sóc Trăng để thấy
được sự tương đồng về kiến trúc chung về chùa Khmer ở Sóc Trăng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đề tài được hoàn thành chính xác cụ thể và khách quan, chúng tôi đã
tiến hành đi điền dã tại địa bàn nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi
đã dùng phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát miêu tả, so sánh tổng hợp.
Bên cạnh đó chúng tôi còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên nghành
(Sử học, dân tộc học) và chúng tôi còn kết hợp thông tin điền dã với những con

số cụ thể mà cơ quan có liên quan trực tiếp cung cấp, tham khảo một số tài liệu
liên quan đi trước để làm tài liệu minh chứng cho cuộc phỏng vấn và quan sát có
được.
5. Đóng góp của khóa luận
Qua việc nghiên cứu khóa luận chúng tôi mong muốn khóa luận của mình
có thể đóng góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu về ngôi chùa Khmer nói
chung và đời sống văn hóa của người Khmer nói riêng.
3


Khóa luận cũng có thể làm tài liệu phục vụ độc giả và tài liệu tham khảo
cho các công trình sau này.
Khóa luận cũng giúp cho các cấp chính quyền cơ sở thấy được những hiện
trạng đã mất và những cái còn tồn tại, những tư tưởng mới, cuộc sống mới ảnh
hưởng đến ngôi chùa và cuộc sống của đồng bào. Để từ đó chính quyền các cấp
có thể đưa ra những kế hoạch phát triển và xây dựng đời sống cho đồng bào được
tốt hơn.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo khoá kuận có ba chương:
chương1 Tổng quan về tỉnh Sóc Trăng, chương 2 lịch sử kiến trúc và trang trí
chùa, chương 3 chùa Kleang và đời sống văn hoá người Khmer ở Sóc Trăng.
Ngoài ra khoá luận còn có thêm phần phụ lục để minh chứng cho việc đi quan sát
thực tế.

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỂ TỈNH SÓC TRĂNG
Sóc trăng là một tỉnh thuộc vùng châu thổ vùng đồng bằng sông Cửu Long, cung
cấp sản lượng lương thực quan trọng của cả nước, nơi có sản phẩm xuất khẩu rồi

rào và đa dạng, đặc biệt là gạo và hàng thủy sản, nông sản, thực phẩm chế biến.
Đây là vùng có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế sản xuất, đồng thời cũng là nơi
tiêu thụ hàng hóa và cung cấp dịch vụ lớn cho khu vực và cả nước.
1.1. Vị trí địa lý
Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí Minh
231km, cách Cần Thơ 62km. Diện tích tự nhiên 3301,03km2 chiếm 8,3% diện
tích của khu vực đồng bằng Sông Cửu Long.
Sóc Trăng có địa giới hành chính tiếp giáp ba tỉnh trong vùng đồng bằng
Sông Cửu Long. Ở phía Bắc và tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía Tây Nam giáp
Bạc Liêu, ở phía Đông Bắc giáp Trà Vinh và phía Đông và Đông Nam giáp biển
đông.
Sóc Trăng nằm trên tuyến quốc lộ 1A nối liền các tỉnh Cần Thơ , Hậu
Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh Trà Vinh, Bến
Tre và Tiền Giang. Tỉnh còn có đường bờ biển dài 72km.
1.2. Đơn vị hành chính, dân số
Sóc Trăng gồm 10 huyện và một thành phố với 101 xã, phường, thị trấn.
Thành phố Sóc Trăng là trung tâm hành chính của tỉnh.
Theo thống kê ngày 01 tháng 04 năm 2009 toàn tỉnh hiện có 1289441
người. Tổng số nam là 64422 người, nữ 648019 người. Ở Sóc Trăng ngoài người
Kinh chiếm tỉ lệ khoảng 65,28% dân số còn có nhiều dân tộc khác cùng sinh
sống. Trong đó người Khmer chiếm 28,9%, người Hoa chiếm 5,9% thêm vào đó
còn người Nùng, người Thái, Chăm…nên đời sống và sinh hoạt văn hóa của
người dân Sóc Trăng rất phong phú. Với số lượng cư dân người Khmer đông thứ
2 sau người Kinh như vậy đây là một vùng đất có nhiều ảnh hưởng từ văn hóa
Khmer tới các dân tộc khác.

5


1.3. Nguồn gốc tên gọi Sóc Trăng

Sóc Trăng một cái tên mang đậm chất Khmer. “Theo một tài liệu ghi chép
từ thi tịch cổ Khmer thì vào giữa đầu thế kỷ XVI, viên cai quản vùng Sóc Trăng
tên là ông Tác đã cho xây dựng một nhà kho để tích trữ sản vật do nhân dân
khuyên góp. Từ đó ông đặt tên cho vùng đất mình cai quản là Srock Khleang
(tiếng Khmer có nghĩa là xứ có kho). Khi người Kinh đến gọi âm ra là Sóc Kha
lang rồi sau là Sóc Trăng”1. Dưới triều Ming Mạng, Sóc Trăng được đổi tên
thành Nguyệt Giang tỉnh (chữ Sóc biến thành chữ Sông, Trăng thành Nguyệt)
nên Sóc Trăng biến thành Sông Trăng rồi được đổi thành Nguyệt Giang. Và cho
tới ngày nay tên gọi Sóc Trăng tồn tại và phát triển song hành với các tỉnh khác
trong vùng Tây Nam Bộ.
1.4. Khái quát về người Khmer ở Sóc Trăng và Tây Nam Bộ
Người Khmer ở Việt Nam là một cộng đồng dân cư sinh sống lâu đời ở
Sóc Trăng nói riêng và Tây Nam Bộ nói chung, từ lâu họ đã trở thành một bộ
phận của cộng đồng cư dân Việt Nam.
Người Khmer thuộc ngữ hệ Môn- Khmer, sống tập chung nhiều nhất ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long như các tỉnh: An Giang , Trà Vinh, Sóc Trăng,
Cà Mau, Bạc Liêu… ngoài ra họ còn sống ở một số tỉnh thành khác ở Đông Nam
Bộ. Cũng như bao cộng đồng cư dân khác, người Khmer có truyền thống văn hóa
lâu đời, mang bản sắc riêng biệt họ cũng có chữ viết và tiếng nói riêng. Người
Khmer ở Tây Nam Bộ là cư dân nông nghiệp cho nên họ cũng biết trồng lúa
nước và trồng nhiều loại hoa màu khác.
“ Cái tên “Khmer” bắt nguồn từ tiếng Pali- sanskrit gọi là “khemara” có
nghĩa là bình an và hạnh phúc. Họ còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Người
Miên, người Khmer Krôm (người Khmer vùng dưới), người Cao Man”2
Người Khmer ở Tây Nam Bộ là một tộc người bản xứ, họ có mặt trên
vùng đất này từ rất xa xưa. Theo nhiều nguồn tư liệu của lịch sử thì họ vốn là chủ
nhân của một nền văn hóa Phù Nam, văn hóa Óc Eo rực rỡ, tồn tại từ khoảng thế
kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Và họ có chung nguồn gốc tộc
người với người Khmer ở Campuchia, nhưng vì lý do nào đó họ đã trở thành hai
tộc người của hai quốc gia khác nhau. Theo Trường Lưu, văn hóa người Khmer

1

Nguyễn Minh Tâm, Hồ sơ di tích chùa Khleang, 1990, Tr 1.
Phú Văn Hẳn, Hôn nhân của tộc người Khmer vùng đồng bằng song Cửu Long, Tài liệu chưa công bố,
Tr8.
2

6


vùng đồng bằng Sông Cửu Long thì “người Khmer ở đồng băng sông Cửu Long
vốn là tộc người Văh Năh (Phù Nam) mà cuối thế kỷ thứ VI trở đi đã bị tộc
người Chen la (Campuchia hoặc Chân Lạp) thống trị và đồng hóa dần dần trong
suốt 12 thế kỷ từ thế kỷ thứ VII đến Thế kỷ XVIII”. Và giờ đây họ đã trở thành
một bộ phận cư dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Người Khmer sinh sống hầu như trong tất cả các tỉnh ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long mà trong đó Sóc Trăng là một nơi có đồng bào Khmer sinh sống
đông trong cả vùng. Hiện nay theo số liệu thống kê ngày 01/4/2009 toàn tỉnh Sóc
Trăng có 1289441 người thì tỷ lệ người Khmer chiếm 28,9% đứng thứ hai sau
người Kinh. Như thế cho thấy rằng người Khmer ở Sóc Trăng có sự ảnh hưởng,
lan tỏa văn hóa cũng rất lớn.
Hiện nay người Khmer ở Sóc Trăng sống tập chung trên các giồng đất cao
họ gọi là Phno, sống trong phum (phum tương đương với thôn xóm của người
Kinh) đơn vị cao hơn phum là srock đọc theo âm tiếng Việt là sóc, sóc tương
đương với xã của người Việt. Hiện nay mỗi phum của người Khmer có vài trăm
nóc nhà và qua quá trình cộng cư họ đã sống xen kẽ với người Việt, người Hoa
trong cùng một phum srock.
Người Khmer ở Sóc Trăng là cư dân bản địa lâu đời, là cư dân nông
nghiệp cho nên họ cũng trồng lúa nước, hệ thống thủy lợi kênh rạch khá phát
triển. Bên cạnh nông nghiệp người Khmer ở Sóc Trăng còn rất khéo léo trong

nghề thủ công đan lát, sản phẩm đan lát chủ yếu là đồ dùng trong gia đình, đặc
biệt sản phẩm thủ công là tấm “xà rông”.
Hiện nay người Khmer ở Sóc Trăng nói riêng đồng bằng Sông Cửu Long
nói chung đều theo chế độ phụ hệ, nhưng tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn còn
trong đời sống văn hóa của người Khmer. Đồng bào Khmer chủ yếu là theo đạo
Phật dòng Tiểu thừa chỉ thờ Phật Tích Ca, bên cạnh việc thờ đạo người Khmer
còn theo tín ngưỡng dân gian, thờ Neakta và Arak, đây là những vị thần bảo hộ
cho cộng đồng, đồng thời đạo Bà la môn vẫn còn hiện diện trong ý niệm của
người dân.
Tóm lại người Khmer ở Sóc Trăng là một tộc người bản địa từ xa xưa, họ
có truyền thống văn hóa tương đối riêng rẽ, những nét văn hóa rất tiêu biểu của
tộc người góp phần làm phong phú thêm các phong tục tập quán, đậm đà bản sắc
dân tộc Việt Nam.
7


CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ VÀ KIẾN TRÚC CHÙA KHLEANG
2.1. Khái quát về Phật giáo
Đạo Phật là một tôn giáo lớn trên thế giới, ở Việt Nam đạo Phật cũng là
một tôn giáo có số lượng tín đồ rất đông. Quê hương của đạo Phật là Ấn Độ,
người sáng lập ra đạo Phật là Thái Tử Cồ-đàm-tất-đạt-đa (Gautama siddhata),
ngài sinh năm 565 TCN, năm 483 TCN lúc 80 tuổi Phật tịch.
Sau khi Phật viên tịch đã xảy ra nhiều lần kết tập kinh điển để xây dựng ra
một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh. Đến đại hội lần thứ tư dưới triều vua Ca-nhịsắc-ca (Kaniska, 125-150 SCN) có 500 tỳ kheo tham dự. Kết quả lần này đã hoàn
chỉnh “kinh điển” của Phật giáo tồn tại cho đến ngày nay. Cũng từ đây Phật giáo
chính thức được chia làm hai phái lớn Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Tiểu thừa có nguồn gốc từ phái Trưởng lão bộ, Phật giáo Đại thừa có
nguồn gốc từ Phái Đại chúng bộ. Bản thân của Phật giáoTiểu thừa tự nhận là
Phật giáo nguyên thủy (Therevada) vì chủ trương giữ nguyên Kinh- Luật- Luận
như khi mới ra đời3.

Phật giáo Tiểu thừa có mặt ở Đông Nam Á khá sớm ngay từ đầu công
nguyên, Phật giáo Tiểu thừa vào các nước từ Srilanca. “Nhưng phải kể đến sự
kiện lớn có liên quan trực tiếp của Phật giáo Tiểu thừa Srilanca ở Đông Nam Á
là hội nghị kết hợp kinh Phật lần thứ bảy tại Srilanca vào nủa sau thế kỷ XII,
nhờ hội nghị này vào đầu thế kỷ XII Phật giáo Tiểu thừa Srilanca đã lan rộng và
phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ ra khắp vùng Đông Nam Á”4.
Ở Việt Nam ngay từ đầu công nguyên Phật giáo Tiểu thừa đã được truyền
trực tiếp từ Ấn Độ sang, qua đường biển. Trung tâm Phật giáo lúc này là Luy Lâu
(Thuận Thành Bắc Ninh), nhưng sau đó do sự lớn mạnh của Phật giáo Đại thừa
từ Trung Hoa truyền sang đã áp đảo và chiếm địa vị cao nhất vì thế Phật giáo
nguyên thủy bị mất đi. Cùng khoảng thời gian này ở phía Nam nước ta bấy giờ
có một quốc gia mang tên Phù Nam tồn tại từ khoảng thế kỷ I SCN đến thế kỷ
VII SCN, sau bị vương quốc Chen La (Chân lạp) cai trị. Theo nhiều nguồn sử
3

Chúng tôi tham khảo nhiều trong cuốn, Một số tôn giáo lớn ở Việt Nam, Phòng thong tin tư liệu ban tôn
giáo của Chính Phủ, Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ, Hà Nội, 1995, Tr8- Tr30.
4
Mai Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr 146.

8


liệu cư dân nơi đây chủ yếu nói tiếng Môn-Khmer và tiếng Mã Lai. Ngay từ đầu
công nguyên văn hóa Ấn Độ đã theo các thuyền buôn vào đây cho nên họ đã chịu
ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ qua đạo Bàlamôn. Sau đó Phật giáo cũng tới
nơi đây qua quá trình tồn tại và phát triển lâu dần đã chiếm được lòng tin của
người dân, trở thành chỗ dựa tinh thần chủ yếu của người Khmer.Từ đó đã đề ra
những luật định tôn giáo mà mọi người trong cộng đồng đều tôn thủ, đồng thời
thay thế hẳn đạo Balamon.

Theo giáo luật của đạo Phật dòng Tiểu thừa người đi tu phải đi khất thực,
khi đi mang bình bát và đi chân đất. Với hệ thống giáo lý, giáo luật hướng tới con
người là chủ yếu với thuyết nhân quả đã dần dần được người dân bản địa tiếp
nhận và trở thành hệ ý thức xã hội của người dân.
Đạo Phật dòng Tiểu thừa ở Việt Nam chủ yếu phát triển ở các tỉnh miền
Tây Nam Bộ. Sóc Trăng là một tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ cho nên đạo Phật
cũng có mặt ở đây rất sớm. Ngôi chùa thờ Phật đầu tiên theo nguồn tư liệu
Khmer cổ là chùa Khleang, xây dựng 1532. Hiện nay tại chùa Khleang còn lưu
giữ một bản sao tài liệu ghi chép từ thư tịch cổ, trong đó có nói đến nguồn gốc
địa danh Sóc Trăng, sự kiện xây dựng ngôi chùa đầu tiên và các nhân vật có liên
quan trực tiếp.
Như vậy suốt từ khi có ngôi chùa thờ Phật đầu tiên cho đến nay toàn tỉnh
Sóc Trăng có khoảng hơn 90 ngôi chùa thờ Phật theo dòng Tiểu thừa. Đạo Phật
dòng Tiểu thừa đã chở thành tôn giáo chính thống trong người Khmer ở Sóc
Trăng nói riêng và Người Khmer vùng Tây Nam Bộ nói chung.
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Khleang
Chùa Khleang là một ngôi chùa có niên đại lâu đời nhất ở Sóc Trăng.
Theo một tài liệu ghi chép từ thư tịch Khmer cổ vào đầu thế kỷ XVI, viên quan
cai quản vùng đất Sóc Trăng tên là Tác đã cho xây dựng một nhà kho để tích trữ
sản vật của người dân quyên góp. Từ đó ông đặt tên cho vùng đất mình cai quản
là Srock Khleang (tiếng Khmer có nghĩa là xứ có kho), khi người Kinh đến gọi
âm ra là Sóc Kha lang rồi sau là Sóc Trăng. Một lần vua của nước Chân Lạp là
Ang Chan có tổ chức một chuyến đi kinh lý qua các lãnh địa xa xôi của mình ở
vùng hạ lưu sông Hậu. Khi nhà vua dừng lại ngự giá ở Sóc Trăng một thời gian
9


mà không thấy có ngôi chùa thờ Phật nào, ngài bèn ra lệnh cho viên quan cai
quản đất này tên là Tác phải xây dựng cho được một ngôi chùa để làm phước cho
dân chúng và có nơi hành đạo.

Vâng lệnh vua ban, 1532 ông Tác bèn triệu tập các tín đồ và đại diện
người dân trong phum sóc tổ chức một hội nghị trọng thể để truyền đạt lệnh vua
đồng thời kêu gọi mọi người góp công sức xây dựng ngôi chùa mới. Tất cả mọi
người khi nghe tin này đều rất hân hoan và đồng ý góp phần vào việc thiêng
liêng này. Kế đó ông Tác vạch rõ địa hình địa thế của đất Sóc Trăng cho mọi
người được rõ: ở cả ba hướng Đông, Tây, Nam đều là đầm lầy kinh rạch, rừng
hoang có nhiều thú dữ như: Cọp, voi, rắn độc… còn hướng Bắc là nơi đất cao ráo
ruộng đồng bằng phẳng. Ai nấy đều tán thành địa điểm xây chùa ở hướng Bắc.
Kết thúc hội nghị ông Tác mời mọi người theo Ông đi về hướng Bắc đến nơi ông
hỏi ba lần “ Hỡi các vị sư và các ngài đây là nơi có thể xây chùa được không”.
Mọi người đồng thanh hô lên “Rất tốt, đây là nơi rất tốt để chúng ta xây chùa, xin
ngài hãy cho xây dựng một ngôi chùa nơi đây để chúng tôi lưu lại phước đức cho
đời sau”.
Địa điểm xây chùa đã được xác định, ông Tác cho người đo đạc đất đai,
khoanh vùng một khoảng đất hình vuông rộng 4 ha, đóng cọc tám hướng làm
ranh giới. Sau đó chọn ngày tốt để làm lễ Krong Phum (lễ khởi công xây chùa,
Krông Phum có nghĩa là các vị thần và các vị tổ sư nghề nghiệp trong Phum,
Sóc). Khi cuộc lễ kết thúc một lần nữa ông Tác kêu gọi mọi người “Hỡi các anh
em đã đến tham dự với tôi trong dịp này, tôi xin mọi người hãy đem lời kêu gọi
của tôi đi vận động thân quyến và dân trong toàn Sóc, giải thích cho tất cả được
rõ ý nghĩa của việc làm này, hãy vui lòng tin tưởng đức Phật và lòng hảo tâm mà
đến đây đông đảo để xây dựng nhà chùa. Nhưng mọi người cần chú ý việc làm
này không phải do sự cưỡng ép hoặc hăm dọa mà vì tấm lòng thành kính đối với
đức Phật mà tự nguyện đóng góp bằng sức lực hay của cải vật chất tinh thần, tôi
cũng xin mời mọi người hiệp sức xây dựng để lấy phước đức cho lòng được
thanh thản”.
Kế hoạch xây chùa được diễn ra như sau:

10



Ngày khởi công là ngày 15 tháng 12 Phật lịch (năm 1532 Dương
lịch)
Khai phá rừng rậm từ nơi ông Tác ở cho đến địa điểm xây dựng
chùa.
Làm vòng rào vững chắc cho khu chùa, ông Tác (ngăn ngừa thú
dữ).
Cất trại tạm cho lực lượng nhân công ở
Chia công trình ra thành ba cụm
Hướng Tây đào ba cái ao
Chính giữa xây ngôi chánh điện bằng gỗ lợp lá.
Hướng Đông Bắc xây sala, am, nhà bếp…cũng bằng gỗ lợp lá.
Sau khi xây cất xong sẽ mời sư sãi đến làm lễ khánh thành, lễ khánh thành
được kéo dài trong một tuần lễ.
Ngày thứ nhất: Làm lễ rước ba vị tượng Phật Thích Ca (do ông Tác
hiến chùa, tượng được trạm bằng lõi gỗ cây mít. Các pho tượng này được rước từ
nhà ông Tác đến chính điện.
Ngày thứ hai: Làm lễ tưới nước cho ông Thạch Sóc và cột chỉ vào tay
ông để chúc phước lành. Ông là người được chọn làm sư trụ trì đầu tiên của
chùa.
Ngày thứ ba: Làm lễ trao chức Mê-Kôn cho ông Thạch Sóc (chức vụ
đứng đầu hội sư sãi).
Ngày thứ tư, năm và sáu làm lễ khánh thành chùa mới.
Ngày thứ bảy: Tổ chức cho dân chúng vui chơi giải trí qua các hình
thức múa hát và hòa tấu đủ loại nhạc truyền thống đến sáng ngày thứ tám làm lễ
bế mạc.
Từ khi xây dựng chùa cho đến nay, ngôi chùa đã chải qua 21 vị Đại đức,
trụ trì chùa mỗi vị đều đã góp công lao vào việc xây dựng, phát triển ngôi chùa
ngày nay. Đồng thời ngôi chùa cũng đã chải qua 15 vị Nhôm Vát (nghĩa đen là
người ủng hộ chùa).

Từ nhiều năm nay, tổ chức tín đồ có thay đổi, vị Nhôm Vát được thay thế
bằng một ban quản trị do tín đồ trực tiếp bầu ra. Ngôi chùa đầu tiên không biết
11


tồn tại đến bao lâu theo các vị sư cho biết hiện nay ngôi chánh điện và nhà sala
mà chúng ta thấy được xây dựng hoàn toàn mới vào năm 1918, vào thời gian Đại
đức Liêu Đuông trụ trì
Ngoài chức năng thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, chùa Khleang còn là nơi
đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và các sinh hoạt truyền thống của đồng bào dân tộc
Khmer thông qua các ngày lễ hội hàng năm cùng các hoạt động tinh thần khác.
Trong suốt thời gian hình thành và phát triển, chùa Khleang đã chứng kiến
các cuộc đấu tranh anh hùng bất khuất giải phóng dân tộc trong hai cuộc đấu
tranh kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Trong suốt thời gian này, nhà chùa cũng
từng là nơi nuôi dấu các chiến sĩ cách mạng. Để làm mất đi ý chí chiến đấu của
đồng bào Khmer, đêm 28 tháng 10 năm 1959 tên tỉnh trưởng là bấy giờ là Hoàng
Minh Thường đã tổ chức sát hại Đại đức Trần Kế An 5. Nhưng sự hy sinh của ông
không những không làm nhụt chí chiến đấu của đồng bào mà còn làm tăng thêm
ý chí đấu tranh quyết liệt diệt giặc của đồng bào Khmer. Như vậy chứng tỏ ngôi
chùa không những làm tốt trách nhiệm của mình sống “tốt đời đẹp đạo” mà thêm
vào đó các thành viên trong chùa đã chở thành những người góp công xây dựng
đất nước hôm nay giàu đẹp.
Trải qua nhiều đời sư trụ trì chùa Khleang không ngừng được mở rộng,
khuôn viên xây mới, các công trình tạo nên không gian đẹp mắt cho tới ngày nay.
Và trong suốt thời gian đó ngôi chính điện cũng được trùng tu nhiều lần, nhưng
quá trình trùng tu đó vẫn giữ được nét hoa văn cổ kính , phô bày được tài năng
khéo léo trong điêu khắc, nghệ thuật trang trí của những nghệ nhân Khmer, họ đã
khẳng định được giá trị của nghệ thuật truyền thống. Chùa Khleang hiện đã được
Bộ văn hóa- Thể thao và du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc
gia. Và trở thành một điểm du lịch nổi tiếng của đất Sóc Trăng.

2.3. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí chùa
Là một ngôi chùa cổ nhất ở Sóc Trăng, có lối kiến trúc giống như các chùa
ở Campuchia. Chùa tọa lạc ở số 71 đường Mậu Thân, khóm 5 phường 6 thành
phố Sóc Trăng, đây là một trong những ngôi chùa được xây dựng theo lối kiến
trúc cổ của dân tộc. Chùa được xây dựng năm 1532, Phật lịch 2076.
5

Nguyễn Minh Tâm, Hồ sơ di tích chùa Khleang, 1990, Tr 8- Tr 11

12


Tổng thể kiến trúc gồm khuôn viên chùa, ngôi chính điện, sala (nhà hội
của các sư sãi), nhà tăng của sư sãi, nhà ở của trụ trì, lò hỏa táng người chết, tháp
đựng cốt người chết ngoài ra chùa còn có trường trung cấp Pali ( trường cấp cao
dành cho các sư). Toàn bộ các công trình nằm trong một khuôn viên cách biệt
với bên ngoài. Chùa có niên đại 500 năm và được trùng tu nhiều lần, ngôi chính
điện được trùng tu cách nay khoảng 80 năm, cổng chùa quay hướng đông.
Một đặc điểm rất dễ nhận ra từ xa ta có thể thấy ngôi chùa hiện lên là
những cây sao cây dầu cao vút, cây thốt nhốt tạo nên một không gian thoáng đạt,
kết hợp với những tháp vuông vát làm thêm phần uy nghi cổ kính cho ngôi chùa.
Ngôi chùa nhằm ở giữa trung tâm thành phố nơi có đông cư dân. Đây là một đặc
điểm chung của kiến trúc chùa Khmer không chỉ ở Sóc Trăng mà còn là đặc điểm
kiến trúc chung cho toàn thể kiến trúc chùa Khmer ở đồng bằng sông Cửu long.
Trải qua quá trình phát triển lịch sử lâu dài, chứng kiến xã hội đổi thay
cho nên chùa Khleang cũng đã thay đổi ít nhiều về cảnh quan và diện tích.
Nhưng một điều không thể chối nhận đó là khi các bạn bước vào khuôn viên
chùa, các bạn sẽ cảm nhận được sự thoáng mát của tự nhiên mang lại, tạo cảm
giác sảng khoái cho con người, bỏ đi những khó nhọc trong cuộc sống.
Ở Việt Nam hiện nay dù ở địa vị nào đi chăng nữa mỗi người đều mang

trong mình một niềm tin tôn giáo, niềm tin vào những đấng siêu nhiên, vào tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mặc dù xã hội đã phát triển nhưng con người vẫn tìm
đến cửa chùa, thánh đường để tìm kiếm sự thiêng liêng che chở cho mình.
Nói tới kiến trúc Khmer thì không thể không nói đến kiến trúc chùa
Khmer. Mà ở đây chính là nghệ thuật kiến trúc, thể hiện qua điêu khắc, hội họa
và trang trí. Không phải bất cứ kiến trúc ngôi chùa nào, cách trang trí nào cũng
được gọi là nghệ thuật kiến trúc, mà lối kiến trúc đó không những đáp ứng được
nhu cầu thẩm mỹ mà còn phải thể hiện được cái nét văn hóa của dân tộc đó. Có
thể nói ngôi chùa Khleang là một công trình kiến trúc tiêu biểu, có giá trị văn hóa
nghệ thuật cao của một dân tộc, là nơi lưu giữ những nét văn hóa của cộng đồng
người Khmer. Và nơi thể hiện nghệ thuật kiến trúc độc đáo đó không nơi nào
khác mà chính là khu nhà chính điện.

13


Bất cứ ở đâu trong tỉnh Sóc Trăng nói riêng, vùng Tây Nam Bộ nói chung
thì ở đâu có người Khmer sinh sống thì ở đó có chùa Khmer. Trước đây hầu như
mỗi người con trai khi lớn lên đều phải vào chùa đi tu một thời gian để “Trả hiếu
cho cha báo hiếu cho mẹ”. Cuộc sống của người dân có khó khăn tới đâu nhưng
họ đều đóng góp vào chùa để xây dựng nơi thờ Phật thêm khang trang đẹp đẽ.
Họ quan niệm “Được đóng góp vào chùa người dân Khmer coi đó là khoán ước
đảm bảo hạnh phúc cho cuộc sống hiện tại và cho cuộc đời ở thế giới vĩnh hằng
trên cõi Niết Bàn”6. Ngôi chùa là nơi tôn nghiêm nhất, là biểu tượng văn hóa của
dân tộc vì vậy ngôi chùa luôn được chú trọng.
Tổng thể kiến trúc chùa bao gồm: chính điên, sala, nhà ở của chư tăng,
tháp để cốt và lò hỏa táng người chết, trong đó nổi trội hơn cả là sala và khu nhà
chính điện.
Một nét riêng dễ nhận ra đó là chùa của người Khmer không có cánh cửa
và cổng chùa quay hướng đông. Khác với các di tích lịch sử tôn giáo văn hóa của

người Việt thường quay cổng ra hướng Nam, thì quan niệm của người Khmer
Phật đắc đạo ngồi quay lưng về hướng Tây, mặt quay hướng Đông và Phật từ
phương Tây đi sang phương Đông để ban phước cho nhân dân. Trên cổng chùa
có những tháp vuông vát và những họa tiết hoa văn trang trí hình dây leo chạy
ngang trên cổng kết hợp với hình đức Phật đắp nổi ngồi trên tòa sen.
Sala (là nhà hội của chư tăng và các tín đồ Phật tử), là ngôi nhà đầu tiên được
xây dựng, trước đây sala là ngôi nhà sàn, bây giờ vẫn là hình dáng của nhà sàn,
nhưng được xây dựng bằng xi măng và không có tường xây, tạo sự thoáng mát
trong những ngày sinh hoạt lễ hội, ngày diễn ra những đám phước. Sala nhằm ở
phía bên phải của khu nhà chánh điện và cách xa chính điện. Trong sala cũng có
bàn thờ Phật nên cửa cũng quay ra hướng Đông. Ở hai bên phía trước cửa sala là
hình tượng Kây No dơ cao hai tay chống đỡ mái chùa. Kây No cũng là một dạng
chim thần của người Khmer cổ. Nhưng Kây No ở đây có khuôn mặt và hình dáng
của một người phụ nữ, thể hiện cái đẹp và phẩm chất của người Phụ nữ Khmer.
Chính điện, chính điện được xây dựng ở trung tâm của chùa, đây là nơi
hành lễ chính của chùa. Khu chính điện nổi bật lên trên một khu đất rộng, toàn bộ
6

Trường Lưu, Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng song Cửu Long, Nxb Văn hóa dân tộc, 1993, Tr
312.

14


chính là dọc theo chiều dài hình chữ nhật, nhưng ta quan sát kỹ mặt cắt ngang
của chính điện thì sẽ thấy một tam giác cân từ đỉnh xuống hai đầu. Và toàn bộ
khu chính điện lúc này sẽ nổi lên một hệ thống hình tam giác, từ trên hai đầu nóc
nhà cho tới các họa tiết trang trí cũng là những hình tam giác nhỏ, tạo nên sự
khác biệt, riêng rẽ trong nghệ thuật kiến trúc Khmer. Toàn bộ khu chính điện
hiện lên giống như ngọn núi Sô me ru. “Theo quan niệm của Ấn Độ giáo núi

Meru là ngọn núi vũ trụ, có năm ngọn” 7, nhà chính điện ở giữa và bốn tháp ở
bốn hướng bên ngoài, làm nổi lên sự chú ý của khu nhà
Chùa Khleang với ngôi chính điện hiện tại được xây dựng năm1918
(ngôi chính điện cũ hiện không còn vết tích gì cả), có chiều dài 24m, chiều rộng
13m. Chùa có hệ thống bậc tam cấp với nền cao. Bậc 1 cao 1m cách bậc 2 là 7m
tạo thành vòng sân đường nội (khi làm lễ người ta sinh hoạt xung quanh sân này
như lễ rước Phật, rước áo cà sa). Bậc 2 cao gần 1m cách bậc ba khoảng 4,5m có
dựng hàng rào bao quanh. Bậc 3 ở trong cùng, mặt nền là để sử lý phần sườn của
chính điện. Ở cấp trong cùng bậc thứ ba này là những hàng cột uy nghi được xây
dựng bằng xi măng, phía trên đầu cột giáp với mái chùa là những chim thần Krud
(hình người, đầu chim, miệng ngậm một viên ngọc, có hai cánh phía sau chổng
lên trên gắn với mái chùa trông rất lạ mắt, phía dưới dưới bên cạnh cột là hình
tượng Chằng (Yeak), Yeak là người cao to mặc giáp trụ, tay cầm chày vồ chống
xuống, có khuôn mặt dữ tợn được đặt trung quanh chính điện để bảo vệ ngôi
chùa và đức Phật. Chằng vốn là biểu tưởng của sự xấu xa, cái ác trong hững vở
kịch của người Khmer, chằng luôn chống phá đức Phật. Nhưng trong nhà chùa
Chằng được đặt bên ngoài chính điện chứng tỏ Chằng đã không còn xấu xa mà
với mục đích bảo vệ đức Phật. Đây không đơn thuần chỉ là sự trang trí có tính
thẩm mỹ mà đây còn là một ẩn ý của nhà Phật được người nghệ nhân thể hiện, đó
là cái thiện luôn thắng cái ác, cái xấu xa, Phật giáo đã chiến thắng.
Phía bên ngoài tạo thành một vòng bao bọc chính điện bên trong, được
xây 4 cửa ra vào theo 4 hướng phiá trên đà ngang của mỗi cửa có hình tượng Rea
Hu, mặt to, miệng rộng, nhe răng dữ tợn, hai tay dường như đang cầm vật gì toan
nuốt vào miệng. Rea Hu là tên gọi có tính cách địa phương, một dạng hình đầu
7

Ngô Văn Doanh, Danh thắng và kiến trúc Đông Nam Á, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, 1998, Tr85.

15



người nhưng khuôn mặt dữ tợn.Trong các chùa Khmer mô típ Rea Hu được phổ
biến rất rộng rãi không chỉ trong các chùa ở Sóc Trăng mà còn trong khắp vùng
Tây Nam Bộ.
Khu nhà chính điện có bốn cửa ra vào chính, các cửa có kích thước
bằng nhau. Dọc theo hai bên sườn của thân chùa mỗi bên cũng có 7 khung của
sổ, kích thước nhất định. Hai bên cửa sổ là những ô cửa được trang trí nhiều họa
tiết hoa văn khác nhau, các họa tiết được khắc nổi trên chất liệu gỗ với các hình
kỷ hà (hình tam giác, hình bình hành, hình tròn…), những đường nét hoa văn uốn
lượn, tỷ tê thể hiện sự khéo léo của người nghệ nhân Khmer. Nổi bật lên trên mỗi
cánh cửa sổ đó là hình tượng Tiên nữ? và Chằng đang giao đấu gay go quyết liệt.
Phía trên mỗi khung cửa sổ và cửa cái là những ô trang trí hoa văn được đắp nổi
bằng ciment, dạng như chiếc mũ, sơn màu vôi đỏ, màu vàng, hai cạnh bên lõm
vào, cạnh đáy cong lên tạo nên hình tam giác, úp lên chiếc cửa sổ xinh xắn. “Một
đặc điểm đặc biệt cho thấy các nhân vật được khắc trạm trên khung cửa chính
điện chùa Khleang đều phục sức theo lối Khmer cổ. Trên thân mỗi bộ quần áo
người ta thấy chi chít những nét hoa văn. Căn cứ vào bộ y trang của các nhân
vật ta thấy những họa tiết được kết hợp bằng hình kỷ hà (vuông, tròn, chữ nhật,
hình bình hành), các loại hình hoa lá và các loại hình dây”8
Kết cấu chính của chùa Khmer là cột-nền-mái chùa. Vì vậy cột là một bộ
phận quan trọng trong kiến trúc chùa Khmer. Chánh điện Khmer được dựng bằng
6 hàng cột mỗi hàng là 10 cây cột trụ. Mỗi hàng có chức năng riêng của mình,
hàng cột ở phía ngoài thì để dựng lang cang. Hàng ở bên trong để đỡ bộ mái
chùa ở phía trong và phân chia ranh giới chính điện. Đặc biệt ở hàng cột phía
trong còn có trang trí mô típ rồng, sơn son thiếp vàng theo mô típ rồng của Trung
Quốc, phía trên nhỏ hơn phía dưới tạo nên sự cân xứng của cột.
Bên cạnh những đường nét uốn lượn, họa tiết hoa văn trang trí thì màu sắc
là một đặc điểm rất quan trọng làm nổi bật lên ngôi chùa, khu nhà chính điện
hiện lên một mảng màu sắc trong những sắc xanh của thiên nhiên. Tất cả các hoa
văn từ hoa văn trên gỗ, hoa văn được đắp nổi đều được thực hiện bằng nững

mảng màu sắc rực rỡ, tự do pha trộn nhưng ở đây ta thấy được trong nền nghệ
8

Dẫn theo Nguyễn Minh Tâm, Hồ sơ di tích chùa Khleang 1990, Tr 8.

16


thuật tạo hình của người Khmer ở chùa Khleang không dùng nhiều màu sắc.
Ngôi chính điện hiện lên với năm màu sắc cơ, bản trang trí bên ngoài chủ yếu là
hai màu: màu vàng và màu đỏ nhưng màu vàng là màu chủ đạo, làm màu nền.
Hai màu này chính là trong màu cờ của Phật giáo, đồng thời cũng thể hiện sáu
kiếp hóa thân của đức Phật.
“Màu xanh lam, nói về cuộc đời của đức Phật khi còn là vị bồ tát ra
tay cứu độ chúng sinh
Màu vàng thể hiện một kiếp khác của Phật lấy thịt mình đem lát thành
để cúng trong khi đi tu luyện
Màu đỏ là màu máu kể lại chuyện trong một kiếp khác Phật đã mổ
ngực mình để lấy trái tim làm thuốc cứu Mẹ bị rắn cắn.
Màu trắng, trong kiếp này Phật cưỡi voi trắng đi làm phép gây mưa
cứu nạn cho chúng sinh
Màu vàng cam, tượng trưng cho lòng hỷ xả khi ma quỷ muốn ăn thịt
Phật. Phật đã róc thịt mình cho ma quỷ ăn
Màu ánh lửa thể hiện trên lá cờ là sự sắp xếp năm màu liền nhau theo
hàng dọc. Màu này nói lên mỗi kiếp của Phật khi còn là con thỏ đã hy sinh nhảy
vào lửa dâng mình cho Đế Thích Phạm Thiên, thể hiện sự bố thí tuyệt đối của
đức Phât”9.
Nhìn chung trong phần hội họa trang trí của chùa sự phối hợp màu sắc
được pha trộn rất khéo léo, dễ dàng làm nổi lên đường nét của hình khối trang trí.
Nó thể hiện sự tài hoa khéo léo của người nghệ nhân. Một mảng màu rực rỡ hiện

lên trong khuôn viên xanh đã tô thêm phần sống động nơi tôn nghiêm nhất.
Khi nói về chính điện của chùa Khleang chúng ta không thể không nói
đến bộ mái của ngôi chùa, đây là một phần kiến trúc rất đặc biệt nhờ đó làm cho
phần chính điện thêm phần cổ kính. Bộ mái gồm có hệ thống mái ba cấp chồng
lên nhau với khoảng cách nhất định. Ba gian giữa kết cấu bộ mái cao ba cấp, ba
gian kế tiếp kết cấu bộ mái cũng ba cấp nhưng thấp hơn, hai mái trên hợp thành 1
góc 600, hai mái dưới độ dốc thấp hơn. Khung mái được làm bằng gỗ quý, lợp
theo kiểu vảy rồng. Hai đầu hồi được đóng bít thành một hình tam giác gọi là
9

Lê Đắc Thắng, Tìm hiểu vốn văn hóa dan tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Hậu Giang, 1988, Tr 216

17


“Hô Cheang”10, trên có trạm trổ hình ngọn đuốc sáng và hoa văn, hình dây leo
xung quanh. Trên bộ mái chồng lên nhau đều có trang trí hình tượng rồng, ngẩng
đầu lên và được xếp ở hai ranh giới mà mái được nâng lên. Hình dạng rồng của
người Khmer Khác với người Kinh và người Hoa, đầu rồng mảnh mai có sừng
nhọn, uốn lượn, thân rồng là thân của một loại cá nên rồng không có chân, trên
lưng giương những vây nhọn cong lên về phía đuôi. Hình tượng rồng cũng được
bố trí theo chiều dài của những đòn dong. Ở Phía trên nóc chùa là những đuôi
rồng uốn ngược lên trên cao khoảng 1m trở lên, theo mỗi đòn dong là những đuôi
rồng uốn lên, tạo như những chiếc đầu rồng tua tủa trông rất đẹp mắt. Giữa mái
chùa ở phía trên nhất có gắn một tháp nhọn có ba vòng tròn khác nhau đại diện
cho Phật, Pháp, Tăng. Hình tượng rồng được người Khmer rất coi trọng theo
quan niệm cuả họ, rồng (nec) trước đây tự nó đã biến thành chiếc thuyền vượt
biển đưa Phật đi thuyết pháp cứu độ chúng sinh. Do vậy người Khmer đã đưa
rồng lên mái chùa với ý nghĩa mong muốn đức Phật sẽ dừng lại ở mái chùa của
mình.

Bên trong chính điện, ở gian giữa có đặt tượng thờ Phật Thích Ca. Ở chùa
Khleang tổng thể có 45 pho tượng Phật Thích Ca, đạo Phật dòng Tiểu thừa chỉ
thờ Phật thích Ca cho nên, bên trong chính điện có rất nhiều tương Phật Thích ca
với mọi tư thế khác nhau (đồng, gỗ, ciment…). Một tượng Phật ở trung tâm cao
nhất, cao khoảng 2,5m đặt trên một bệ cao 1,5m, Phật đang ngồi trên tư thế thiền
định, phía dưới là những bức tượng nhỏ đủ tư thế. Mặc dù ở phía ngoài của bộ
mái được kết cấu công phu , nhưng bên trong lại đơn giản, kết cấu vì kèo và
những quá dang kết hợp lại tạo thành khung mái. Trên trần mái là những hình vẽ
trang trí, hình ảnh đức Phật và những cô tiên đang nhảy múa tạo nên những nét
vui tươi ở nơi trang nghiêm.
Nhìn chung nghệ thuật kiến trúc chùa mà đặc biệt là khối kiến trúc chính
điện, là sự thống nhất về màu sắc, đường nét, họa tiết hoa văn kết hợp lại. Ngôi
chùa không những đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của đồng bào mà còn là nơi
thể hiện tinh hoa, khéo léo và tài năng qua nghệ thuật kiến trúc của những nghệ
nhân Khmer. Và một đặc điểm cần nói tới, chính điện là một khối nhà hình chữ
10

Nguyễn Minh Tâm, Hồ sơ di tích chùa Khleang, 1990, Tr 10.

18


nhật, nhưng toàn cảnh chính điện lại hiện lên là những hình tam giác, hình tam
giác một số linh thiêng trong nhà Phật (ở phần chùa Khleang và đời sống văn hóa
người Khmer, các bạn sẽ thấy hầu như các lễ hội của người Khmer đều diễn ra
trong ba ngày), hình tam giác gắn với ngọn lửa thiêng của đạo Hindu. Rõ ràng ở
đây ta thấy có sự pha trộn, kết hợp giữa đạo Bà la môn, đạo Phật và cả tín
ngưỡng dân gian trong khối kiến trúc trang trí của người nghệ nhân Khmer. Đó
là sự tổng hòa các mối quan hệ trong tín ngưỡng của người Khmer. Sự kết hợp
đó còn thể hiện một nét văn hóa rất độc đáo của người Khmer. Họ có thể dễ dàng

tiếp nhận những giáo lý mới phù hợp với cuộc sống của mình nhưng bên cạnh đó
vẫn còn sự sợ hãi của quá khứ. Khi kết hợp lại chúng với nhau đã tạo nên sự hòa
hợp giữa con Người và Thánh Thần với Chư Phật. Sự kết hợp đó chứng tỏ những
đạo này đã bị người Khmer hóa tạo thành đạo riêng của mình.

19


CHƯƠNG 3: CHÙA KHLEANG VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGƯỜI
KHMER Ở SÓC TRĂNG
Mỗi cộng đồng dân cư đều có những phong tục tập quán riêng của mình.
Nước ta có 54 dân tộc mà mỗi dân tộc lại thể hiện một nét văn hóa riêng biệt, và
những nét riêng đó khi đã gắn kết lại với nhau tạo thành một nề văn hóa Việt
Nam thống nhất trong đa dạng.
Cũng như bao dân tộc khác, mỗi cộng đồng dân cư có một đặc trưng văn
hóa riêng, mà sự thể hiện nét văn hóa đó chính là trong cuộc sống hàng ngày,
trong những ngày lễ hội của dân tộc, không chỉ vậy những nét văn hóa đó còn
được lưu giữ tại ngôi chùa và ngôi chùa đã trở thành một trung tâm văn hóa.
Người Khmer ở Sóc Trăng nói riêng, vùng Tây Nam Bộ nói chung là một
dân tộc đã định cư ở vùng đất này từ xa xưa, từ lâu họ đã theo đạo Phật dòng
Tiểu thừa cho nên giáo lý của nhà Phật đã ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội và con
người Khmer. Mọi tu tưởng cách nghĩ lối sống, việc làm của họ đều chịu sự ảnh
hưởng của nhà chùa. Hầu như mọi lễ nghi tôn giáo, sinh hoạt lễ hội truyền thống
lớn của dân tộc đều được diễn ra ở chùa. Ngôi chùa đã chở thành một trung tâm
văn hóa, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cả Phum Sóc. Không những vậy ngôi
chùa còn đảm đương trách nhiệm là một trường học, là nơi không những dạy chữ
mà còn dạy cả văn hóa, đạo làm người cho đồng bào góp phần phát triển tâm
thức của người dân. Bên cạnh những truyền thống lễ hội, ngôi chùa cũng tác
động rất lớn tới cuộc sống thường ngày của người dân. Nói tới đời sống văn hóa
tức là nói tới văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, từ hai yếu tố này đã tác động

trực tiếp đến đời sống văn hóa của cư dân Khmer ở Sóc trăng.
3.1. Văn hóa vật chất
Nói tới văn hóa vật chất là nói tới nhà cửa, trang phục và ăn uống, đây là
nhu cầu tất yếu của cuộc sống, là quan trọng cho sự phát triển và tồn tại của con
người nói chung, người Khmer nói riêng. Trong đời sống văn hóa vật chất còn
biểu hiện ra ở nhiều góc độ khác nữa, nhưng ở khía cạnh nghiên cứu chúng tôi
chỉ nêu ra những yếu tố chính sau đây.

20


3.1.1. Nhà ở
Người Khmer sống trên các giồng cao họ gọi là Phno, sống tập chung
trong các phum sóc, mỗi phum tương đương với thôn xóm của người Kinh.
Trước đây gia đình của người Khmer thường sống thành từng cụm, quây quần
với nhau trong họ hàng và tách riêng với người Hoa và người Kinh. Nhưng hiện
nay do quá trình sống, sự phát triển của xã hội, người Khmer đã sống chung với
người Hoa và người Kinh, sống xen kẽ trong các phum sóc, cấc ấp.
Nhà ở của người Khmer trước đây cũng giống như bao dân tộc khác ở
Việt Nam đều ở nhà sàn, lợp bằng lá dừa nước, dù ở vùng ven biển hay trên đất
cao nhà sàn vẫn là phổ biến nhất. Nhưng hiện nay nhà sàn hầu như đã biến mất
khỏi đời sống của người dân để thích ứng với hiện tại.
Nhà của người Khmer thường là nhà một mái, nhỏ, chạy dọc theo hình
chữ nhật từ ngoài vào trong. Khi chưa có nhà xây như vậy, người Khmer ở nhà
hai mái, được lợp bằng lá dừa nước, khung nhà là hệ thống những cây gỗ nhỏ có
thể bằng than cây dừa, cây cau, hai bên được bít kín bằng lá dừa nước gấp đôi lại
tạo nên sự kín đáo của ngôi nhà. Nhà của người Khmer tùy theo nhà giàu, nhà
nghèo mà cách bố trí có khác nhau, nhưng quan sát thực tế cho thấy ngôi nhà của
họ thường chỉ có hai gian ít diện tích và thấp. Nhưng nếu là nhà lợp mái thì nóc
nhà lại rất cao và dốc. Ở phía hai bên của ngôi nhà thường có một khoảng không

rộng để cho thoáng mát, không kín bên sườn nhưng có mái che ở phía trên, nếu
là nhà dài thì khoảng không sẽ ở phía sau của ngôi nhà.
Nhà của người Khmer thường chỉ có một cửa đi vào, cửa nhà thường quay
ra mặt đường theo hướng Đông. Nhưng đôi khi cửa nhà cũng quay theo hướng
tuổi của chủ nhà. Gian chính vừa là nhà khách vừa là phòng ngủ, phía bên của
nhà là bếp nối liền với phòng khách. Trong nhà của họ có bàn thờ Phật và bàn
thờ tổ tiên ở trong. Nếu là nhà xây, nhà khá giả thì bên trong cũng được bố trí
như nhà của người Kinh, còn những nhà còn lợp lá thì bên trong có một chiếc
trõng tre để nghỉ ngơi. Người Khmer cũng giống như người Kinh trước khi làm
nhà họ cũng phải trọn ngày giờ và hướng đất. Trước đây khi làm nhà người
Khmer thường là những người con trai trong nhà, họ còn có tục vần công đổi thợ

21


cho nhau đối với hàng xóm nữa, phong tục này nay đã ít đi đa phần là mướn thợ
về làm.
Ở đây ta thấy ngôi nhà dù có to nhỏ thế nào còn là sự giàu có tùy nhà,
nhưng một điểm chung không thể không nói đó là người Khmer không quan
trọng làm nhà to hay nhà nhỏ. Nhưng đối với họ ngôi chùa lại rất quan trọng, họ
có thể nghèo đói nhưng ngôi chùa lại rất to đẹp. Dường như ở đây cho thấy ngôi
nhà đối với họ chỉ là cuộc sống hiện tại, tạm bợ không cần phải chú ý nhiều.
Nhìn chung ngôi nhà của đồng bào Khmer hiện nay đã không còn như xưa
nữa, không khác gì nhà của người Kinh và người Hoa nữa. Thêm nữa do có sự
quan tâm của các cấp chính quyền tới cơ sở cho nên họ cũng đã chú trọng phần
nào tới cuộc sống của mình so với trước đây hơn nhiều.
3.1.2. Ẩm thực
Trong cuộc sống thường ngày bữa ăn trong gia đình là rất quan trọng,
ăn uống đầy đủ giúp cho sức khỏe được tăng cường, trí óc được minh mẫn.
Nhưng không phải chúng ta cứ làm ra sản phẩm đó là được, trong cách chế biến

đó là sự kỳ công, khéo léo của mỗi người không phải ai cũng có thể làm một
cách bài bản nhất. Ẩm thực của người Khmer đó là sự kỳ công của con người
Khmer, người Khmer trong cách chế biến món ăn rất khác với người Việt và
người Hoa, người Hoa thích ăn cay thì người Khmer lại thích nêm đường vào
món ăn.
Trong bữa ăn thường ngày của người Khmer cũng không khác gì với
người Kinh, nhưng trong một số món ăn đặc trưng của dân tộc thì khó ai có thể
bắt trước được. Vì cách nấu cách nêm gia vị của họ rất khác biệt cùng một món
ăn nhưng món ăn do người Khmer nấu sẽ khác với món ăn do người Việt nấu.
Trong những món ăn tiêu biểu thường ngày, đặc trưng của người Khmer thì món
mắm prahoc (bò hóc) là một loại mắm chỉ người Khmer mới có. Món prahoc
được làm từ nhiều loại cá khác nhau như: cá lóc, cá lòng tong, cá trê… Loại mắm
này làm rất công phu tốn nhiều thời gian, từ bốn tháng chở đi thì mắm mới ngon
được, mắm để càng lâu càng ngon. Từ mắm prahoc ngươi ta có thể đem chế biến
với nhiều món ăn khác. Đặc biệt người Khmer còn có món bún nước lèo không
chỉ người Khmer thích mà cả cộng đồng các dân tộc khác ở Sóc Trăng cũng
22


thích. Cách chế biến cũng rất phức tạp gia vị nêm không thể thiếu mắm prahoc.
Mắm prahoc là đặc trưng của người Khmer trong bữa ăn hàng ngày. Bên cạnh đó
trong những ngày lễ ngày tết một thứ bánh không thể thiếu trong mâm cỗ của
người Khmer đó là bánh tét, bánh ít. Thứ bánh đặc biệt của người Khmer. Ngoài
ra trong bữa ăn truyền thống của người Khmer còn rất nhiều món ăn phổ biến
khác.
Người Khmer trong một ngày họ cũng dùng cơm ba bữa và họ thường
dâng cơm cho các sư trong chùa mỗi khi họ đi khất thực qua. Theo Phật giáo
dòng Tiểu thừa, người đi tu có thể ăn mặn và ăn thịt nhưng phải do người dân
dâng lên, nhà sư không được sát sinh. Các nhà sư trong chùa Khleang cũng vậy
hàng ngày họ cũng phải chia nhau thành những nhóm nhỏ đi khất thực.

Người Khmer coi việc dâng cơm cho nhà chùa không chỉ là trách nhiệm
mà đó cũng là điều mà họ nên làm, họ rất hoan hỉ khi được nhà chùa nhận vật
phẩm của mình dâng cúng. Khi dâng cơm cho các ông lục (các vị sư ) trong
chùa, đồng bào Khmer không chỉ muốn dâng lên cho các thầy tu mà còn mong
muốn dâng lên cho ông bà tổ tiên nữa. Họ tin rằng khi ông lục đọc kinh lời kinh
đó có thể mang cơm tới cho ông bà mình. Có thể nói rằng người Khmer không
chỉ có lòng kính dâng cho đức Phật mà còn có lòng hiếu kính với ông bà, tổ tiên
mình, những người đã mất. Và đồng thời nhà chùa ở đây đã chở thành nơi trung
gian, là sự chuyển tiếp giữa người quá cố và người còn sống, giữa người dân và
đức Phật.
3.1.3. Trang phục
Khi đã có một ngôi nhà để ở, thức ăn để ăn thì con người cũng phải
biết làm đẹp, mặc đẹp không chỉ là làm đẹp cho mình mà còn làm đẹp co xã hội.
Hiện nay trong quá trình sống cộng cư xen kẽ với người Kinh, người Hoa, trong
trang phục của người Khmer không khác gì so với người Hoa, Kinh. Y phục
truyền thống Khmer chỉ còn hiện diện trong các ngày lễ hội truyền thống của dân
tộc, khi trình diễn văn nghệ.
Nói tới y phục truyền thống của người Khmer là nói đến những chiếc
váy xam-pot của phụ nữ Khmer mặc bằng cách quấn ngang hông và vắt về một
phía, gấu váy cao trên cổ chân, chiếc váy thường là màu đen được dệt bằng lụa tơ
23


tằm hoặc vải. Thực ra chiếc xampot không khác gì tấm xà rông, nhưng xà rông
thường mang tên gọi do người con trai mặc.
Áo weng (áo tầm vông) là những chiếc áo dài của người Khmer, trang
phục bằng vải màu đen, được may bít tà, thùng áo rộng và dài quá đầu gối, cổ áo
sẻ ngực mặc phải chui đầu mới được. Khi mặc phải được kết hợp với quần đen
hoặc váy xampot
Người Khmer cũng rất thích mang khăn vì vậy chiếc khăn Kama (khăn

rằn) rất được người Khmer yêu thích. Đây là chiếc khăn rất phổ biến của đồng
bào Khmer, khăn có nhiều màu sắc khác nhau: màu đen, màu hồng…kama có
hình caro nhỏ mầu đỏ, màu trắng hoặc màu xanh nổi lên trên hình chữ nhật, hoặc
hình vuông có hình nền màu trắng hoặc đen. Kama có rất nhiều tác dụng làm
khăn choàng, khăn tắm đôi khi được sử dụng như một dây thắt lưng buộc lên tấm
xà rông.
Ngày nay người Khmer mặc không khác gì người Kinh, người Hoa cả.
Con gái thì mặc đồ bộ đồ kiểu, con trai thì mặc quần tây, quần jean mang dày…
hiện nay chỉ còn thấy những người lớn tuổi mặc áo bà ba trắng, quần đen và trên
lưng mang một chiếc khăn rằn vắt trên vai trong những ngày lễ hội. Và ngày nay
trong một số lễ cưới, người Khmer cũng vẫn mặc đồ truyền thống nhưng đã được
cách tân hơn. Chú rể cũng mặc xà rông, nhưng xà rông của chú rể khác với
những chiếc xà rông mà người con trai Khmer hay mặc. Xà rông của chú rể có
nhiều kiểu cách hơn, được dệt bằng tơ tằm, màu tím hoặc màu xanh như đọt
chuối, áo màu đỏ cổ đứng có cài chín nút áo trước ngực. Còn cô dâu thì có thể
mặc đồ truyền thống hoặc đồ kiểu thuê ở tiệm về.
Người Khmer thích mang đồ nữ trang bằng vàng như nhẫn vàng, vòng
vàng.
Những chiếc xam pot, xà rông, áo bà ba chỉ thấy hiện diện trong lễ hội,
biểu diễn văn nghệ, trong cuộc sống hàng ngày nó đã và đang bị mất dần đi. Có
lẽ trang phục truyền thống tấm xà rông lúc nào cũng được mặc trên người trong
cuộc sống hàng ngày, thì nơi giữ gìn không đâu hết chính là trang phục của các
sư tăng trong chùa. Nhà sư cũng mặc những chiếc xà rông được quấn cẩn thận và
có mang dây lưng với chiếc áo cà sa màu vàng hoặc nâu tùy thích. Dù có đi khất
24


thực hay ở trong chùa, ngày lễ hội thì các sư cũng vẫn mặc như thế. Thực chất
tấm xà rông chỉ là một tấm vải rộng khi mặc được quấn cẩn thận cho nên ở phía
trước giống như một chiếc quần bình thường. Ở đây ta có thể thấy sự liên hệ giữa

trang phục, tấm xà rông của các sư tăng trong chùa và tấm xà rông ở ngoài đời
thường. Như vậy có thể có sự ảnh hưởng qua lại, tấm xà rông mà người dân mặc
là do ảnh hưởng của trang phục nhà chùa mà nên.
Nói chung trong đời sống văn hóa vật chất hiện nay của người dân đã
khác rất nhiều so với trước kia, có nhiều cái được phát triển ở hiện tại, tiếp thu
nhiều cái mới. Nhưng bên cạnh đó vì lý do nào đó chúng ta vẫn thấy được sự tác
động mạnh mẽ của nhà chùa đến cuộc sống của người dân nơi đây. Mặt khác nếu
nói về văn hóa vật chất không chỉ dừng lại ở những yếu tố như : ẩm thực, trang
phục, nhà cửa…còn nhiều yếu tố khác, nhưng do sự hạn hẹp cho nên chúng tôi
chỉ nêu ra những khía cạnh đơn thuần như vậy nhưng có thể cho thấy, phản ánh
được vai trò của nhà chùa trong cuộc sống của người dân.
3.2. Văn hóa tinh thần
3.2.1 Hôn nhân
Trai lớn lấy vợ gái lớn gả chồng đó là quy luật chung của tự nhiên, của
con người. Mỗi dân tộc lại có một phong tục tập quán riêng, đối với người
Khmer quan niệm cưới hỏi đôi bên trai gái cũng rất khác với các dân tộc khác.
Trước đây người dân Khmer rất coi trọng những người đi tu và đã
hoàn tục, người con gái Khmer cũng rất thích những chàng trai như vậy. Bởi vì
họ đã vào chùa học đạo lý làm người, biết chữ nghĩa sẽ đối xử với mọi người tốt
hơn. Các cô gái Khmer xưa cũng bị cha mẹ ép gả, thậm chí có những gia đình
khuyến khích con cái lấy nhau trong cùng một gia tộc trừ chị em ruột, điều này
cách đây khoảng 20 năm vẫn còn. Ngày nay xã hội đã phát triển và do sự ảnh
hưởng quan niệm cởi mở của Phật giáo, cho nên thanh niêm nam nữ Khmer đến
tuổi trưởng thành đã được tự do yêu nhau, trao đổi tình cảm cho nhau. Và thanh
niên nam nữ hiện nay cũng đã bỏ đi quan niệm chọn vợ là chọn chồng nhất định
là những người đi tu và đã hoàn tục, bỏ đi quan niệm chọn vợ là chọn “giống”.
Họ đã tiếp thu những quan điểm mới của xã hội, chọn những người vừa khéo léo
lại làm ăn giỏi để phát triển kinh tế.
25



×