ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI TUẤN AN
ĐỜI SỐNG VĂN HĨA NGƯỜI MƠNG
Ở HUYỆN MAI CHÂU TỈNH HỊA BÌNH
(1986 – 2010)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Thái Ngun, 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI TUẤN AN
ĐỜI SỐNG VĂN HĨA NGƯỜI MƠNG
Ở HUYỆN MAI CHÂU TỈNH HỊA BÌNH
(1986 – 2010)
Chun ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.NGND. Nguyễn Cảnh Minh
Thái Ngun, 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tơi và chưa được cơng bố
trong bất cứ một cơng trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn
Bùi Tuấn An
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cơ giáo
trong Khoa Lịch sử, đặc biệt là những thầy cơ giáo ở chun ngành Lịch sử
Việt Nam, những người đã giảng dạy và động viên tơi trong suốt hai năm học
vừa qua giúp tơi hồn thành nghiên cứu và hồn thiện nghiên cứu đề tài.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.NGND. Nguyễn Cảnh Minh,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu.
Qua đây, cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè tơi, những người
đã ln ở cạnh tơi trong những lúc khó khăn nhất và giúp tơi có được thành
quả ngày hơm nay.
Luận văn này là kết quả bước đầu của q trình nghiên cứu khoa học
song do điều kiện năng lực và thời gian còn hạn chế, đề tài nghiên cứu khơng
tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp, bổ sung của
các thầy cơ và các bạn để cơng trình thêm hồn thiện
Tác giả luận văn
Bùi Tuấn An
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 KHÁI QT VỀ HUYỆN MAI CHÂU TỈNH HỊA BÌNH 11
1.1. Khái qt huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình 11
1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 11
1.1.2. Lịch sử hình thành 14
1.1.3. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội 15
1.2. Khái qt về người Mơng ở huyện Mai Châu 17
1.2.1. Nguồn gốc, q trình nhập cư và định cư 17
1.2.2. Khái qt về văn hóa của người Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa
Bình trước năm 1986 21
Chương 2 VĂN HĨA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI MƠNG Ở HUYỆN
MAI CHÂU TỈNH HỊA BÌNH TỪ (1986 – 2010) 24
2.1. Hoạt động kinh tế 24
2.2.1. Canh tác nơng nghiệp 24
2.1.2. Chăn ni 30
2.1.3 Săn bắn và hái lượm 32
2.1.4. Nghề phụ gia đình 34
2.2. Ẩm thực 37
2.3. Trang phục 39
2.4. Bản Mường, nhà cửa 41
2.4.1. Bản Mường 41
2.4.2. Nhà cửa 42
2.5 Giao thơng 45
2.6. Những chuyển biến trong văn hóa vật chất của người Mơng ở huyện
Mai Châu tỉnh Hòa Bình 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
iv
Chương 3. VĂN HĨA TINH THẦN NGƯỜI MƠNG Ở HUYỆN MAI
CHÂU- TỈNH HỊA BÌNH ( 1986– 2010) 52
3.1. Tín ngưỡng tơn giáo 52
3.2. Phong tục tập qn 60
3.2.1. Nghi lễ khi sinh 60
2.2.2. Nghi lễ trong hơn nhân 62
2.2.3. Nghi lễ trong tang ma 73
3.3. Lễ hội 83
3.3.1. Lễ cúng Đa Zồng 84
3.3.2. Lễ hội mùa xn 84
3.4. Văn hóa dân gian 87
3.4.1 Văn học dân gian 87
3.4.2. Nghệ thuật dân gian 89
3.5. Ngơn ngữ 90
3.6. Những chuyển biến trong văn hóa tinh thần của người Mơng ở huyện
Mai Châu tỉnh Hòa Bình 92
3.8. Mỗi quan hệ giao lưu văn hóa giữa người Mơng với các tộc người
khác trong huyện 95
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nói đến dân tộc là nói đến văn hóa, đến truyền thống và khả năng sáng
tạo văn hóa của mỗi dân tộc. Văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, cá
nhân là vấn đề khơng thể thay thế được và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc
được hình thành và phát triển qua sự sáng tạo của chính dân tộc đó. Nếu để
mất đi bản sắc văn hóa dân tộc thì khơng còn chính dân tộc mình nữa.Vì vậy
giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc là một việc làm hết sức quan
trọng và cấp bách nhằm triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Đảng về cơng
tác văn hóa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay trên thế giới và khu vực đang
diễn ra q trình khu vực hóa và tồn cầu hóa.
Việt Nam từ khi lập nước (Văn Lang – Âu Lạc) đã là quốc gia đa dân
tộc. Tính đa dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường trong q trình
phát triển của lịch sử, tạo thành một trong những đặc điểm nổi bật của nước
ta. Hiện nay nước ta có 54 thành phần dân tộc trong đó đa số là người kinh,
còn lại 53 dân tộc thiểu số anh em, các dân tộc Việt Nam đã khơng ngừng đấu
tranh xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc và tạo dựng nền văn hóa Việt
Nam “đậm đà giàu bản sắc”.
Nói đến văn hóa (vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần) là nói đến
những sản phẩm do trí óc và bàn tay con người sáng tạo nên. Đất nước Việt
Nam có được ngày hơm nay là thành quả to lớn, là sức sáng tạo khơng mệt
mỏi của 54 dân tộc anh em. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có nền văn
hóa chung “thống nhất trong đa dạng”, song mỗi dân tộc lại có địa vực cư
trú, điều kiện hồn cảnh lịch sử địa lý văn hóa riêng, trong q trình hình
thành và phát triển của mỗi dân tộc lại tạo dựng nên một truyền thống văn hóa
mang đặc trưng của dân tộc đó, và chính yếu tố đó đã tạo nên tổng thể bản sắc
của dân tộc Việt đa dạng và phong phú.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
2
Tính đa dạng của văn hóa dân tộc nước ta thể hiện trong sắc thái văn
hóa vùng miền, mỗi vùng miền lại mang những yếu tố, sắc thái văn hóa riêng
được thể hiện trong mọi mặt đời sống, văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh
thần. Trong văn hóa của mỗi dân tộc, đều có sự kết tinh của tinh hoa văn hóa
các dân tộc khác (văn hóa các dân tộc lân cận, văn hóa vùng và văn hóa nhân
loại). Trong q trình giao lưu và tiếp biến giữa các quốc gia, dân tộc với
nhau, làm cho nền văn hóa mang đậm bản sắc riêng của mỗi dân tộc ln có
sự ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa có đặc điểm bao trùm “thống nhất
trong đa dạng”. Đây là nét truyền thống văn hóa của dân tộc, nó vừa là nét
đặc thù vừa là nét hấp dẫn. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội là sản
phẩm của trí tuệ, tài năng, đạo lý của cả cộng đồng, là sự kết tinh những giá
trị tốt đẹp nhất trong mối quan hệ tương tác giữa con người – xã hội – tự
nhiên. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Bản sắc văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển trong
những điều kiện tự nhiên của lịch sử và con người cụ thể.
Nói đến văn hóa các dân tộc ở nước ta, đây là vấn đề mang tính chiến
lược lâu dài, mang tính thời sự nóng bỏng, đó là mối quan hệ giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại. Bởi vì bản thân văn hóa là một phạm trù lịch sử, nó
ln sống động và chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố nội sinh và ngoại sinh.
Trong đó yếu tố ngoại sinh là quan trọng khơng thể thiếu. Nhằm bảo tồn giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số nói riêng và bản sắc
văn hóa Việt Nam nói chung theo nghị quyết 5, BCH Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam (VIII) đã đề ra 10 nhiệm vụ cụ thể trong cơng cuộc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết
còn khẳng định, nhấn mạnh việc “coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá
trị truyền thống và xây dựng phát triển ngững giá trị mới về nền văn hóa,
văn nghệ thuật các dân tộc thiểu số”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
3
Mỗi dân tộc trên đất nước ta dù miền si hay miền ngược, đồng bằng
hay miền núi trong q trình phát triển đếu sáng tạo nên một nền văn hóa có
bản sắc và có giá trị.
Việc nghiên cứu văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số nói
chung là một việc làm cần thiết, phù hợp với tinh thần nghị quyết ban chấp hành
TW lần thứ 9 (khóa IX) Đảng ta: “Phải nghiên cứu để bảo tồn và phát huy
những di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc ít người ở Việt Nam”
Trên tinh thần đó việc nghiên cứu sưu tầm một cách đầy đủ, có hệ
thống kho tàng văn hóa dân gian của các dân tộc là việc làm thiết thực, nhằm
nâng cao hiểu biết về giá trị văn hóa của các dân tộc ít người, nhằm góp phần
bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa truyền thống, tạo lập cơ sở khoa
học cho các giải pháp hữu hiệu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố và
nâng cao tinh thần đồn kết dân tộc, thực hiện thành cơng các chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, nằm ở cửa ngõ của Tây Bắc vốn là q
hương của “nền văn hóa Hòa Bình” nổi tiếng, đã để lại nhiều di chỉ từ thời đồ
đá giữa, cách đây hàng vạn năm.
Tỉnh Hòa Bình có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, dân cư trong
tỉnh gồm 7 dân tộc: Mường, Thái, Kinh, Tày, Dao, Mơng, Hoa với tổng dân
số 803,3 nghìn người (theo danh mục điều tra dân số năm 2004). Trong đó
dân tộc Mơng sống tập trung chủ yếu ở hai xã Hang Kia và xã Pà Cò thuộc
huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình, có q trình lịch sử định cư lâu dài ở đây. Tại
hai địa bàn này từ xa xưa đã hình thành hai nhóm người Mơng: người Mơng
Đen và Mơng Hoa. Có thể thấy cho đến ngày nay người Mơng vẫn lưu giữ
được những nét bản sắc văn hóa riêng mang tính đặc thù, tiêu biểu của dân
tộc mình.
Là một người con của tỉnh Hòa Bình, được tận mắt chứng kiến những
giá trị văn hóa rất đặc sắc của các dân tộc trong vùng. Tơi thấy rằng những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
4
phong tục tập qn của người Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình còn
gần như lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống. Chính vì vậy tơi đã
mạnh dạn chọn đề tài: Đời sống văn hòa người Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh
Hòa Bình (1986 – 2010) làm luận văn thạc sỹ của mình. Luận văn sẽ góp
phần giáo dục truyền thống u nước, u q hương bản mường và lòng tự
hào dân tộc cho con em các dân tộc trong tỉnh Hòa Bình nói chung và người
Mơng ở huyện Mai Châu – tỉnh Hòa Bình nói riêng.
Việc chọn đề tài này chắc chắn có hiệu quả thiết thực trong việc đưa
nghị quyết của Đảng vào cuộc sống và phát triển đời sống văn hóa – xã hội
của các dân tộc tỉnh Hòa Bình nói chung và dân tộc Mơng ở huyện Mai Châu
nói riêng.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
“Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam” (Trích nghị quyết 5 khóa VIII Ban chấp
hành TW Đảng – phần nói về văn hóa các dân tộc thiểu số) [3-15].
Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có giá trị và sắc thái văn hóa riêng,
các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt
Nam. Việc giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc Mơng ở Việt Nam nói
chung và dân tộc Mơng ở Huyện Mai Châu – tỉnh Hòa Bình nói riêng là góp
phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
trong các vùng miền khác.
Cộng đồng người Mơng trong q trình thiên di và định cư lâu dài trên
lãnh thổ Việt Nam, họ đã sáng tạo nên một nền văn hóa mang sắc thái riêng
của tộc người. Cho đến nay việc sưu tầm và nghiên cứu văn hóa của người
Mơng vẫn đang là đề tài thu hút nhiều nhà khoa học nghiên cứu.
Trong những năm qua đã có một số cơng trình nghiên cứu về văn hóa
người Mơng với các tác giả như:
Cuốn Lịch sử người Mèo, 1924, của cha cố Savina (người Pháp), xuất
bản tại Hồng Kơng. Đây là cơng trình nghiên cứu về đặc điểm trong đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
5
văn hố và xã hội của người Mơng để phục vụ cho mục đích truyền đạo và
thiết lập ách thống trị của thực dân Pháp ở vùng người Mơng. Vì vậy, cơng
trình này mang nặng quan điểm của thực dân Pháp áp đặt khiên cưỡng khi
cho rằng người Mơng và văn hố người Mơng có nguồn gốc sâu xa từ phương
Tây. Mặc dù vậy, cơng trình này cũng có giá trị về mặt tư liệu trong việc
nghiên cứu về nguồn gốc và những tập tục xã hội của người Mơng;
Cuốn Dân ca Mơng của nhà sưu tầm văn hố dân gian Dỗn Thanh,
1984, NXB Văn học, là cơng trình sưu tập có hệ thống các bài hát dân ca của
người Mơng - một yếu tố quan trọng làm nên văn hố tinh thần của dân tộc
Mơng. Tác giả Bế Viết Bảng (chủ biên), 1987, Dân tộc Mèo – Các dân tộc ít
người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), NXB Khoa học xã hội, cũng đề cập tới
các mặt đời sống văn hóa của các tộc người ở vùng Tây bắc Việt Nam;
Cuốn Dân tộc Mơng ở Việt Nam của hai tác giả Hồng Nam và Cư Hồ
Vần, 1994, NXB Văn hố dân tộc. Các tác giả đã giới thiệu khái qt về lịch
sử di cư, tên gọi, địa bàn cư trú, phân nhóm, sinh hoạt vật chất và tinh thần
của nguời Mơng ở Việt Nam, trong đó có đề cập tới người Mơng ở Mù Cang
Chải. Tác giả Trần Hữu Sơn, 1996, Văn hóa Mơng, NXB văn hóa dân tộc, tác
phẩm đã nêu khái qt về những nét văn hóa đắc sắc của người Mơng;
Cuốn Âm nhạc dân tộc Mơng của Hồng Thao, 1997, NXB Văn hố dân
tộc. Trong tác phẩm này tác giả đi sâu nghiên cứu về các nhạc khí của dân
tộc Mơng, lời ca trong bài hát Mơng, trên cơ sở đó tác giả rút ra những đặc
điểm của âm nhạc Mơng. Đây là một tài liệu có giá trị quan trọng để nghiên
cứu về văn hố tinh thần của người Mơng ở Việt Nam nói chung và người
Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình nói riêng;
Tác giả Bùi Xn Trường, 1999, với tác phẩm: Tác dụng của luật tục
đối với việc quản lý xã hội ở các dân tộc Thái, Mơng – Tây Bắc Việt Nam.
NXB – VHDT, các tác phẩm này đã đề cập đến những phong tục tập qn của
một số dân tộc ở vùng Tây Bắc, trong đó có đề cập đến phong tục tập qn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
6
của người Mơng. Tiếp theo nhóm tác giả Ngơ Ngọc Thắng, Lê Sỹ Giáo,
Hồng Nam (2002), đã cho ra đời tác phẩm: Văn hóa bản làng truyền thống
các dân tộc Thái, H’Mơng vùng Tây Bắc Việt Nam. NXB-VHDT: đã cho biết
thêm về những yếu tố văn hóa truyền thống của người Mơng ở các tỉnh Tây
Bắc Việt Nam. Tiếp theo là tác giả Phạm Đức Dương với tác phẩm: Người
H’Mơng và tiếng nói của họ ( Bản thảo – tài liệu lưu trữ của viện Đơng Nam
Á), tác phẩm đã đi sâu nghiên cứu về ngơn ngữ của tộc người Mơng;
Cuốn Văn hố tâm linh của người Mơng ở Việt Nam truyền thống và
hiện đại của tác giả Vương Duy Quang, NXB - Văn hố Thơng tin, 2005. Tác
giả viết về đời sống tâm linh truyền thống của người Mơng, những nét mới
trong đời sống tâm linh của người Mơng hiện nay và những tác động của sự
biến đổi đó tới văn hố người Mơng, trong đó tác giả có đề cập tới đời sống
tâm linh của người Mơng ở Mù Cang Chải;
Ngồi ra còn phải kể tới cuốn Văn hóa truyền thống một số tộc người ở
Hòa Bình của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Nga, 2007, đã đề cập đến những
khía cạnh về đời sống văn hóa của người Mơng ở xã Pà Cò huyện Mai Châu
tỉnh Hòa Bình. Tuy nhiên tác phẩm này chưa nghiên cứu một cách tồn diện
và sâu sắc vế tồn bộ đời sống văn hóa của người Mơng ở huyện Mai Châu -
tỉnh Hòa Bình. Vì vậy tơi đã chọn đề tài tìm hiểu “Đời sống văn hóa người
Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình (1986 -2010)” làm luận văn thạc sỹ
của mình.
3. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đời sống văn
hóa người Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình (1986 – 2010), với hai lĩnh
vực là: Đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Giới hạn về khơng gian: Luận văn nghiên cứu văn hóa người Mơng
ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
7
+ Giới hạn về thời gian: Đề tài nghiên cứu về văn hóa người Mơng ở
huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình từ 1986 đến 2010.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nguồn tài liệu
- Với đề tài tìm hiểu “ Đời sống văn hóa người Mơng ở huyện Mai
Châu tỉnh Hòa Bình (1986 -2010)” là đề tài nghiên cứu lịch sử văn hóa địa
phương còn mới mẻ, nguồn tài liệu còn ít vì vậy để hồn thành luận văn này
tơi đã cố gắng sưu tầm, tập hợp tư liệu ở nhiều nguồn khác nhau.
1.1. Các tác phẩm lịch sử, các sách chun khảo
Đại việt sử ký tồn thư, Đại nam thực lục, Việt sử thơng giám cương
mục… do nhà nước phong kiến biên soạn, sách viết về dân tộc học, sách lịch
sử địa phương.
1.2. Các bài viết đăng trên tạp chí
Tạp chí dân tộc học, Tạp chí nghiên cứu con người, Tạp chí Đơng Nam
Á, Tạp chí nghiên cứu lịch sử…
1.3. Nguồn tư liệu địa phương
- Tư liệu địa phương:
Lịch sử Đảng bộ Hòa Bình, lịch sử Đảng bộ huyện Mai Châu và một số
tác phẩm văn hóa văn nghệ địa phương, báo Hòa Bình.
- Tư liệu truyền miệng:
Điền dã các bản mường nơi có truyền thống văn hóa, văn nghệ và
truyền thống cách mạng. Qua việc đi thực tế, khảo sát, trao đổi với các già
bản, so sánh các nguồn tư liệu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi coi trọng khâu giám định
nguồn tư liệu để bảo đảm độ chính xác, khoa học của các tư liệu sử học.
Triệt để sử dụng phương pháp luận sử học, phương pháp Mac-xit,
phương pháp liên ngành. Kết hợp phương pháp liên ngành, điều tra dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
8
học, phương pháp so sánh đối chiếu các nguồn tư liệu có thể liên quan đến đề
tài để từ đó rút ra những kết luận khoa học.
Ngồi ra chúng tơi ln quan tâm, đặt mối quan hệ của đề tài văn hóa
dân tộc Mơng ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong mối quan hệ với các
dân tộc khác cộng cư ở địa phương, để có cái nhìn tổng thể, tồn diện về đề tài
đồng thời làm rõ đặc điểm đa dạng trong thống nhất của văn hóa Việt Nam.
5. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN
1. Luận văn là cơng trình ngiên cứu tương đối đầy đủ có hệ thống về
đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Mơng ở huyện Mai
Châu tỉnh Hòa Bình chủ yếu là từ năm 1986 đến 2010.
2. Trên cơ sở đó luận văn làm rõ q trình hình thành phát triển và đặc
điểm trong đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của người Mơng Ở huyện Mai
Châu tỉnh Hòa Bình.
3. Luận văn làm sáng tỏ sự chuyển biến trong đời sống văn hóa vật chất
của người Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình từ 1986 tới năm 2010.
4. Luận văn là một tài liệu bổ ích góp phần vào việc biên soạn giảng
dạy về lịch sử địa phương và giáo dục truyền thống cho nhân dân ở địa phương.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngồi phần mở, kết luận, phụ lục bao gồm ảnh minh họa, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Khái qt về huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình.
Chương 2: Văn hóa vật chất của người Mơng ở huyện Mai Châu tỉnh
Hòa Bình ( 1986 – 2010)
Chương 3: Văn hóa tinh thần người Mơng ở huyện Mai Châu- tỉnh Hòa
Bình( 1986 – 2010)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
9
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN MAI CHÂU - HỊA BÌNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
10
BẢN ĐỒ PHÂN BỐ DÂN CƯ HUYỆN MAI CHÂU - HỊA BÌNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
11
Chương 1
KHÁI QT VỀ HUYỆN MAI CHÂU TỈNH HỊA BÌNH
1.1. Khái qt huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình
1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Mai Châu là một huyện miền núi của tỉnh Hòa Bình, nằm ở phía Tây
Bắc của tổ quốc. Đi hết huyện Tân Lạc ở phía Đơng, qua đèo Thung Khe là
đến Mai Châu với những ngọn núi lớn nhỏ và những thung lũng lớn; huyện có
tọa độ địa lý là 20
0
24’- 20
0
45’ vĩ bắc và 104
0
31’- 105
0
16’ kinh đơng;
- Phía đơng giáp huyện Tân Lạc
- Phía Bắc giáp huyện Đà Bắc;
- Phía Tây giáp huyện Mộc Châu ( Sơn La);
- Phía Nam giáp huyện Quan Hóa và huyện Bá Thước (Thanh Hóa).
Theo số liệu thống kê năm 2004, huyện Mai Châu có tổng diện tích đất
tự nhiên là 571km
2
(chiếm 12,4% diện tích tồn tỉnh) Diện tích đất nơng
nghiệp là 5.033,24 ha, chiếm 9,71%; diện tích đất lâm nghiệp là 35.505,15 ha,
chiếm 68,46%; phần còn lại là đất ở, đất chun dùng, đất chưa sử dụng và
sơng, suối, núi đá chiếm 21,83%., dân số trung bình là 52.615 người (chiếm
6,6% dân số tồn tỉnh), mật độ dân số là 92,1 người/km
2
(bằng 1,8% mật độ
dân số tồn tỉnh).[3 - 15]
Về địa hình Mai Châu rất đa dạng, như đã nói bao gồm cả vùng đất
thấp và vùng núi cao. Vùng núi cao có những dãy núi đá vơi dựng đứng chạy
dọc từ Xăm Khòe, Mai Hịch, qua Mai Hạ đến Chiềng Châu, ở giữa các dãy
núi là các thung lũng khá bằng phẳng. Còn vùng đất thấp bao gồm hai loại đất
phù sa (sơng Mã và sơng Đà) và đất ngun sinh. Mỗi loại đất có nét đặc
trưng riêng phù hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau, nhất là cây lúa.
Địa hình Mai Châu khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều khe, suối và núi
cao. Theo đặc điểm địa hình, có thể chia thành hai vùng rõ rệt:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
12
Vùng thấp: phân bố dọc theo suối Xia, xuối Mùn và quốc lộ 15, diện
tích trên 2.000ha địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ.
Vùng cao: giống như một vành đai bao quanh huyện, gồm 8 xã với tổng
diện tích trên 400 km
2
, có nhiều dãi núi, địa hình cao hiểm trở. Độ cao trung
bình so với mực nước biển là 500 - 600m, điểm cao nhất là 1.287m (núi Spai
Linh thuộc địa phận xã Pà Cò), điểm thấp nhất là 220m (thuộc thị trấn Mai
Châu). Độ dốc trung bình từ 30
0
- 35
0
, nhìn tổng thể địa hình huyện Mai Châu
thấp dần theo chiều từ Tây Bắc xuống Đơng Nam.
Ở vị trí cửa ngõ vùng Tây Bắc, khí hậu Mai Châu chịu ảnh hưởng rõ rệt
của chế độ gió mùa Tây Bắc, mang sắc thái riêng của khí hậu nhiêt đới núi
cao, bức xạ của vùng tương đối thấp, số giờ nóng trong ngày vào mùa hè là 5
- 6 giờ, mùa đơng là 3 - 4 giờ. Độ ẩm trung bình năm là 82%, khí hậu Mai
Châu một năm có hai mùa rõ rệt, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và
mùa khơ kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, bình qn có 122 ngày
mưa/năm, cao nhất là 146 ngày, chịu ảnh hưởng nhiều của bão lốc và gió lào.
Trong mùa mưa có gió nam ln bổ sung độ ẩm và hơi nước, cường độ gió
tương đối mạnh. Mùa khơ kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau
với khí hậu khơ hanh, độ ẩm xuống thấp, có ngày có sương muối, sương mù
và mưa phùn giá rét. Biến động nhiệt độ trong ngày cao. Hướng gió thịnh
hành là gió mùa đơng bắc.
Hệ đất đai ở Mai Châu được hình thành trên nền đá cổ hoặc đá trẻ, phát
sinh trên các loại đá trầm tích biến chất. Một số nơi do khai thác q lâu nên
đất đã bị xói mòn trơ sỏi đá. Bên cạnh các loại đất đồi núi, trên lãnh thổ Mai
Châu còn một số loại đất Feralit biến đổi do trồng lúa nước và đất phù sa. Lớp
đất ở Mai Châu chủ yếu gồm các loại đất đỏ và đất mùn. Chỉ riêng hai nhóm
đất này đã chiếm tới 92,02% diện tích tự nhiên. Đất có kết cấu tốt, độ phì
nhiêu tự nhiên tương đối cao. Tuy nhiên, do độ dốc lớn, phân bố ở địa hình
chia cắt mạnh, đất có thành phần cơ giới nhẹ nên khả năng bị rửa trơi cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
13
Mai Châu có nguồn tài ngun rừng khá phong phú, chủ yếu là các
kiểu rừng tự nhiên với nhiều lồi cây nhiệt đới, gồm các loại gỗ q (lát hoa,
sến ), các loại cây đặc sản có giá trị (sa nhân, song ), các loại tre, nứa,
luồng Tuy nhiên, do q trình khai thác khơng có kế hoạch kéo dài, thiếu tổ
chức, quản lý, thêm vào đó là việc đốt phá rừng làm nương, rẫy đã dẫn đến
hậu quả là hiện nay nguồn tài ngun rừng nơi đây đã nhanh bị cạn kiệt. Q
trình chặt phá thiếu tổ chức, phát nương làm rẫy của bà con đã tạo ra những
trảng cỏ nghèo, độ che phủ thấp, huỷ diệt mơi trường sinh sống của các lồi
động vật. Hiện nay, các loại động vật rừng như lợn, gấu, khỉ, vượn, hoẵng, gà
lơi, rắn trong các thảm rừng hiện còn ở Mai Châu rất hiếm, nếu có thì số
lượng ít, sống tập trung trong các khu rừng cấm. Đến năm 2002, theo số liệu
thống kê, tồn huyện chỉ còn 35.507,91 ha rừng với trữ lượng gỗ khoảng
2.615 m3.[7, tr.895]
Được thiên nhiên ưu đãi, cảnh quan mơi trường nơi đây rất đẹp, với núi
non hùng vĩ, thảm rừng được bảo vệ ln giữ màu xanh tươi. Ngồi ra, Mai
Châu từ lâu đã nổi tiếng vơi những khu di tích, danh thắng như hang Khồi,
hang Láng, hang Lác, bản Bước, bản Lác, xóm Hang Kia gắn liền với lích
sử phát triển của Mai Châu có hệ thống sơng, suối khá dày đặc, là nguồn cung
cấp nước phong phú phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Ngồi hai
con sơng lớn chảy qua là sơng Đà và sơng Mã, ở Mai Châu còn có 4 con suối
lớn là suối Xia dài 40 km, suối Mùn dài 25 km, suối Bãi Sang dài 10 km và
suối Cò Nào dài 14 km cùng với nhiều khe, lạch, mạch nước, hệ thống các ao,
hồ tự nhiên và nhân tạo.
Tuy nhiên, do địa hình có độ dốc lớn nên khả năng trữ nước của hệ
thống sơng, suối ở Mai Châu kém. Vào mùa khơ, một số xã thường lâm vào
tình trạng thiếu nước trầm trọng như Noong Lng, Thung Khe. Ngược lại,
chính vì mất rừng và địa thế dốc đã tạo điều kiện hình thành lũ qt có sức tàn
phá ghê gớm sau các trận mưa lớn trong mùa lũ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
14
Hệ thống núi đá của Mai Châu là nguồn đá ngun liệu dồi dào cung
cấp cho ngành xây dựng cũng như các ngành sản xuất vật liệu xây dựng. Một
số xã ở vùng cao như Pù Bin, Noong Lng, Nà Mèo còn rải rác có vàng sa
khống với trữ lượng khơng lớn.
Từ khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới, Nhà nước ta đã có nhiều
chính sách chú ý tới các vùng dân tộc miền núi. Huyện Mai Châu cũng là một
trong số những nơi được thụ hưởng và thực hiện rất nhiều chính sách đối với
bà con dân tộc thiểu số. Trải qua q trình phát triển lâu dài địa điểm trên vẫn
mang đậm bản sắc riêng có của người Mai Châu đồng thời trở thành nơi thu
hút nhiều khách du lịch. Đặc biệt từ khi thực hiện các chương trình chính sách
dân tộc theo nghị định số 135 và 134 của Chính Phủ thì việc đầu tư và phát
triển, trình độ dân trí, đời sống bà con nhân dân ngày cành được nâng cao.
Các khu du lịch ở Mai Châu cũng được đầu tư và phát triển mạnh mẽ hơn, tận
dụng những cảnh quan và điều kiện tự nhiên vốn có ở nơi đây, bà con đã tạo
nên những địa điểm du lịch văn hóa, lịch sử, tự nhiên thu hút đơng đảo khách
du lịch.
1.1.2. Lịch sử hình thành
Tỉnh Hòa Bình là một tỉnh miền núi, nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam, là
nơi có vị trí chiến lược quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nói chung
và của vùng Tây Bắc nói riêng về an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội,
địa giới hành chính tồn tỉnh có 10 huyện một thị xã, trong tỉnh có rất nhiều thành
phần dân tộc cùng sinh sống.
Huyện Mai Châu trước kia được gọi là Mường Mai, được hình thành
vào khoảng thế kỷ XIII, thời nhà Trần, Mường Mai thuộc lộ Đà Giang, xứ
Hưng Hóa. Dưới triều Nguyễn, đổi thành châu Mai Châu, gồm có tổng Thanh Mai
và tổng Bạch Mai.
Kể từ thời Pháp thuộc, châu Mai Châu thuộc phủ Chợ Bờ, tỉnh Mường
Hòa Bình. Tháng 10 - 1890, châu Mai Châu và châu Đà Bắc hợp làm một, gọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
15
là Mai Đà. Sau một thời gian tồn tại lại tách làm hai châu cho tới năm 1941
lại hợp thành huyện Mai Đà. Sau cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp
thắng lợi, xuất phát từ u cầu thực tiễn của cách mạng đến năm 1956, Thủ
tướng Chính phủ ký quyết định tách huyện Mai Đà thành hai huyện là huyện
Mai Châu và huyện Đà Bắc, tồn tại và phát triển cho tới ngày nay.
Năm 1957, theo quyết định của Liên khu III, huyện Mai Châu bao gồm 5
xã: Mai Thượng, Tân Mai, Mai Hạ, Bao La và Pù Bin. Trong thời kỳ đấu tranh
thống nhất đất nước, địa giới hành chính của huyện khơng có gì thay đổi lớn.
Từ năm 1986, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, huyện Mai Châu
bao gồm 21 xã và 1 thị trấn, sau đó huyện cũng đã có một số thay đổi trong
việc tách nhập các xã trong hai huyện Mai Châu và Đà Bắc. Đến năm 2010,
huyện đã ổn định với 23 đơn vị hành chính gồm 22 xã: Tân Dân (sáp nhập
năm 2010), Tân Mai, Mai Hạ, Bao La, Pù Bin, Cun Pheo, Piềng Vế, Xăm
Khòe, Mai Hịch, Vạn Mai, Chiềng Châu, Nà Phòn, Nà Mèo, Tòng Đậu, Đồng
Bảng, Phúc Sạn, Tân Sơn, Noong Lng, Ba Khan, Thung Khe, Hang Kia, Pà
Cò và thị trấn Mai Châu. Cùng với việc gia tăng các đơn vị hành chính trong
huyện là sự gia tăng dân số, bên cạnh đó là sự giao lưu, tiếp biến giữa các
nền văn hóa trên địa bàn huyện cũng như với các khu vực xung quanh.
1.1.3. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội
1.1.3.1. Tình hình kinh tế
Về phát triển sản xuất: thực hiện các mơ hình sản xuất mới với sự
chuyển giao, vật tư cơng cụ sản xuất, được hỗ trợ và áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong sản xuất, qua đó đã làm tăng năng suất, sản lượng, sản
phẩm nơng lâm nghiệp ngày càng tăng góp phần tăng thu nhập cho người dân
trong vùng. Năm 2010 có trên 75% số hộ đạt được mức thu nhập bình qn
đầu người trên 13,5 triệu đồng/năm.
- Về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng được cải thiện, các xã đều có trường
tiểu học và trung học cơ sở, có điện sinh hoạt và đường ơ tơ đến trung tâm xã,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
16
có 98,6% trẻ em trong độ tuổi được đến trường. Về Y tế, các xã đều có Trạm
y tế, đảm bảo thực hiện cơng tác vệ sinh phòng dịch, khám chữa bệnh thơng
thường, đảm bảo sức khoẻ cho người dân.
- Về nâng cao năng lực: Cơng tác đào tạo nâng cao năng lực cán bộ xã
bản được quan tâm.
- Về thu nhập và giảm nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, trung bình
giảm 6,1%/năm (đầu năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo trung bình là 52,74%, đến năm
2010 giảm xuống còn 22%).[6, tr.13].
1.1.3.2. Tình hình văn hóa
- Về nâng cao đời sống văn hố, xã hội: Đời sống văn hố của đồng bào
được cải thiện, văn hố truyền thống được bảo tồn, giữ gìn và phát triển,
nhiều lễ hội, phong trào hoạt động văn hố mới được khuyến khích. Cơng tác
tun truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng pháp luật của Nhà
nước tới cán bộ, Đảng viên, nhân dân các xã được tăng cường, góp phần đẩy
lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và tăng
cường khối đại đồn kết tồn dân tộc. Trên 75% số hộ được sử dụng nước
sinh hoạt hợp vệ sinh; 90,61% số hộ được sử dụng điện; trên 99,8% học sinh
tiểu học; 94,93% học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đến trường;
Bên cạnh việc thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước,
Đảng bộ và nhân dân trong huyện ln có ý thức gìn giữ và phát huy những
bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc trong huyện, bên cạnh việc giao lưu
tiếp thu các yếu tố văn hóa mới của các dân tộc anh em trên địa bàn cũng như
các khu vực lân cận. Từ đó góp phần phát triển hơn nữa nền kinh tế, văn hóa -
xã hội của huyện.
1.1.3.3. Tình hình xã hội
Huyện Mai Châu được thành lập ngày 15 tháng 01 năm 1957, được
tách từ huyện Mai Đà cũ. Mai Châu là nơi tập trung sinh sống của nhiều dân
tộc anh em. Năm 2010, dân số của huyện 52.615 người (chiếm 6,6% dân số
tồn tỉnh), mật độ dân số là 92,1 người/km
2
(bằng 1,8% mật độ dân số tồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
17
tỉnh). Theo thống kê trên tồn huyện có trên 20 dân tộc cùng sinh sống, trong
đó có 5 dân tộc chiếm phần đa dân số của huyện là: Thái 29.855 người (chiếm
59,9%), Dao 1.029 người (chiếm 2,1%), Tày 54 người (chiếm 0,1%), Mơng (
chiếm 10,1%), Kinh( chiếm 12,5%), Mường( chiếm 15,1%). Ngồi ra là đồng
bào các dân tộc Dao, Tày, Hoa, Nùng, Khơ Me sự phân bố dân cư trong
huyện các dân tộc sinh sống đan xen ở hầu hết các xã của huyện. Thành phần
dân cư cho thấy huyện Mai Châu là nơi diễn ra sự giao lưu tiếp xúc nhiều nét
văn hóa khác nhau trong địa bàn tỉnh Hòa Bình, trong đó người Mơng cũng là
một trong những cộng đồng người cấu thành nên sự đa dạng của bản săc văn
hóa ở khu vực huyện Mai Châu.
Huyện Mai Châu có một bề dày lịch sử đáng trân trọng. Trong hơn sáu
thế kỉ xây dựng và phát triển, đồng bào các dân tộc huyện đã để lại nhiều dấu
ấn lịch sử đậm nét của vùng dất Mường Mai xưa kia.
Từ trước năm 1945, xã hội người Thái ở Mai Châu được phân chia
đẳng cấp rất rõ rệt. Thống trị xã hội là hệ thống Phìa, Tạo cha truyền con nối,
bên dưới các là các Tạo mường làm Bang tá, Chánh tổng. Trực tiếp cai quản
làng bản là các Tạo Poọng, Tạo bản Khi đất nước bị thực dân Pháp xâm
lược, chế độ Phìa, Tạo dần trở thành bộ máy tay sai của thực dân từ tổng đến
xã, nhằm dễ bề cai trị và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân, bọn thực
dân, phong kiến đã sử dụng thủ đoạn chia rẽ sự đồn kết dân tộc, đầu độc
người dân bằng tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan. Tuy nhiên, với tinh thần dân tộc
tự tơn, đồng bào các dân tộc ở Mai Châu đã khơng ngừng đấu tranh cho tự do
của mình và của đất nước. Tổng kết hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ,
qn và dân Mai Châu đã được tặng thưởng nhiều huy chương các loại, nhiều
bằng khen của Trung ương và Tỉnh.
1.2. Khái qt về người Mơng ở huyện Mai Châu
1.2.1. Nguồn gốc, q trình nhập cư và định cư
Cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân hơn 80 vạn
người đứng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc và cư trú ở vùng núi cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
18
phía Bắc và phía Tây, người Mơng có nền văn hố rất phong phú, giàu bản
sắc và có truyền thống từ lâu đời.
Người Mơng sinh sống ở Việt Nam có khoảng 80 vạn người thuộc
nhóm ngơn ngữ: Mơng - Dao. Người Mơng (từ Q Châu - Vân Nam - Quảng
Tây - Trung Quốc) thiên di vào Việt Nam cách ngày nay khoảng 300 năm,
bằng nhiều đợt, rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối thế kỷ XIX. Người
Mơng vào Việt Nam là do ngun nhân: trong lịch sử các triều đại phong kiến
Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và đẫm máu, đàn áp
nhiều tộc người (trong đó có người Mơng), để giành quyền cai trị đất nước,
làm người Mơng phải thiên di đi khắp nơi.
Điểm đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao ngun Đồng Văn
(Hà Giang), nơi địa đầu Tổ quốc Việt Nam. Vì thế, người Mơng sinh sống ở
Việt Nam đều coi cao ngun Đồng Văn là q hương đất tổ của mình. Người
Mơng phân chia thành 4 nhóm: Mơng Hoa (Mơng Lềnh), Mơng Đen (Mơng
Dú), Mơng Xanh (Mơng Chúa), Mơng Trắng (Mơng Đu). Tuy có 4 nhóm
Mơng khác nhau, nhưng về ngơn ngữ và văn hố cơ bản giống nhau, sự khác
nhau giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.
Người Mơng phân bố hầu khắp trên các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Giang, Tun Quang,
n Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hồ Bình, Thanh Hố, Nghệ
An và một số ít ở Phú Thọ. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ
phận Người Mơng di cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây Ngun. Người Mơng ở
Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ về nguồn gốc, ngơn ngữ, văn hố với cộng
đồng người Mẹo ở Lào, người Mơng ở Thái Lan, người Miêu ở Trung Quốc
và Myanma.
Tuy cư trú ở độ cao từ 700m đến 1.500m, rải rác khắp nơi trên miền núi
phía Bắc Việt Nam và trên Tây Ngun, nhưng tộc người Mơng vẫn duy trì được
bản sắc văn hố độc đáo của mình trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam.
Theo các nhà dân tộc học Việt Nam thì phần lớn những người Mơng ở
các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Q Châu, Quảng Tây và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />
19
Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hố, Nghệ An di
cư đến Việt Nam qua Lào. Người Mơng đến Việt Nam bằng các con đường
khác nhau và chia thành nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:
- Đợt thứ nhất, khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù, Giàng từ Q Châu
đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thời gian vào
qng cuối đời Minh, đầu đời thanh của lịch sử Trung Quốc, tương đương với
những năm có phong trào của người Miêu ở Q Châu chống lại chính sách
“cải tổ quy lưu” và bị thất bại, cách đây trên 300 năm. Từ đây, họ bắt đầu tiếp
tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đơng Bắc Việt Nam;
- Đợt thứ hai, khoảng trên 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc họ
Vàng, họ Lý cũng vào khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm khác số người ít
hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hồng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai,
Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ gồm các họ Vực, Sùng chuyển
sang phía Tây Bắc Việt Nam. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây trên
200 năm. Một số hộ người Mơng này sau đó tiếp tục di cư rải rác đến các tỉnh
của Tây Bắc Việt Nam;
- Đợt thứ ba, số người Mơng di cư vào Việt Nam đơng nhất, gồm
khoảng trên 10 ngàn người. Phần lớn họ từ Q Châu, có một số từ Quảng
Tây và Vân Nam sang, chủ yếu vào các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, n Bái…
Thời gian của đợt di cư này tương đương với thời kỳ của phong trào “Thái
Bình Thiên Quốc”, trong đó có người Miêu tham gia, chống lại nhà Mãn
Thanh từ năm 1840 đến 1868. Về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các
tỉnh thuộc Đơng Bắc và Tây Bắc Việt Nam.
Về sau hàng năm vẫn có người Mơng di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các
con đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tun Quang.
Riêng các nhóm Mơng cư trú ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An và các huyện
giáp biên giới Lào của tỉnh Sơn La như: Mai Sơn, Mộc Châu, Sốp Cộp, Sơng
Mã cũng từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc vào trên dưới 100 năm trở lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN />