Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Kết Hợp Xóa Đói, Giảm Nghèo Với Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Ở Huyện Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.55 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
.................o0o..................

§Ò TµI NGHI£N CøU KHOA HäC CÊP TR¦êNG
MÃ SỐ: T2012 – 41
Tên đề tài:

KẾT HỢP XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HUYỆN ĐẠI TỪ - TỈNH
THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

Chủ trì đề tài: Phạm Thị Nga

Thái Nguyên, tháng 12 năm 2012


1
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tên đề tài: “Kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hôi ở huyện Đại
Từ - Tỉnh Thái Nguyên hiện nay”.

Mã số: T2012 – 41

Chủ trì đề tài: Phạm Thị Nga
Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Tập thể phối hợp thực hiện: Bộ môn Lý luận chính trị - Khoa Khoa học Cơ bản –
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
2. Mục tiêu
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về đói, nghèo và thực hiện kết hợp xoá
đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói chung.


- Làm rõ thực trạng đói nghèo và việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo gắn với phát
triển kinh tế - xã hội huyện Đại Từ giai đoạn 2006 - 2011.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm
nghèo gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở huyện Đại Từ giai đoạn
2011 - 2015.
3. Nội dung chính
- Tìm hiểu các vấn đề lý luận cơ bản về đói, nghèo và thực hiện kết hợp xoá đói,
giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói chung.
- Phân tích thực trạng việc kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã
hội ở huyện Đại Từ thời gian qua và chỉ ra nguyên nhân ảnh hưởng.
- Đánh giá những tồn tại và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong công tác xóa
đói, giảm nghèo nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Huyện Đại Từ
- Đưa ra những giải pháp cơ bản về kết hợp xoá đói, giảm nghèo trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội huyện Đại Từ thời gian tới.
4. Kết quả đạt được
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc kết hợp xóa đói, giảm nghèo với phát triển kinh
tế - xã hội huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp xóa đói, giảm nghèo gắn với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Đại Từ giai đoạn 2011 – 2015.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập cho sinh
viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên


2
SUMMARY
1. Project Title: “Combine poverty alleviation with economic and social development
in Dai Tu district, Thai Nguyen province today”.

Code number: T2012 - 41


- Coodinator: Pham Thi Nga
- Responsible agencies subject: Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry
- Collective coordinate implementation: Department of Political Theory - Basic Science
- University of Agriculture and Forestry, Thai Nguyen.
2. Objectives
- An overview of the basic theoretical issues of hunger, poverty and make poverty
alleviation with the socio-economic development in rural areas in general.
- Clarify the situation of poverty and the implementation of poverty reduction
associated with socio-economic development in Dai Tu District 2006 – 2010.
- Proposed a number of measures to contribute to the implementation of the poverty
reduction associated with the task of socio-economic development in rural Dai Tu district
for the period 2011 - 2015.
3. Main content
- Learn the basic theoretical issues of hunger, poverty and make poverty alleviation
with the socio-economic development in rural areas in general.
- Situation Analysis combining poverty reduction with social and economic
development in Dai Tu district over time and cause impact.
- Assess the existence and the question to be addressed in the poverty reduction to
social and economic development in the province Dai Tu District
- Given the combined basic solution to poverty alleviation in the process of socioeconomic development Dai Tu district near future.
4. Results achieved
- Analysis, assessing the situation combine poverty reduction with social and
economic development Dai Tu district, Thai Nguyen province between 2006 and 2010.
- Suggest some basic solutions to incorporate poverty reduction associated with the
task of socio-economic development in Dai Tu district for the period 2011 - 2015.
- Threads can be used as a reference in the learning process for students of Thai
Nguyen University of Agriculture and Forestry


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xoá đói, giảm nghèo trở thành vấn đề toàn cầu, là mục tiêu của thiên
niên kỷ XXI và thế giới đã lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là “Ngày Thế giới
xoá đói, giảm nghèo”. Đến nay đói, xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững
luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên
suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ
quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công tác xoá đói, giảm
nghèo đã được xã hội hoá, trở thành công việc của mọi cấp, mọi ngành và thu
hút được sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thành tựu xoá đói,
giảm nghèo của Việt Nam đã được thế giới đánh giá cao là một trong 10 nước
có tốc độ xoá đói, giảm nghèo nhanh nhất.
Huyện Đại Từ nằm ở vùng tây - tây bắc tỉnh Thái Nguyên, trong toạ độ
địa lý từ 21030’ đến 21050’ độ vĩ Bắc, 105032’ đến 105042 độ kinh Đông;
phía Bắc giáp huyện Định Hoá, phía Nam giáp huyện Phổ Yên và thành phố
Thái Nguyên, phía Đông giáp huyện Phú Lương, phía Tây giáp 2 tỉnh Tuyên
Quang và Vĩnh Phúc. Thị trấn huyện lỵ Đại Từ cách trung tâm thành phố Thái
Nguyên 25 km về phía Tây Bắc. Là huyện có nhiều tài nguyên khoáng sản,
mặc dù trữ lượng nhỏ, tuy nhiên đây là nhân tố quan trọng hình thành các cơ
sở công nghiệp khai thác phục vụ cho sản xuất công nghiệp phát triển và xuất
khẩu. Bên cạnh đó, vị trí địa lý có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát
triển của tập đoàn vật nuôi và cây trồng phong phú, lợi thế này thích hợp cho
sự phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp hiện nay của huyện.
Tuy nhiên, do kết cấu hạ tầng còn chưa thực sự phát triển, thu nhập
bình quân đầu người của huyện còn thấp và chưa đồng đều giữa các địa bàn
trong huyện, tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện còn cao. Do đó, vấn đề xoá đói
giảm nghèo đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ



4
cu kinh t ca Huyn. õy l vn khụng ch cú ý ngha trong vic thc
hin mc tiờu chung ca c tnh m cũn cú vai trũ thỳc y kinh t - xó hi ca
huyn phỏt trin, ng thi ỏp ng yờu cu trong tin trỡnh hi nhp v phỏt
trin. Do đó việc nghiên cứu vn Kt hp xoỏ úi, gim nghốo vi phỏt
trin kinh t - xó hụi huyn i T - Tnh Thỏi Nguyờn hin nay là cách
nhìn nhận nghiêm túc, trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng,
nhằm sớm đ-a huyn i T sm thoỏt khi tỡnh trng úi nghốo, tng bc
phỏt trin kinh t - xó hi nhanh v bn vng.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cu liờn quan n ti
n nay nc ta ó cú nhiu cụng trỡnh nghiờn cu, nhiu ti tt
nghip ó cp n vn xoỏ úi, gim nghốo. Trong cỏc cụng trỡnh ó
c cụng b cú hai hng nghiờn cu ỏng chỳ ý l:
Th nht, nhúm cỏc cụng trỡnh phõn tớch vn nghốo úi Vit Nam
núi chung nh:
1. Nguyn Hu Dng (2007), "Mt s vn lý lun v thc tin v xoỏ úi,
gim nghốo theo hng bn vng", Tp chớ Lý lun chớnh tr, (3).
2. Trn Th Hng (2001), "Vn xoỏ úi, gim nghốo trong nn kinh t th
trng Vit Nam hin nay, Nxb Thng kờ, H Ni.
3. Hi tho khoa hc v thc tin (1999), Nhng gii phỏp tng cng ngun lc
thc hin mc tiờu xoỏ úi, gim nghốo, Tp chớ Cng sn, (20).
4. Nguyn Hi Hu (2006), "Hng ti gim nghốo ton din, bn vng, cụng bng
v hi nhp", Tp chớ Cng sn, (9).
5. Phm Gia Khiờm (2006), "Xoỏ úi, gim nghốo nc ta - thnh tu v
gii phỏp", Tp chớ Cng sn, (2 + 3).
6. Nguyn Th Nga (2007), "Xoỏ úi, gim nghốo nhỡn t gúc kt hp
tng trng kinh t vi cụng bng xó hi nc ta hin nay", Tp chớ
Cng sn, (5)..
7. Hi tho khoa hc v xoỏ úi, gim nghốo dú B Lao ng Thng binh
v Xó hi phi hp vi Tp chớ Cng sn, t chc thỏng 4, nm 2008.



5
8. Hội thảo “Khu vực miền núi phía Bắc với công cuộc xoá đói, giảm nghèo
thông qua phát triển du lịch cộng đồng” do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch phối hợp với UBND tỉnh Thái Nguyên đăng cai tổ chức tại thành phố
Thái Nguyên tháng 10/2007.
Nhóm các công trình này đã phân tích nguyên nhân, thực trạng và từ đó
đưa ra các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề xoá đói, giảm nghèo nhằm
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam nói chung.
Thứ hai, nhóm các công trình phân tích về vấn đề nghèo đói ở một số
tỉnh, khu vực với những cách tiếp cận khác nhau như:
9. Trần Thái Học (2007), "Những giải pháp cơ bản để giảm nghèo cho đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên", Tạp chí Cộng sản, (4).
10.Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo (2007),
“Xoá đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số: Phương pháp tiếp
cận”.
11.Nguyễn Khánh Mậu (2007), "Xoá đói, giảm nghèo vùng nông thôn các
tỉnh Nam bộ dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội Xoá đói, giảm nghèo
của Đảng", Tạp chí Khoa học chính trị.
12.Nguyễn Hoàng Lý, (2009) “Xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai – Thực
trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13.Trương Văn Thành, (2010) “Thực trạng và giải pháp xoá đói, giảm nghèo
ở tỉnh Tây Ninh hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
14. Trần Đình Đàn, (2009), “Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm
xoá đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh”,Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội….
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận và nghiên cứu

vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nhiều góc độ, nhiều địa phương khác nhau và
gợi mở ra hướng nghiên cứu mới bổ ích.


6
Để thực hiện đề tài khoa học này, tác giả có lựa chọn và kế thừa một số
kết quả nghiên cứu đã công bố của các tác giả nói trên về những vấn đề lý
luận liên quan. Đồng thời, tác giả kết hợp khảo sát thực tiễn ở nông thôn tỉnh
Thái nói chung và huyện Đại Từ nói riêng để phân tích, từ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương dựa trên cơ sở những
đường lối, quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà
nước và của tỉnh Thái Nguyên đề ra trong những năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng đói nghèo và việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở
huyện Đại Từ giai đoạn 2006 - 2010. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2011 – 2015
trên địa bàn huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về đói, nghèo và thực hiện kết
hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói
chung.
- Đánh giá thực trạng việc kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Đại Từ thời gian qua và chỉ ra nguyên nhân ảnh
hưởng.
- Đưa ra những giải pháp cơ bản về kết hợp xoá đói, giảm nghèo trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội huyện Đại Từ thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề xoá đói, giảm nghèo kết hợp

với phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện Đại Từ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


7
- Giới hạn nội dung: Đề tài nghiên cứu việc kết hợp xoá đói, giảm
nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Đại Từ, mà trọng tâm là nghiên
cứu xoá đói, giảm nghèo không đi sâu vào những vấn đề cụ thể của phát triển
kinh tế - xã hội của Huyện mà lấy phát triển kinh tế - xã hội làm tiền đề giải
quyết xoá đói, giảm nghèo bền vững.
- Giới hạn không gian: Đề tài chỉ giới hạn nội dung nêu trên trong
khuôn khổ địa bàn huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên.
- Giới hạn thời gian: Nội dung nghiên cứu bao gồm: khảo sát thực trạng
trong giai đoạn 2006-2010 và luận giải hệ thống giải pháp cho giai đoạn 20112015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận, phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế học
hiện đại để nghiên cứu vấn đề dưới góc độ kinh tế chính trị kết hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm đường lối phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Trong quá trình phân tích, đề tài vận dụng phương pháp trừu tượng
hoá khoa học và kết hợp các phương pháp khác như: khảo sát, điều tra, thống
kê, hệ thống, so sánh,…tổng hợp báo cáo tổng kết công tác xóa đói, giảm
nghèo và các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của huyện Đại Từ - tỉnh Thái
Nguyên để làm rõ vấn đề nghiên cứu và rút ra các kết luận cần thiết.
6. Những đóng góp của đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quan hệ giữa xóa đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc kết hợp xóa đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên. Nêu rõ những thành

công, những khó khăn, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần thiết phải xoá đói,
giảm nghèo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.


8
- Từ đó, đề tài đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp xóa đói,
giảm nghèo với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Đại Từ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn kết hợp xoá đói, giảm
nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn
Chương 2: Thực trạng kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh
tế - xã hội huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Giải phát kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế
xã hội huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT HỢP XOÁ
ĐÓI, GIẢM NGHÈO VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP X0Á ĐÓI, GIẢM NGHÈO
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN

1.1.1. Đói, nghèo và nguyên nhân của đói, nghèo
1.1.1.1. Quan niệm về đói, nghèo
Những năm gần đây, vấn đề đói nghèo đã thu hút sự quan tâm to lớn
của cộng đồng quốc tế, đồng thời khẳng định cần có sự nỗ lực toàn cầu trong
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo.

Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương do (ESCAP) tổ chức ở Băng Cốc, Thái Lan vào
tháng 9 -1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao về khái niệm
nghèo đói như sau: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả
năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng
vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận” [5].
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một quan niệm cụ thể hơn về
nghèo đói như sau: “người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn
dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua
những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” [21].
Các quan niệm về đói nghèo nêu trên phản ánh 3 khía cạnh của người nghèo.
(i) Không được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người.
(ii) Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
(iii) Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia trong quá trình phát triển cộng đồng.


10
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về
ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...).
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn
cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa

nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực
châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng
9/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các
cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, do đó bên cạnh khái
niệm nghèo đói, ở nước ta còn có một số khái niệm sau:
Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai
tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học
hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát...
Hộ nghèo: Là hộ đói ăn không đủ bữa, mặc không đủ lành, không đủ
ấm, không có khả năng phát triển sản xuất...
Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những
cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ
dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn
hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.


11
Như vậy, đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện
như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến,
ít được tham gia vào quá trình ra quyết định...
Qua nghiên cứu chúng ta nhận thấy đói nghèo có nguồn gốc căn
nguyên từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các
quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, chứ không thuần túy chỉ là vấn đề kinh tế cho dù các tiêu chí
đánh giá của nó trước hết và chủ yếu dựa trên các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy,
khi nghiên cứu những tác động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng, cách

thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá những tác động của nhân
tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng có như vậy mới đề ra được
các giải pháp đồng bộ cho công tác xoá đói, giảm nghèo ở nước ta.
1.1.1.2. Tiêu chí và phương pháp xác định hộ nghèo
Đối với nước ta đã 5 lần điều chỉnh chuẩn nghèo từ 1993 đến 2006.
* Giai đoạn 1993 - 1995:
. Hộ đói: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg đối
với thành thị, dưới 8 kg đối với khu vực nông thôn.
. Hộ nghèo: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20 kg
đối với thành thị, dưới 15 kg đối với khu vực nông thôn.
* Giai đoạn 1995 - 1997:
. Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13 kg, tính cho mọi vùng.
. Hộ nghèo là hộ có thu nhập như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng.
+ Thành thị: dưới 25kg/người/tháng.


12
* Giai đoạn 1997 - 2000 (Công văn số 1751/LĐTBXH):
Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng
quy ra gạo dưới 13 kg, tương đương 45.000 đồng (giá năm 1997, tính cho mọi
vùng).
Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng
như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng)..

+ Thành thị: dưới 25kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
* Giai đoạn 2001 - 2005 (Quyết định số 1143/2000/QĐ - LĐTBXH):
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000 đ/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: dưới 100.000 đ/người/tháng.
+ Thành thị: dưới 150.000 đ/người/tháng.
* Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg):
+ Thành thị: 260.000 đ/người/tháng.
+ Vùng nông thôn (cho cả miền núi và đồng bằng): 200.000 đồng/
người/tháng.
Trước năm 2006, chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn đồng bằng cao
hơn chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn miền núi, mức chênh lệch là 1,25
lần. Khi áp dụng chuẩn nghèo chung cho vùng nông thôn đồng bằng và nông
thôn miền núi điều này sẽ có lợi hơn cho người dân khu vực nông thôn miền
núi. Đây cũng là sự thể hiện quan điểm bình đẳng hơn, toàn diện hơn khi xem
xét xác định chuẩn nghèo.
Khu vực thành thị chuẩn nghèo mới cao gấp 1,73 lần chuẩn nghèo cũ và
tương đương với 2,8 USD một ngày tính theo sức mua tương đương năm 2005.


13
Khu vực nông thôn đồng bằng chuẩn nghèo mới cao gấp 2 lần chuẩn
nghèo cũ; khu vực nông thôn miền núi chuẩn nghèo mới cao gấp 2,5 lần và
tương đương với 2,2 USD một ngày tính theo sức mua tương đương năm 2005.
Phương pháp xác định chuẩn nghèo [7]: có 2 phương pháp xác định
chuẩn nghèo.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào nhu cầu chi tiêu
Nội dung cơ bản của phương pháp này là dựa vào nhu cầu chi tiêu để
bảo đảm các nhu cầu cơ bản của con người về ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn
hoá, đi lại và giao tiếp xã hội.
Bước một là xác định nhu cầu chi tiêu cho lương thực thực phẩm

(nhu cầu ăn uống để tồn tại). Để xác định được nhu cầu này người ta xác
định rổ hàng hoá để bình quân hàng ngày một người có được 2.100Kcal, rổ
hàng hoá khoảng 40 mặt hàng. Từ rổ hàng hoá này người ta xác định được
số tiền cần thiết chi tiêu cho lương thực thực phẩm. Tuy nhiên, giá cả của
rổ hàng hoá ở thành thị, nông thôn và các vùng rất khác nhau, vì vậy người
ta phải lấy giá trị trung bình của rổ hàng hoá này.
Bước hai là xác định nhu cầu chi tiêu lương thực thực phẩm (7 nhu cầu
cơ bản còn lại). Thông thường chi cho lương thực, thực phẩm chung của dân
cư chiếm khoảng 60% tổng chi tiêu, còn 40% là nhu cầu phi lương thực thực
phẩm. Đối với nhóm giàu tỷ lệ tương ứng là 50% và 50%; đối với nhóm
nghèo 70% chi tiêu cho nhu cầu lương thực, thực phẩm, còn 30% chi tiêu cho
phi lương thực, thực phẩm (ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp
xã hội).
Bước ba là xác định tổng nhu cầu chi tiêu cho lương thực, thực phẩm
(LTTP) và phi lương thực, thực phẩm.
Tổng chi tiêu = chi tiêu cho LTTP + chi tiêu cho phi LTTP
Giá trị bằng tiền của tổng chi tiêu được gọi là đường nghèo chung hay
còn gọi là chuẩn nghèo cao.


14
Giá trị bằng tiền của chi tiêu cho lương thực, thực phẩm là đường
nghèo lương thực, thực phẩm hay còn gọi là chuẩn nghèo thấp.
Cũng bằng phương pháp trên, theo Tổng cục Thống kê đã chuyển từ
mức chi tiêu sang mức thu nhập để mọi người dễ hiểu và thuận lợi hơn cho
việc điều tra khảo sát và tính toán tỷ lệ nghèo đói. Những người có thu nhập
thấp hơn chuẩn nghèo chung được xếp vào nhóm người nghèo, còn những ai
có thu nhập thấp hơn mức chi tiêu cho lương thực, thực phẩm (đường nghèo
LTTP) thì được xếp vào nghèo về LTTP.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào so sánh với thu nhập

bình quân đầu người của các hộ gia đình
Công thức tính cụ thể cho nước ta như sau [7]:
CNj = (TNj /2 + TNj /3): 2
Trong đó:

- CNj là chuẩn nghèo năm thứ j
- TNj là thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình
năm thứ j

Trong trường hợp này chuẩn nghèo được lấy ở khoảng giữa của 1/2 và
1/3 thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình.
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và nó gắn rất
chặc với tốc độ tăng thu nhập của dân cư, ít tốn kém kinh phí vì có thể sử
dụng số liệu có sẵn, các địa phương cũng tự tính được chuẩn nghèo của mình.
1.1.1.2. Nguyên nhân ảnh hưởng đến đói nghèo
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân gây ra đói nghèo, song tựu
trung lại, nghèo đói ở các nước đang phát triển chủ yếu là do các nguyên nhân
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn
quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục


15
nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại,
nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất sản xuất.
Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người
nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản xuất các
loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản

xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương pháp sản xuất truyền thống, thiếu
cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn
thực hiện theo phương pháp sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và
năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị
trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Bên cạnh đó, người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín
dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn
khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới... Một
mặt, do không có tài sản thế chấp, những người nghèo, phải dựa vào tín chấp
với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt
khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các
nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các
nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn.
Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật,
chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.
Thứ hai, trình độ học vấn thấp
Những người nghèo phần lớn là những người có trình độ học vấn thấp,
ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như
chỉ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để
nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên
cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến
giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... không những của thế hệ hiện tại mà


16
cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố
ảnh hưởng khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm
cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Chi phí cho
giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo
tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát

nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. phần lớn số
người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp.
Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác,
trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn
và ổn định hơn.
Thứ ba, các nguyên nhân về nhân khẩu
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu
nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân
vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất
cao. Đông con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là do họ
không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe
sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận
thức đầy đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp
tránh thai chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh,
an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe
sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực
về lao động rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng
nghèo đói của họ.
Thứ tư, bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào
tình trạng nghèo đói trầm trọng.
Bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu
của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải


17
chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi
phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do
vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ

vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng
có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả năng
tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...) của
người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.
Thứ năm, sự kết hợp xã hội trong phát triển kinh tế.
Sự kết hợp xã hội trong phát triển kinh tế, được thể hiện ở đường lối
chính sách phát triển và tổ chức thực hiện kinh tế ở mỗi quốc gia. Nếu chỉ
quan tâm đến tăng trưởng kinh tế để có nhiều lợi nhuận mà không quan tâm
đến giải quyết các vấn đề xã hội thì bộ phận dân cư đói nghèo ngày càng tăng.
Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến giải quyết vấn đề xoá đói, giảm nghèo để
thực hiện công bằng xã hội bằng cách đi vay nước ngoài để nâng cao mức tiêu
dùng cho dân mà không coi trọng đầu tư phát triển kinh tế thì không thể thực
hiện được mục tiêu xoá đói, giảm nghèo. từ thực tiễn thế giới, Đảng ta chủ
trương: mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải thực hiện tiến bộ công bằng xã hội
và khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với thực hiện xoá đói, giảm nghèo.
1.1.2. Mối quan hệ giữa xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn nước ta
1.1.2.1. Xóa đói, giảm nghèo là yêu cầu cấp thiết để phát triển kinh tế
- xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay
Đói nghèo và lạc hậu thường đi liền nhau, là xiềng xích trói buộc người
nghèo, vùng nghèo, nước nghèo, là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện
nay mà cộng đồng xã hội phải cùng hợp sức để giải quyết. Xóa đói, giảm
nghèo, không phải chỉ là một giải pháp tình thế, không phải là một vấn đề
thuần túy, mà là một chương trình trong toàn bộ chiến lược phát triển của đất
nước. Thực hiện xoá đói, giảm nghèo không chỉ bằng cách tăng trưởng kinh


18
tế, mà còn phải thực hiện công bằng xã hội. Về thực chất, nó nằm trong tiến
trình cải tạo sâu sắc về mọi mặt đối với toàn bộ xã hội. Nếu nói đói nghèo là
lực cản của phát triển; thì xoá đói, giảm nghèo là con đường phá vỡ lực cản

đó, tạo tiền đề cho sự phát triển.
Xoá đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ
trọng tâm trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn
luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải
thiện đời sống của nhân dân; chính vì thế, đây không chỉ là việc thực hiện
truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân” mà còn
là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Xóa đói, giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn
lên thoát nghèo. Xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một
chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn
là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển,
tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn
“cất cánh”.
Đói nghèo liên quan toàn bộ các mối quan hệ kinh tế, xã hội, nếu không
giải quyết vấn đề đói nghèo sẽ nảy sinh các hiện tượng gây mất ổn định xã hội
ảnh hưởng xấu tới chính trị. Phân hoá giàu, nghèo đến một mức độ nào đó, sẽ
trở thành phân hoá giai cấp, xung đột xã hội nguy cơ làm chệch hướng xã hội
chủ nghĩa. Ngược lại, nếu không ổn định chính trị xã hội thì xã hội trở nên rối
loạn, khủng hoảng. Do đó mọi kế hoạch phát triển kinh tế bị phá vỡ. Mặt
khác, bản thân sự đói nghèo đã bao hàm nội dung kinh tế. Vì vậy xoá đói,
giảm nghèo nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.2. Phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện để thực hiện xoá đói,
giảm nghèo bền vững ở nông thôn


19
Nền kinh tế tăng trưởng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực
tiễn những năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao
Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình

hỗ trợ vật chất, tài chính và đầu tư cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ
hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan
trọng để xóa đói, giảm nghèo trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ
thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo
truyền thống thì tác dụng không lớn.
Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, trước hết
tập trung chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp phát triển
ngành nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển,
nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nghèo.
Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế tăng
trưởng bước đầu đã tạo việc làm, nguồn vốn và cơ hội vươn lên cho người
nghèo. Cụ thể hàng loạt các chính sách quốc gia về giải quyết việc làm và xoá
đói giảm nghèo được ban hành và hoàn thiện, cùng với đó là các chương trình
hành động cụ thể, có thể kể đến các chương trình điển hình như: Chương trình
phát triển kinh tế - xã hội ở những xã đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu,
vùng xa (chương trình 135); Chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc
(chương trình 137) với mục tiêu phát triển rừng, tạo thêm việc làm cho lao
động nông thôn, định canh, định cư cho người dân miền núi trên cơ sở nông lâm kết hợp; Chương trình quốc gia xúc tiến việc làm (chương trình 120) với
mục tiêu là xúc tiến việc làm thông qua cung cấp các khoản vay lãi suất thấp
để người lao động tự tạo việc làm mới và hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp; Thành
lập quỹ xoá đói, giảm nghèo, ở các địa phương cùng rất nhiều các chương
trình, dự án hỗ trợ về nước sạch và vệ sinh môi trường, dân số, dinh dưỡng ...
nâng cao nhận thức, kỹ năng, tính năng động, năng lực lựa chọn cho người


20
dân theo phương châm “cho người nghèo chiếc cần câu để họ tự câu lấy cá”,
cứu trợ họ để họ cứu trợ mình bằng chính năng lực của mình....Với phương
châm chỉ đạo và những hành động cụ thể, trong những năm qua mục tiêu xoá

đói, giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc kết hợp xoá đói, giảm
nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nước ta
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua
là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã
đạt được những thành tích giảm nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy
nhiên, quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu
cực đến người nghèo.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn
còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp chính, chú
trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng
đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến
khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp
(lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước...) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng
xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu,
vùng xa.
Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính của
các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn
số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
tự do hóa thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích
các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút
nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả


21
năng tạo việc làm chưa được quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng
thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản

phẩm thấp, và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp
nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, nghèo túng.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo
còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn.
Vốn đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực
của nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động.
Thứ hai, sự đói nghèo, lạc hậu kém phát triển chẳng những làm cho lực
lượng sản xuất được phân bố không phát huy tác dụng, mà còn không có cơ
sở kinh tế để tồn tại và sẽ trở thành gánh nặng cho sự phát triển kinh tế của
các vùng. Nghèo đói đang cản trở, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta, một thực tế đáng quan tâm là những hộ nghèo tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên cao hơn hộ giàu, do đó dẫn tới việc thiếu thốn nhiều mặt, như: dinh
dưỡng, chăm sóc y tế, giáo dục,...
Vấn đề việc làm, xoá đói, giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn
thuần mà là vấn đề xã hội hết sức to lớn và phức tạp. Do đó, giải quyết tốt vấn
đề việc làm là cách đem lại thu nhập chính đáng, nhằm giải quyết đời sống
kinh tế và văn hoá của mỗi cá nhân, gia đình, cho nên tác động tích cực đến
đời sống xã hội; ngược lại những hộ nghèo do đông con ít người làm, hoặc
nhiều lao động dư thừa không có công ăn việc làm, dẫn đến tình hình an ninh
trật tự thêm phức tạp, người xưa có câu “nhàn cư vi bất thiện”. Nghèo đói
cùng với tình trạng thất nghiệp là một trong những nguyên nhân gây ra tình
hình di dân tự do ra thành phố, đây là những vấn đề nan giải, tiềm ẩn nhiều
nhân tố gây mất ổn định xã hội.
Thứ ba, trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách thực hiện xoá đói, giảm nghèo như thực thi một chiến lược
phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn; xây dựng chiến lược phát triển


22
cho từng vùng, miền; đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng; có chương trình

quốc gia về lao động và việc làm; ưu tiên tín dụng, các nguồn vốn cho phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn nói chung, xoá đói, giảm nghèo nói riêng,...
Để thực hiện tốt việc kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế
- xã hội, thì nhiệm vụ xoá đói, giảm nghèo phải được đặt thành một bộ phận
của chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội từ Trung ương đến cơ sở.
Công tác xóa đói giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ
trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm,
coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước đối với công tác xóa đói, giảm nghèo.
Thứ tư, để tổ chức quản lý tốt việc kết hợp xóa đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội cần nhận thức đúng, có cách nhìn biện chứng về
mối quan hệ này. Công tác xoá đói, giảm nghèo là một trong những mục tiêu
của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều
kiện (tiền đề) cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó,
xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho
chương trình xóa đói, giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế
có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xóa
đói, giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững; ngược lại,
nếu nhận thức phiến diện thì việc kết hợp không đạt hiệu quả.
1.2. KINH NGHIỆM KẾT HỢP XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở MỘT SỐ TỈNH

1.2.1. Kinh nghiệm của tỉnh Lào Cai
Từ năm 2004, tỉnh Lào Cai bắt đầu được thử điểm thực hiện các mô
hình xoá đói giảm nghèo theo nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Với nhận thức: triển khai xây dựng và thực hiện mô hình xoá đói giảm
nghèo là sự nghiên cứu, thử nghiệm tìm ra những phương cách mới phù hợp,



23
hiệu quả hơn để giảm nghèo nhanh và bền vững, từ đó làm tiền đề để nhân
rộng ra các địa bàn có đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội tương đồng. Chính vì
vậy đã lựa chọn hướng đầu tư nghiên cứu thử nghiệm các mô hình xoá đói
giảm nghèo là: phát huy những thế mạnh về tự nhiên và khai thác các nguồn
lực đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông lâm nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ trên cơ sở giải quyết hài hoà lợi ích của các đối tượng cùng
tham gia.
Trong thời gian 5 năm (2006 - 2010), trên địa bàn tỉnh đã xây dựng và
mở rộng lên 7 mô hình với tổng số 455 hộ nghèo tham gia, đó là mô hình ở
các xã: Nấm Lư huyện Mường Khương, Cốc Mỳ huyện Bát Xát, Nậm Dạng
huyện Văn Bàn, Sa Pả huyện Sa Pa, Cốc Lầu huyện Bắc Hà, Sơn Hà huyện
Bảo Thắng và Xuân Hòa huyện Bảo Yên. Tổng kinh phí đã đầu tư cho các mô
hình là 3.316, 9 triệu đồng, trong đó: đầu tư trực tiếp hỗ trợ người nghèo là
708,02 triệu đồng (chiếm 21,35%), đầu tư cho vay là 1.975 triệu đồng (chiếm
60%), còn lại là chi cho công tác tập huấn và quản lý của các cấp.
Từ việc nghiên cứu, thực hiện thí điểm các mô hình xóa đói giảm
nghèo có thể đánh giá và tổng kết rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, các mô hình đều đặt lợi ích của người nghèo lên hàng đầu.
Các hộ nghèo đều được cùng tham gia trong quá trình khảo sát, bàn bạc như
việc chọn lựa, đăng ký loại hình sản xuất của hộ, mức lãi suất vốn vay, việc
sử dụng tiền lãi thu được,... Từ đó giúp cho họ mạnh dạn hơn, tự tin hơn và
cảm thấy mình được làm chủ quá trình sản xuất, khơi dậy được tính sáng tạo
và tinh thần trách nhiệm đối với những quyết định của mình; được vay vốn ưu
đãi với 60% tổng số vốn đầu tư của dự án dành cho tín dụng ưu đãi, bình quân
mỗi hộ được vay thêm 5,4 triệu đồng; được hỗ trợ xây dựng củng cố chuồng
trại chăn nuôi; được tham gia tập huấn khuyến nông, tư vấn hỗ trợ kỹ thuật
thường xuyên, tham gia các buổi đối thoại với với các đối tượng khác nhằm
trao đổi những kinh nghiệm làm ăn, cách làm hay của các hộ khá và giàu…



24
Thứ hai, vấn đề lợi ích của các lực lượng tham gia cùng được quan tâm
gắn liền với trách nhiệm. Các hộ khá, giàu tham gia dự án với vai trò đầu tàu,
có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo về kinh nghiệm sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm,... Các hộ này cũng được hưởng lợi bình đẳng với các hộ nghèo về
vốn vay ưu đãi, tập huấn khuyến nông, chăm sóc và tư vấn thú y,... Lực lượng
khuyến nông viên, thú y viên, cán bộ chuyên trách ở cấp thôn, xã được trợ cấp
thêm kinh phí của dự án để thực hiện các hoạt động quản lý, theo dõi các hợp
đồng trách nhiệm được ký kết giữa Ban quản lý dự án với người tham gia dự
án. Chính quyền, các đoàn thể cấp xã, cấp huyện tham gia quản lý các dự án
mô hình đều được hỗ trợ thêm một khoản kinh phí chiếm từ (2,5 – 3,5)% tổng
kinh phí đầu tư của dự án để sử dụng chi tiêu phục vụ cho các hoạt động tập
huấn, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện dự án. Bên cạnh đó
người dân trên địa bàn cũng được hưởng lợi từ các hoạt động: thúc đẩy sản
xuất hàng hoá của dự án; tư vấn và trợ giúp kỹ thuật của lực lượng khuyến
nông, thú y viên của mô hình và hưởng lợi từ các sản phẩm do các hộ trong
mô hình sản xuất ra như con giống, lương thực, thực phẩm tại chỗ tăng thêm.
Thứ ba, nguồn nhân lực tại chỗ được chú ý khai thác đã phát huy hiệu
quả tích cực. Từ việc đan xen giữa hộ khá, giàu và hộ nghèo trong mô hình đã
tạo thêm được nguồn lực, kiến thức và kinh nghiệm thực hiện dự án. Chính sự
gần gũi giữa các hộ khá, giàu và hộ nghèo đã giúp các hộ nghèo học hỏi được
kinh nghiệm làm ăn của các hộ khá, giàu, đồng thời cũng khai thác được
nhiều sự giúp đỡ trực tiếp khác của các hộ khá, giàu cho các hộ nghèo.
Việc sử dụng trưởng thôn, bản làm khuyến nông viên thôn bản trong
các mô hình đã nhanh chóng mang lại hiệu quả trực tiếp, do họ vừa là người
đi đầu, gương mẫu trong sản xuất ở thôn bản đó, vừa là người nắm rõ được
tâm tư nguyện vọng của từng hộ dân, thông thạo phong tục tập quán và khắc
phục ngay được những rào cản về ngôn ngữ. Các mô hình đều lựa chọn các
loại hình sản xuất đa dạng để có thể tận dụng sức lao động phổ thông và thời



×