Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thơ Haiku của Masaoka Shiki

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.86 KB, 35 trang )

ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

ホホホホホホホホホホ
ホホホホホ
❧✿❧

俳句
正岡 子規

案ー先生:ダンーレーザン

1


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THƠ HAIKU NHẬT BẢN
CHƯƠNG II:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM MASAOKA SHIKI


CHƯƠNG III:
ĐẶC TRƯNG THƠ HAIKU CỦA MASAOKA SHIKI
CHƯƠNG IV:
ĐẶC ĐIỂM ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU CỦA MASAOKA SIKKI
CHƯƠNG V:
GIÁ TRỊ THƠ HAIKU CỦA MASAOKA
CHƯƠNG VI:
ẢNH HƯỞNG THƠ HAIKU CỦA MASAOKA ĐẾN CÁC TÁC GIA NHẬT BẢN
CHƯƠNG VII:
ẢNH HƯỞNG THƠ HAIKU CỦA MASAOKA ĐẾN NHÀ THƠ NƯỚC NGOÀI
TỔNG KẾT VÀ NHẬN XÉT

2


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần. Vì chưa
quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ
Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, một tâm trạng thoáng qua
nhưng gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng
tượng
của
chính

người
đọc.
Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu,
thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và
“ngớ ngẩn” đó. Người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh
chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như
ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải quen dần để cảm nhận và
yêu.
Nói đến thơ haiku ta không thể không nhắc tới Masaoka Shiki (nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình
và là nhà báo nước Nhật). Ông là một trong bốn đại thụ thơ haiku của Nhật Bản trước thời hiện
đại: Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa, Masaoka Shiki. Ông là một trong những nhà
thơ đổi mới thơ waka, đặt tên là tanka vào khoảng đầu thế kỷ thứ 20. Ông khai thác và yêu sách
thơ Nhật cần phải thay đổi và đặt ra từ "haiku" thay thế cho "hokku" cũng như đổi "waka" thành
"tanka". Ông đã đem hiện thực vào thơ haiku và đã thay đổi làm sống lại thể văn ngắn này. Nếu
Matsuo Basho được cho là nhà thơ haikai tiêu biểu của thời kỳ trung đại, thì Masaoka Shiki tiêu
biểu của haiku thời kỳ cận đại. Thơ haiku của Shiki được cách tân không chỉ về mặt hình thức
cấu trúc thơ mà cả về nội dung và quan trọng hơn hết là hầu hết thơ haiku tân thời đều được
khởi nguồn từ Shiki.

3


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THƠ HAIKU NHẬT BẢN

I.

Vài nét về sự hình thành thể thơ haiku Nhật Bản
Thơ ca Nhật Bản truyền thống thường dựa trên hình mẫu các câu 5 và 7 âm tiết và tồn tại
dưới các hình thức thơ chôka (trường ca), waca (hòa ca) hay còn gọi là tanca(đoản
ca), renca (liên ca). Từ thế kỷ XVl đến thế kỷ XlX, một thể thơ mới ra đời thay thế cho thể
thơ renca, đó là thể haiku. Thiền sư thi sĩ lỗi lạc Matsuo Basho được thừa nhận là người khai
sinh ra haiku và Yosa Buson, Masaoka Shiki đã hoàn thiện nó dưới diện mạo và tên gọi như
chúng ta thấy ngày nay.
Thuật ngữ haiku (đọc theo âm Hán Việt là bài cú hay hài cú) không phải xuất hiện từ thời thịnh
hành thể thơ này mà nó được sáng tạo vào năm 1890 theo đề xướng của nhà thơ Shihi (18671902) dùng để chỉ những bài thơ ngắn gồm 3 câu, 17 âm tiết đứng độc lập được bố trí theo thứ
tự: 5-7-5. Thể thơ này vốn được tách ra từ ba câu khổ đầu của thể renca (phần phát cú hay còn
gọi là hokku) đứng độc lập và phát triển mạnh mẽ dưới thời Edo . Từ đó nó trở thành một thể
thơ với tên gọi là haiku hay haikai, hokku.

II.

Những đặc điểm về nội dung của thể thơ haiku Nhật Bản
2.1. Thế giới thiên nhiên trong thơ haiku mang nhiều màu sắc rực rỡ, huyền bí và đầy
quyến rũ. Đó là bức tranh thiên nhiên không chỉ có trăng, sao, hoa, lá, cỏ, cây mà còn là tiếng
chim gù trong ban trưa tĩch mịch, tiếng dế mèn kêu trong đêm, tiếng chim gọi bầy và những áng
mây xa, những cơn sóng, những cánh hoa anh đào... Đứng trước biển, trước những chuyển động
của đất trời, con người càng ý thức về bản ngã của mình và lắng nghe được bước chuyển của
thiên nhiên:
Bể động
Trải ra phía đảo Sađô
Sông ngân hà
(Bashô)

Một cánh hoa Asagaô ban mai vô tình rơi xuống giếng cũng đủ làm xao động tâm hồn người thi
sĩ:
A! hoa Asagaô
4


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

Dây gàu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên
(Chiyô)
2.2. Trong thơ haiku nổi bật yếu tố "mùa". Vì thế người ta ví thơ haiku là tiếng hát của
bốn mùa và "mùa" được xem là quý ngữ (Kigo) của thơ haiku. Sự luân chuyển của "mùa" thể
hiện nhịp điệu của thế giới thiên nhiên và đời sống con người, và đó là sự vận động của thời
gian. Khi cái nóng oi nồng làm tàn lụi những cánh anh đào rực rỡ của mùa xuân qua đi thì cái se
lạnh của mùa thu ùa về làm cho màu xanh chuyển sang màu vàng, tiếng chim hót bỗng dừng và
rồi những bông tuyết trắng xóa bắt đầu rơi báo hiệu mùa đông đến. Sự xoay vần của tạo hóa trên
đất nước đã tạo cho con người Nhật mang những nét tính cách thật đặc biệt. dưới đây là một số
ví dụ về quý ngữ hay được sử dụng trong thơ haiku:
ST
T

Quý ngữ

Chỉ mùa


1

Chim Đỗ Quyên

Mùa Hè

2

Sương Thu

Mùa Thu

3

Gió mùa Thu

Mùa Thu

4

Mưa Đông

Mùa Đông

5

Hoa Đào

Mùa Xuân


6

Tiếng Ve

Mùa Hạ

7

Cánh đồng hoang vu (cánh đồng khô).

Mùa Đông

Mùa xuân được mô tả nhiều nhất trong thơ haiku không chỉ vì tác giả nhắc đến từ "xuân" nhiều
mà cảnh sắc mùa xuân được miêu tả gắn với con người. Một bông hoa đại nazma nở e ấp bên
hàng dậu cũng gợi lên cảm hứng cho thi sĩ:
Khi nhìn kĩ
Tôi thấy Nazma nở hoa
Bên hàng dậu
5


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

(Bashô)
Mùa hạ về với mẫu đơn, diên vĩ, hoa kì,hoa sen với tiếng chim cu hát vang giữa trưa hè oi ả.
Nhiều bài thơ haiku miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng tiếng cu gáy:

Ôi chim cu
Bay lượn và ca hát
Bận rộn xiết bao
(Bashô)
Trong thơ haiku, mùa thu với những đêm dài thanh vắng, tiếng châu chấu, tiếng dế kêu trong
đêm và những ánh trăng suông buồn bã:
Trăng thu
Suốt đêm tôi dạo
Loanh quanh bên hồ
(Bashô)
Đồng hành với mùa đông là những cơn rét buốt, những bông tuyết rơi và không gian ngập trong
tuyết phủ và lạnh giá, cây cối trơ trọi, khẳng khiu. Nhà thơ Bashô mô tả cảnh mùa đông bằng
những hình ảnh thật độc đáo:
Đến đây xem để thấy
Một chiếc lá cô đơn
Trên cành Kiri ấy
Và đây là cảnh vườn chùa mùa đông trống vắng:
Những chiếc lá rơi
Dường như trăm tuổi
Giữa ngôi vườn chùa
(Bashô)
2.3. Trong thơ haiku, dấu ấn Thiền tông để lại khá đậm nét trong cách nhìn và thể
hiện của các nhà thơ. Theo quan niệm của Thiền tông, mọi sinh linh trên cõi đời này đều bình
đẳng như nhau. Vì thế, thơ haiku thường nói đến các sinh vật và hiện tượng tự nhiên (con sâu,
con bọ, con chuột...) với một sự ưu ái và tự nhiên. Thi sĩ Bashô đã mô tả một cảnh ban mai có
tuyết, có cánh quạ ô:
6


ホーチミン市師範大ー


正岡 子規の俳句

日本語ー部

Con quạ ô
Sáng mai trong tuyết
Đẹp không ngờ

III.

Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ haiku
3.1. Thơ haiku có một cấu trúc nghệ thuật đặc sắc. Một bài thơ haiku rất ngắn gồm
17 âm tiết và được xếp 3 dòng theo thứ tự 5-7-5: (theo âm tiếng Nhật)
Shichi
Kei
wa
(5
âm
tiết)
Hồ
Kiri
ni
Kacurete
(7
âm
tiết)
Sương
Mii no KKane (5 âm tiết) Còn chuông đền Miithôi (Bashô)


Ômi


tám
dấu
bảy

cảnh
rồi

Do cấu trúc chặt chẽ như trên cho nên đòi hỏi người làm thơ haiku phải biết "kiệm từ", chọn
những từ và ý nào thật đắt, cô đọng, ẩn chứa nhiều ý nghĩa để đưa vào thơ. Ở đây, câu mở đầu
có tính chất giới thiệu, gợi cảnh, gợi tình để mở ra ý cho hai câu sau. Các sự việc được phản ánh
trong thơ haiku có khi tưởng như rời rạc, không liên kết với nhau, nhưng thực ra giữa chúng có
mối liên kết chặt chẽ từ bên trong. Từ "sự tinh giản của tâm hồn" (A.Tagor), thơ haiku đã tạo
nên sức mạnh nghệ thuật to lớn. Chính vì thế, nhà nghiên cứu phê bình Roland Barther (Pháp)
nhận xét: "Sự ngắn gọn của haiku không phải là vấn đề hình thức. Haiku không phải là một tư
tưởng phong phú rút vào một hình thức ngắn mà là sự tin vắn tắt tìm ra được hình thức vừa vặn
cho mình".
3.2. Sử dụng nghệ thuật tương phản, đối lập cũng là đặc trưng của thơ haiku. Đó là
sự đối lập tương phản giữa cái vô hạn - hữu hạn, giữa không - có, giữa cái lớn - bé, xa gần, con người - vũ trụ... Trong bài thơ "Ao cũ", Bashô viết:
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
3.3. Giới thiệu đề tài để tạo ra sự liên tưởng đối với người đọc cũng là một nghệ
thuật của thơ haiku. Các bài thơ haiku thường chỉ là những nét chấm phá, gợi mở để độc
giả vận dụng trí tưởng tượng nhằm liên tưởng đến các sự vật và hiện tượng khác. Vì thế,
người ta cho rằng thơ haiku giống như những bức tranh thủy mặc của người Nhật. Nó
chứa đựng một khoảng trống, một khoảng chân không nhưng tràn trề sự sinh động của
cuộc sống. Nhà thơ chỉ phác họa vài dòng về thiên nhiên:


7


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

Lá thủy tiên
Dưới làn tuyết mới
Nhè nhẹ trĩu mình
(Bashô)
Cho đến ngày nay, thơ haiku Nhật Bản vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới bởi nội
dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc của nó. Đồng thời thể thơ này vẫn được nhiều người bắt
chước sáng tác, nhưng không ai có thể vượt qua được thơ haiku Nhật Bản với những thi hào nổi
tiếng. Thơ haiku là sản phẩm tinh thần riêng của người Nhật là niềm tự hào của đất nước Phù
Tang, của xứ sở hoa anh đào.

8


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

CHƯƠNG II:

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM MASAOKA SHIKI

I.

Tác giả:
Masaoka Shiki sinh ngày 14 tháng 10 năm 1867 tại Matsuyama trong một gia đình tầm
trung. Cha của Masaoka Shiki là một kẻ nghiện rượu, ông mất khi Masaoka Shiki được năm
tuổi. Mẹ của Masaoka Shiki lại là con gái của một học giả theo tư tưởng Khổng giáo. Năm lên
bảy, ông được học sách của Mạnh Tử, dưới sự kèm cập của người thầy đầu tiên, chính là ông
ngoại của mình. Tuy nhiên, có lời kể lại, rằng Shiki không phải là học trò chăm chỉ cho lắm.
Năm mười lắm tuổi, ông bắt đầu có hứng thú với các loại sách chính trị. Trong thời gian đó, ông
nung nấu ý định rời Matsuyama đến Tokyo, đến năm 1883, ông đã thực hiện được ý định này.
Tại đây, ông theo học trường Đại học Tokyo, Nhật Bản nhưng sau đó ông rẽ ngang nhập học vào
một trường khác.
Về sự nghiệp văn chương, Masaoka Shiki được coi là một trong bốn cây đại thụ của thể loại thơ
haiku Nhật Bản trước thời hiện đại, trong đó có Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa và
Masaoka Shiki. Đồng thời ông cũng được xem là một trong những nhà tiên phong trong công
cuộc cách tân thơ haiku thời kỳ cận đại. Nếu Matsuo Basho được cho là nhà thơ haikai tiêu biểu
của thời kỳ trung đại, thì Masaoka Shiki tiêu biểu của haiku thời kỳ cận đại. Thơ haiku của Shiki
được cách tân không chỉ về mặt hình thức cấu trúc thơ mà cả về nội dung và quan trọng hơn hết
là hầu hết thơ haiku tân thời đều được khởi nguồn từ Shiki.
Năm 1868, chế độ Tokugawa của thời kỳ Edo trước đó bị xóa bỏ và mở ra một kỷ nguyên mới
của lịch sử Nhật Bản – kỷ nguyên Minh Trị Duy Tân (1868 – 1912). Từ đây nước Nhật mở cửa
giao lưu quốc tế sau bao nhiêu năm bị giam hãm bởi chính sách bế quan tỏa cảng dưới chế độ
Mạc phủ. Sự mở cửa đó đã giúp Nhật Bản tiếp thu tri thức khoa học kỹ thuật từ thế giới bên
ngoài, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong một giai đoạn có thể nói
là huy hoàng nhất trong lịch sử Nhật Bản. Dưới sự trị vì của Hoàng Đế Minh Trị, chỉ trong vài
thập kỷ, Nhật Bản đã có thể đạt được điều mà phương Tây phải mất hàng thế kỷ mới tạo dựng
được. Công cuộc phục hưng thời Minh Trị giống như một vụ nổ chất chứa năng lượng và sức
mạnh phá tung một con đập kìm hãm nó hàng thế kỷ.

Trong thời gian ngắn khoảng 45 năm mở cửa, văn học Nhật Bản cũng đổi mới. Làn sóng văn
học phương Tây tràn vào Nhật Bản với khối lượng lớn các thể loại kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết
được dịch sang tiếng Nhật và xuất bản tại Nhật đã tiếp thêm sinh lực cho quá trình cách tân văn
9


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

học Nhật Bản. Tầm nhìn, trào lưu và khuynh hướng sáng tác của Nhật Bản thay đổi theo phong
cách Tây phương như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa lãng
mạn, phong cách tả thực. Trong trào lưu sôi nổi đó, văn học truyền thống của Nhật Bản vốn
được đúc kết từ sự ảnh hưởng kinh điển của Trung Hoa cổ và các giá trị truyền thống vĩnh hằng
của dân tộc đã kịp hòa nhịp cùng tính đa dạng của tư tưởng phương Tây để tiếp tục cải tiến và
phát triển mạnh mẽ. Và thơ haiku cũng không nằm ngoài trào lưu đó. Dưới sự vận động và dẫn
dắt của nhà thơ Masaoka Shiki – người có công đưa thể thơ hokku trước đó trở thành thể thơ độc
lập với tên gọi haiku cho đến ngày nay – thể thơ haiku đã có bước chuyển mình rõ rệt.
Sau khi dời đến Tokyo được khoảng một năm, Masaoka Shiki bắt đầu viết thơ haiku. Năm 1892,
ông xuất bản tập thơ haiku đầu tiên của mình, tên Dassai Shooku Haiwa (Bàn về cách viết haiku
bằng tìm tòi qua sách vở). Vào tháng 11 năm 1892, ông được bổ nhiệm vào vị trí biên tập
chuyên mục thơ haiku cho một tờ báo bấy giờ là Nippon và làm việc với vai trò như một nhà
báo trong suốt cuộc đời mình. Năm 1895, ông xuất bản tập thơ tiếp theo với tựa đề Haikai Taiyō,
lầ lượt sau đó là các tập Meiji Nijūkunen no Haikukai, Haijin Buson, và Utayomi ni Atauru Sho.
Những năm cuối đời, Masoka Shiki tập trung vào nghiên cứu chữ kana. Hơn nữa, trong những
năm nằm liệt giường, ông viết nhật ký giường bệnh, gồm 3 bộ: Bokujū Itteki, Gyōga Manroku
và Byōshō Rokushaku. Năm 1902, tức 4 năm sau khi ông hoàn thành việc nghiên cứu kana,
Masaoka Shiki qua đời.


II.

TÁC PHẨM TIÊU BIỂU:
Trong khoảng 25 năm đầu của thời kì Minh Trị, haiku bị coi là thơ hạng hai, chẳng khác gì ngoài
bước tiếp những quán tính sẵn có. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là haiku thời kì này
không có bản sắc riêng, ngược lại là rất sôi động. lúc này có hẳn những tờ báo dành riêng cho
thơ haiku. Thờ kì này, thơ ca đặc trưng cho xã hội phổ biến mang tính cộng đồng. Điển hình là
hình thức Tsukinami – mỗi tháng họp bàn thơ một lần. Những bài thơ được haiku Shiki viết vào
khoảng những năm 1892 – 1895 cũng không ngoài phong cách này. Ví như Akeyasuki – một
quý ngữ chỉ mùa hè đến sớm.

木をつみて

ki o tsumite

夜の明やすき

yono akeyasuki

小窓かな

komado kana
10

Cây chất chồng
ánh hừng đông
len vào ô cửa nhỏ



ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

Đây là bài thơ thời kỳ đầu của Shiki kể từ năm 1885 và là một trong các bài thơ theo phong cách
cũ nhưng sau đó chính ông lại khinh miệt, đả phá nó vì yêu cầu người đọc phải suy nghĩ, liên
tưởng một cách có logic (cây che lấp - ánh sáng - len vào cửa sổ nhỏ) hơn là bằng nguồn xúc
cảm.
Từ năm 1892, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, người ta mở ra một cái nhìn thoáng hơn
về thơ haiku. Nhờ các văn đoàn ra sức kêu gọi sáng tác, nghiên cứu thơ haiku cổ điển mà haiku
cách tân ra đời. Năm 1894, tòa báo Nippon bị đóng cửa, thay vào đó là Sho Nippon do Masaoka
Shiki làm tổng biên tập. Sho-Nippon đã đăng tải nhiều bài phê bình của Shiki chỉ trích sự tôn
kính vô dụng các luật lệ sáng tác thơ của những nhà thơ đi trước và ao ước một cái gì mới mẻ,
đặc biệt đã cho đăng hơn 10 ngàn bài thơ haiku và hơn 20 ngàn bài tanka của ông. Vào năm
Meiji 28 (1895) Shiki viết:
ー食えば

kaki kueba

Vừa mới ăn hồng

鐘が鳴るなり

kane ga naru nari

chuông chùa Pháp Long tự

法隆寺


Horyuji

ngân vang.

Bài thơ được coi là tác phẩm thành công đầu tiên trong quá trình cách tân thơ haiku, được đánh
giá là hay nhất và được trích dẫn trong hầu hết các trường phổ thông trung học Nhật Bản.
Với công việc của một biên tập văn chương, hàng ngày Shiki phải lựa chọn cả hàng ngàn bài thơ
haiku để đăng trên tờ nguyệt san Hototogisu (Chim quyên) ra đời vào năm Meiji 30 (1897) sau
đó trở thành diễn đàn chủ đạo cho phong trào shin-haiku (haiku mới).
Năm 1894, thuật ngữ “tả sinh” du nhập vào Nhật Bản như một thủ pháp hội họa. Với nhiệt huyết
mong muốn cách tân để nâng cao giá trị trong nghệ thuật của haiku, Shiki đã áp dụng thuyết tả
thực vào phương pháp sáng tác haiku. Cách tân haiku theo phương pháp luận tả thực (shasei)
của Shiki phụ thuộc vào sự cảm nhận của người đọc thông qua cách sử dụng ngôn từ thể hiện
của nguời viết – tức lấy tả thực dựa vào quan sát hiện thực của tự nhiên hơn là sự chơi chữ hoặc
sự tưởng tượng như haiku trước giờ vẫn làm.
月一輪

tsuki ichi-rin

星無ー空

hoshi mukazu sora

ーなり

midori kana
11

Một mảnh trăng tròn

trên trời đầy sao
xanh thẳm.


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

Hoặc một bài thơ khác tả thực tính lãng mạn trong nỗi trông chờ tuyệt vọng:
夕月や

yu-zuki ya

Đêm trăng

梅散り掛かる

ume chirikakaru

hoa mơ lả tả

琴のー

koto no koe

tiếng đàn koto.

冬川に


Fuyukawa ni

Xác chó

捨てたる犬の

sutetaru inu o

lững lờ trôi

かばねかな

kabane kana

Lạnh lẽo não nề của mùa đông:

trên sông mùa đông

Với Shiki, haiku không đơn giản chỉ là bài thơ mang tính tả thực mà cũng chẳng phải chỉ là
không tưởng, mà trên quan điểm ‘Phi Không Phi Thực’ vượt qua cả ngưỡng tả thực để chạm đến
thực tại của vũ trụ. Ông khuyên những người mới bắt đầu đến với thơ ca nên thường xuyên đi
đây đó vào các mùa khác nhau, để khám phá nguồn thi hứng phong phú cho haiku.
稻の花

Ine no hana

道灌山の

Dokana yama no


日和かな

hiyori kana

Núi Dokan
rực rỡ
lúa trổ đòng đòng.

Vì thế Shiki đã đưa ra các quy định nghiêm ngặt cho thuyết tả thực, là nền tảng cơ bản nhất cho
các nhà thơ thực tập:
行水の

gyozui no

Ơ kìa chú quạ

女にほれる

onna ni horeru

mải mê ngắm nhìn

烏かな

karasu kana
12

cô gái bên giếng tắm.



ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

Tóm lại, số lượng tác phẩm mà Masaoka Shiki để lại là vô cùng lớn và vô cùng đa dạng.
Những tác phẩm cũng như tư tưởng của ông thậm chí còn ảnh hưởng đến các nhà thơ và dòng
thơ thời đại sau.

CHƯƠNG III:
ĐẶC TRƯNG THƠ HAIKU CỦA MASAOKA SHIKI

I.

Thơ haiku của Shiki trong thời kì đầu Minh Trị (Meiji)- Haiku trên đà suy thoái:
Thi đàn haiku trong khoảng 25 năm đầu thời kỳ Meiji (1868 – 1892) không có gì khác hơn là
chỉ tiếp bước những quán tính, lề thói đã có sẵn. Tuy nói như vậy nhưng không có nghĩa thời kỳ
đầu Minh Trị thi đàn haiku không có bản sắc riêng. Ngược lại nó lại rất sôi động. Nhiều tờ báo
dành cho thi đàn lần lượt ra đời: năm Minh Trị thứ 01 (1868) xuất hiện tờ báo dành riêng cho
haiku: Haikai shimbun; một năm sau, năm 1869 xuất bản Haikai shinbun shi, năm Minh Trị thứ
13 (1880) tạp chí Minh luận haikai (haikai meiron) một tháng 2 số và còn rất nhiều tờ báo, tuyển
tập thơ văn khác được xuất bản.
Trong thời gian này các trường phái thơ thường tập hợp đồng môn và môn đệ tổ chức viết thơ và
bình thơ dưới sự hướng dẫn của trưởng môn, người nào đạt điểm cao nhất sẽ được thưởng, cho
xuất bản hoặc dâng cúng đền. Điển hình của hình thức này là lệ tsukinami (mỗi tháng họp bình
thơ một lần). Tập lệ này đã có từ cuối thời hoàng kim của waka tức mọi người tập hợp vào một
ngày đã định trước kể cả thơ renka, và được gọi tsukinami của thơ hokku, tsukinami của renka.
Và cũng chính trong thời gian này- thời gian mà thơ haiku phổ biến như một thú tiêu khiển, tiêu

13


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

khiển đến mức mà ngay cả những người ngoại đạo như các văn nghệ sĩ kịch nghệ Kabuki cũng
có thể tham gia sáng tác và dĩ nhiên chất lượng rất thấp và nhìn chung không có tầng sâu về ý
nghĩa nội dung lẫn nghệ thuật. Những bài thơ Shiki viết trong khoảng thời gian từ năm 1892 đến
năm 1895 tức với phong cách được nuôi dưỡng từ những năm đầu Minh Trị - là lúc Shiki chẳng
biết gì khác ngoài phong cách theo lệ tsukinami. Và sau đây là một trong những bài thơ được
ông sáng tác trong hoàn cảnh đó:
木をつみて

ki o tsumite

Cây chất chồng

夜の明やすき

yono akeyasuki

ánh hừng đông

小窓かな

komado kana


len vào ô cửa nhỏ.

Akeyasuki là quý ngữ chỉ mùa hè đến sớm. Đây là bài thơ thời kỳ đầu của Shiki kể từ năm 1885
và là một trong các bài thơ theo phong cách cũ nhưng sau đó chính ông lại khinh miệt, đả phá nó
vì yêu cầu người đọc phải suy nghĩ, liên tưởng một cách có logic (cây che lấp - ánh sáng - len
vào cửa sổ nhỏ) hơn là bằng nguồn xúc cảm. Sau này với quan niệm nghệ thuật mới: Shasei ( Tả
thực/ Tả sinh ), ông đã lên tiếng phê bình kiểu họp thơ tsukinami-haiku và cho đây là bước
ngoặt thích hợp cho cách tân haiku:
“Tsukinami haiku không đánh vào tình cảm, mà đánh vào học thức, là bước tìm kiếm cái mới
của giới tân kỳ ưa thích ý tứ sáo mòn. Tsukinami haiku thích sự nới lỏng ngôn từ và ghét sự chặt
chẽ . Hoặc tsukinami - haiku chỉ quen sử dụng vốn ngôn từ trong phạm vi hẹp đã từng quen
thuộc. Tsukinami vinh hiển sự phiêu bạt và hệ thống của haikai”.

II.

Đặc trưng nội dung thơ Haiku của Masaoka Shiki trong thời kì canh

tân:
Masaoka Shiki sinh vào thời gian giao thoa giữa hai nền chính trị là Tokugawa và Minh Trị.
Suốt thời kỳ thơ ấu, chứng kiến sự giao thời và các biến cố của xã hội, Shiki đã lột tả ranh giới
giữa thời kỳ tiền hiện đại và hiện đại qua thơ ca. Thơ của Shiki thường nêu lên những nghịch lý,
thói đời trớ trêu nhập nhằng của xã hội và bày tỏ sự bình thản trước các mâu thuẫn trong cuộc
sống. Đối với ông : “Haiku trở thành một bộ phận của văn học. Văn học trở thành một bộ phận
của mỹ thuật. Kết quả là tiêu chuẩn cái đẹp trở thành tiêu chuẩn của văn học. Tiêu chuẩn của văn
học trở thành tiêu chuẩn của haiku. Tóm lại hội họa, điêu khắc, âm nhạc, kịch nghệ, thơ ca, tiểu
thuyết, tất cả đều cùng chung một tiêu chuẩn để đánh giá”.
Cái mới trong thơ Shiki thời kì cách tân đó chính là sự chuyển hướng về chất lượng hoàn toàn
mang tính văn học. Khác với đặc trưng nội dung thơ haiku của Basho là thiên về sự trầm lắng,
14



ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

thanh bình với các thuyết thẩm mỹ sabi, wabi, thơ haiku của Shiki lại mang nét đặc trưng, phong
cách hiếu động của một xã hội hiện đại. Chắc cũng chính vì lẽ đó mà Shiki luôn chỉ trích thơ của
Basho nghèo nàn yếu tố thơ ca. Nhưng ngược lại với Buson thì lại khác, Shiki hết lời ca ngợi
thơ của thi sĩ - họa sĩ Yosa Buson (1716 – 1783) tao nhã, phong cách tả thực (shasei) rất ấn
tượng nặng tính không tưởng. Có nhiều nhận định cho rằng Shiki chịu ảnh hưởng từ phong cách
thơ của Buson, tuy giống thì giống nhưng biến hóa hơn so với Buson. Từ đây có thể thấy rõ tinh
thần cách tân nghệ thuật của ông: cái mới tiếp nối cái cũ từ thời kỳ này sang thời kỳ khác để
phát triển chứ không thay đổi hoàn toàn và làm cái cũ mất đi. So sánh đặc điểm nội dung của thơ
haiku Buson và thơ haiku Shiki:
釣鐘に
止まりて眠る
胡蝶かな

tsurigane ni

Trên chuông chùa

tomarite nemuru

đậu yên, ngủ

kochou kana


một cánh bướm.
Buson

釣鐘に

tsurigane ni

Trên chuông chùa

止まりて光る

tomarite hikaru

đậu yên, tỏa sáng

ーかな

hotaru kanacon

đom đóm.
Shiki

Có thể thấy trong cùng một ngữ cảnh, thơ Shiki lại mang nội dung tràn sinh động và đầy sức
sống, nếu như con bướm của Buson đang say giấc nồng thì đom đóm nhỏ bé của Shiki lại lấp
lánh tỏa sáng.
Mặt khác nói đến đặc điểm nội dung thơ haiku của Shiki không thể không nhắc đến thuyết tả
thưc. Có thể nói cái sáng tạo về nội dung của Shiki đó là việc Shiki đã đem phong cách tả sinh
“shasei” để bao hàm luôn cả tả thực “shajitsu” – tái sinh những gì như chính chúng đang có. Khi
15



ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

thuyết tả thực được du nhập từ phong cách nghệ thuật phương Tây, Shiki cũng như giới tri thức
Nhật Bản nghĩ rằng phương Tây làm được mà Nhật Bản không làm sẽ bị lạc hậu. Tư tưởng này
ảnh hưởng rất sâu rộng trên nhiều lãnh vực văn hóa nghệ thuật của Nhật Bản. Tiếp nhận yếu tố
từ nước ngoài nhưng đều với mục đích tạo bản sắc mới mang nét riêng của Nhật Bản, vượt qua
dân tộc để mở ra một thế giới mới phổ biến hơn. Hầu hết thơ haiku mới, hoặc haiku dù được
cách tân ở hình thức nào đều được quần chúng đón nhận chính là nhờ dựa trên cơ sở nền tảng
này, tức đạt được tính ‘thuận ý thuận tình’ trong công cuộc cách tân.
時鳥

hototogisu

Bên cửa ban mai

雲雲雲雲雲雲

kumo ni nuretaru

tiếng chim đỗ vũ

雲雲雲

asa no mado


ướt đẫm mây.

Mùa đông buồn lạnh lẽo qua con mắt nhà thơ Shiki:
冬川に

Fuyukawa ni

Xác chó

捨てたる犬の

sutetaru inu no

lững lờ trôi

雲雲雲雲雲

kabane kana

trên sông mùa đông

Nội dung thơ haiku của Shiki không đơn giản chỉ là thơ mang tính tả thực mà cũng chẳng phải
chỉ là không tưởng, vượt qua cả ngưỡng tả thực để chạm đến thực tại của vũ trụ.
稻の花

Ine no hana

Núi Dokan


道灌山の

Dokana yama no

rực rỡ

雲雲雲雲

hiyori kana

lúa trổ đòng đòng.

Sau một quá trình tìm tòi nghiên cứu và sáng tạo Shiki đã đưa ra các quy định nghiêm ngặt cho
thuyết tả thực, là nền tảng cơ bản nhất cho các nhà thơ thực tập: “Bạn không được dừng lại khi
bạn đã có một hay hai bài thơ từ một quan điểm thoáng đãng. Kế tiếp bạn phải nhìn xuống ngay
dưới chân mình và viết về những gì bạn thấy ở đó – cỏ, hoa đang nở. Chỉ cần viết về mỗi thứ đó
thôi, bạn đã có thể có đến 10 hoặc 20 bài thơ mà không cần phải di chuyển đi đâu cả. Hãy lấy tư
liệu từ chính những gì đang ở xung quanh bạn – nếu bạn thấy cây bồ công anh, thì hãy viết về
bồ công anh. Nếu đó là sương mù thì cứ viết về sương mù. Tư liệu cho văn chương là vô số
những gì thuộc về bạn. Ngay cả đôi giày cũ (waraji) cũng có thể trở thành tư liệu cho thơ văn

16


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部


còn hay hơn là viết về đôi giày của phương Tây. Hoặc kimono còn thi vị hơn là cây dù phương
Tây.”

17


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

CHƯƠNG IV:
ĐẶC ĐIỂM ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT THƠ HAIKU CỦA MASAOKA SIKKI
Với nhiệt huyết mong muốn cách tân để nâng cao giá trị trong nghệ thuật của haiku,
Shiki đã áp dụng thuyết tả thực vào phương pháp sáng tác haiku. Tả thực là bắt nắm trực giác đồ
vật, còn với haiku đó là sự khám phá cách thể hiện sự thực một cách trực giác lên trên một tờ
giấy trắng. Shiki còn chịu ảnh hưởng lý tưởng shajitsu (tả thực) từ trong hội họa Tây phương
của họa sĩ người Pháp Raphael Collin du nhập vào Nhật Bản đầu thời kỳ Meiji. Vay
mượn shajitsu (tả thực), Shiki gắn kết chúng với những gì ông đã tiếp nhận từ nhà nghiên cứu
văn học Tsubochi Shoyo - là nhà văn rất thông thuộc văn chương và phê bình văn học Anh quốc.
Từ đó, Shiki đã đem phong cách tả sinh “shasei” để bao hàm luôn cả tả thực “shajitsu” – tái sinh
những gì như chính chúng đang có.
砂浜に

suna hama ni

Vết chân dài

足跡長き


ashi ato nagaki

in trên bờ cát

春日かな

haru hi kana

ngày xuân.

Cách tân haiku theo phương pháp luận tả thực (shasei) của Shiki phụ thuộc vào sự cảm
nhận của người đọc thông qua cách sử dụng ngôn từ thể hiện của nguời viết – tức lấy tả thực dựa
vào quan sát hiện thực của tự nhiên hơn là sự chơi chữ hoặc sự tưởng tượng như haiku trước
đây.
月一輪

tsuki ichi-rin

Một mảnh trăng tròn

星無ー空

hoshi mukazu sora

trên trời đầy sao

ーなり

midori kana


xanh thẳm.

Với Shiki, haiku không đơn giản chỉ là bài thơ mang tính tả thực mà cũng chẳng phải chỉ
là không tưởng, mà trên quan điểm ‘Phi Không Phi Thực’ vượt qua cả ngưỡng tả thực để chạm
18


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

đến thực tại của vũ trụ. Ông khuyên những người mới bắt đầu đến với thơ ca nên thường xuyên
đi đây đó vào các mùa khác nhau, để khám phá nguồn thi hứng phong phú cho haiku.
稻の花

Ine no hana

Núi Dokan

道灌山の

Dokana yama no

rực rỡ

日和かな


hiyori kana

lúa trổ đòng đòng.

Ngay cả trong một khu vườn nhỏ trước nhà của Shiki - nơi không đến mười bước chân
luôn bị tuyết phủ che lấp hoa và cỏ mỗi khi trời lập đông, vẫn luôn là một đề tài mới mang đậm
phong cách tả thực.
いくたびも

Ikutabi mo

Biết bao lần

雪の深さを

yuki no fukasa o

hỏi đi hỏi lại

尋ねけり

tazunekeri

tuyết dày bao nhiêu!

Tìm ra con đường tiếp cận với hiện thực, Shiki luôn cho rằng chẳng bao giờ cạn kiệt đề
tài thơ ca với vô vàn cảnh vật đang ở xung quanh. Thế là ông tiếp tục viết và viết càng nhiều, chỉ
trong một năm 1893 Shiki viết đến hơn 4000 bài thơ haiku - nhiều nhất trong các năm suốt cuộc
đời ông, trong đó có bài:
ー頭の


keitou no

Cơn mưa cuối Thu

ーきにそそぐ

kuroki ni sosogu

rót màu đen sẫm

時雨かな

shigure kana 

xuống hoa mào gà.

Tinh tế của bài thơ là sử dụng hai quý ngữ “keitou” (hoa mào gà) và “shigure” nhưng chủ
đạo là “shigure” (mưa rào cuối Thu – báo hiệu mùa Đông sắp đến). Trong haiku, thường tránh
miêu tả trực tiếp vì bị cho là ít gây hiệu quả cảm xúc, mà phải mô tả một cách gián tiếp như
dùng tuyết để liên tưởng đến màu trắng. Đối với diễn tả màu đen lại càng khó diễn tả hơn. Thế
nhưng trong bài thơ trên, Shiki lại rất hiệu quả khi sử dụng sắc màu trực tiếp ‘sẫm một màu đen”
– như chính hoa mào gà đang phải hứng chịu một cơn mưa đen xối xả.
19


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句


日本語ー部

NHỮNG CÁCH TÂN VỀ HÌNH THỨC HAIKU
Theo quan điểm cách tân của Shiki, thế giới mới lạ của thời kỳ Minh Trị Duy Tân chẳng
có đề tài gì là thích hợp cho thơ ca và chỉ có thể phục vụ cho lý tưởng của “tao nhã tuyệt mỹ”
của giới quý tộc samurai với các giá trị trong giới thương gia. Ông hàm ý rằng nếu một khi
haiku nằm trong tay của giới thương gia thì sự suy tàn của haiku là điều không thể tránh khỏi.
Mặt khác Shiki đến với haiku rất tài tử, không phải là một chuyên gia hay nhà thơ chuyên
nghiệp vì thế Shiki chẳng mấy quan tâm đến sự hiện hữu của cấu trúc mang tính quy tắc được
dạy dỗ trong nhà trường. Shiki phê phán sự hạn chế trong hạn định số âm từ của haiku, cho rằng
sự ngắn gọn của haiku sẽ thoái trào vì sự hạn chế trong kết cấu, dẫn đến hạn hẹp về đề tài và
thực tế là bấy giờ haiku đang gần như đi vào con đường cáo chung. Bước vào thời kỳ hiện đại,
cấu trúc nguyên thủy đậm tính truyền thống của haiku bắt đầu bị lung lay phá vỡ khi các nhà
cách tân lên tiếng mạnh mẽ về chủ trương luật tự do (riyu-ritsu). Phá vỡ quy ước cấu trúc 5 – 7 –
5 âm, không phải đến thời kỳ cận đại mới có, mà ngay cả các nhà thơ đi trước như Basho và một
số nhà thơ sau đó cũng đã từng có một số bài haiku bất quy tắc như Basho với cấu trúc 5 – 9 – 5
năm 1689:
枯れ枝に

kare eda ni

Trên cành khô

烏のとまりけり

karasu no tomarikeri

quạ đậu

秋の暮れ


aki no kure

chiều tàn thu.

Bài thơ đã lên tiếng phê bình tính vô nghĩa và vô thức của cấu trúc nguyên thủy. Nếu tuân
theo quy ước 5 – 7 – 5 vẫn có thể dùng từ hana shizuka để diễn tả hoa âm thầm nở, nhưng
Ayatari đã khám phá từ dài hơi hơn hana mo shizukeki để lột tả cảm xúc mạnh hơn “hoa cũng
đang đua nở”.
Từ cuối thời kỳ Meiji cho đến thời kỳ Taisho, làn sóng phản đối và chối từ cấu trúc
nguyên thủy của haiku lan rộng vì với hình thức bị giới hạn như thế sẽ không thể lột tả đầy đủ
được tính chân thật như thuyết tả sinh – tả thực của Shiki đã đưa ra. Khuynh hướng này đã dẫn
đường cho sự ra đời của luật tự do (riyu-ritsu). Shiki với haiku 6 – 8 – 5:
雪の家に
寢て居ると思ふ
ばかりに

yuki no ie ni

Nằm trên giường bệnh

nete iru to omofu
bakari ni te

sao toàn nghĩ đến
tuyết trên mái nhà.

20



ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

Luận điểm của Shiki một lần nữa gây ra hoang mang cho giới tri thức thời bấy giờ: nếu
không chấp nhận thay thế cái mới vào những gì đã được lưu truyền từ thế hệ cha ông, chúng ta
không thể bắt kịp phương Tây.
Kigo (quý ngữ) là ngôn từ để cảm nhận thời gian trong haiku. Kigo là biểu tượng về mùa
trong năm như xuân, hạ, thu, đông.Thế nhưng Shiki – người không mệt mỏi với công cuộc cách
tân haiku và tanka, người đã có công đưa hokku độc lập với haikai và trở thành tên gọi haiku –
lại không có quan niệm gọi là kigo. Thay vào đó, với Kishi là kidai-me – tức đề tài về mùa (chứ
không phải từ chỉ mùa)
年玉を

otoshidama wo

Tiền mừng tuổi

ーべて置くや

narabete oku ya

đã sắp sẵn

makura moto

dưới gối đầu.


枕元

Otoshidama – tiền lì xì được Shiki sử dụng cho biểu tượng của năm mới đang đến. Thậm
chí Shiki còn cho rằng quý ngữ kigo không chỉ về mùa mà là sự giao hòa giữa con người với
thiên nhiên và mang đậm tính nhân văn:
暑くるし

atsukurushi

Nóng bức vô cùng

ーれ心や

midare gokoro ya

tâm thần bần loạn

雷をきく

rai o kiku

tiếng sấm rền vang

Âu cũng là quan điểm tả thực – tả sinh mà Shiki đã không ngừng đeo đuổi.

21


ホーチミン市師範大ー


正岡 子規の俳句

日本語ー部

CHƯƠNG V:
GIÁ TRỊ THƠ HAIKU CỦA MASAOKA

III.

Giá trị nội dung:
Shiki lại cho rằng haiku phải đặt tình cảm lên trên tri thức và lý luận, lấy tả thực thay cho
tưởng tượng. Hai chữ “ tả thực ” (shajitsu) nầy vốn chịu ảnh hưởng của nghệ thuật “tả sinh”
(shasei = sketch, drawn from the nature) thấy trong hội họa Tây Phương du nhập vào Nhật Bản
đầu thời Meiji. Không riêng gì hội họa, Shiki nhìn nhận lý luận về “tả thực” của Tsubouchi
Shôyô trong “Tinh hoa của tiểu thuyết” và nghệ thuật tmô tả trong tiểu thuyết “Mây trôi dạt” của
Futabatei Shimei cũng đã “mở mắt” cho ông.Lý tưởng “shasei” của ông năm trong hai chữ Hán
“bình đạm” (heitan) nghĩa là đơn sơ và đạm bạc hay kiểu cách hội họa gọi là plein air (ngoài
trời) của một họa sĩ không mấy tên tuổi người Pháp tên là Raphael Collin (1850-1916) đã được
họa sĩ Nhật Kuroda Seiki (Hắc Điền, Thanh Huy, 1866-1924) mang từ Paris về giới thiệu cho
người Nhật .

IV.

Giá trị tinh thần shasei:
Bài thơ sau đây tả cảnh lối lên chùa một ngày chớm thu của Shiki làm trong một buổi đi dạo
với nhà thơ Naitô Meisetsu (Nội Đằng, Minh Tuyết, 1847-1926) và họa sĩ Nakamura Fusetsu
(Trung Thôn, Bất Chiết, 1866-1943) đã được nhà họa sĩ, linh hồn của lý luận “shasei” xem như
nó đã thể hiện được tinh thần đó vì bài thơ có thể đem ra vẽ được.
Trời vào thu,
Bậc thang đá phóng cao,

Vào giữa đám tuyết tùng.
(Bài Hatsuaki no, thơ Masuoka Shiki)
Masaoka Shiki còn tom góp và chỉnh lý được đăng trong tập Kanzan rakuboku (Hàn sơn lạc
mộc, 1924) “ Cây trút lá trong núi lạnh”. Trong 12000 bài thu thập được ở đây, thường là những
bài thơ hướng về cuộc sống hàng ngày và có tính cách tả chân. Ngoài ra Shiki còn để lại những
tùy bút như Bokujuu itteki (Mặc trấp nhất trích) “Một giọt mực”, Gyôga manroku (Ngưỡng ngọa
mạn lục) “Ghi chơi lúc nằm ngửa” và Byôsô rokuseki (Bệnh sàng lục xích) “ Trên giường bệnh
hẹp”, qua đó hình thức viết “văn xuôi tả sinh” (shaseibun) đã được tác giả áp dụng.

22


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

V.

Nguồn cảm hứng làm thơ:
Với Shiki, haiku không đơn giản chỉ là bài thơ mang tính tả thực mà cũng chẳng phải chỉ là
không tưởng, mà trên quan điểm ‘Phi Không Phi Thực’ vượt qua cả ngưỡng tả thực để chạm đến
thực tại của vũ trụ.

VI.

Tuyển tập và giá trị trong haiku của Masaoka Shiki:
Năm Meiji 31 (1898), tuyển tập Tân haiku (Kushu Shin-haiku) gần 400 trang do Masaoka
Shiki đồng chủ biên với các đồng môn cũng được đăng đàn. Lời nói đầu của Shiki trong tuyển

tập này khá dài nhưng đã nêu lên nội dung quan trọng:
“Haiku đã đem lại một sinh mệnh mới vào tâm trí của haijin (nhà thơ haiku)…Haiku thời
kỳ Meiji, hơn nữa haiku mới (shin-haiku) thời Meiji đã ra đời từ sau năm Meiji 25. Trong
vòng 10 năm sự thay đổi trưởng thành của haiku thật sự kinh ngạc. Sự tồn tại của haiku bắt
đầu lên tiếng đòi được thừa nhận không chỉ trong giới văn nhân, mà lan rộng khắp nơi kêu
gọi tán thành lẫn bị phản đối …Đây là giá trị nhất của haiku mà những thời trước đó không
có được.”

VII. Truyền đạt giá trị tư tưởng:
Shiki đã dạy học sinh cách làm thơ haiku với đề tài được chuyển tải từ chính năng lực tự quan
sát thiên nhiên. Sau đó, Shiki viết bài Haikai-taiyo (Haikai Đại Yếu) dành cho người bắt đầu học
haiku và đăng nhiều kỳ trên báo Nippon. Tháng 2 năm Meiji 26 (1893), trong bài Tạp đàm
Basho (Zatsudan Basho / Chuyện phiếm Basho) trên báo Nippon, Shiki viết:
“Haiku trở thành một bộ phận của văn học. Văn học trở thành một bộ phận của mỹ thuật. Kết
quả là tiêu chuẩn cái đẹp trở thành tiêu chuẩn của văn học. Tiêu chuẩn của văn học trở thành tiêu
chuẩn của haiku. Tóm lại hội họa, điêu khắc, âm nhạc, kịch nghệ, thơ ca, tiểu thuyết, tất cả đều
cùng chung một tiêu chuẩn để đánh giá”.
Trọng tâm cách tân haiku của Shiki chính là sự chuyển hướng về chất lượng hoàn toàn mang
tính văn học. Thơ Haiku của Shiki mang phong cách hiếu động của một xã hội hiện đại và bên
cạnh đó Shiki lại không ngớt lời ca ngợi thơ của các thi sĩ với phong cách tao nhã, phong cách tả
thực (shasei) rất ấn tượng nặng tính không tưởng.
Shiki còn lên tiếng đả phá thói đạo đức giả và thói nghiện những thể thơ vô nghĩa, nói cách
khác ông chống đối những gì thuộc về kinh điển.

23


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句


日本語ー部

VIII. Giá trị nội dung trong thời kỳ trước khi chết:
Trong thời gian bị bệnh thổ huyết trước khi mất, Shiki thường cho rằng tháng năm là tháng hay
xảy ra những biến cố tồi tệ nhất với mình, nên các bài thơ của ông khi nói về tháng năm thường
mang vẻ u buồn. Quang cảnh tiết trời vào mùa mưa, lúc nào cũng ướt sũng, bầu trời u ám xám
xịt mây đen của tháng 5 năm Meiji 34 (1901), khiến Shiki ám ảnh đến một điều gì đó – trời mưa
buồn hay chính bản thân Shiki đang chống chọi với cơn bệnh. Cũng giống như trong thơ
Nguyễn Du “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, Shiki vận cảnh buồn thê thảm đó vào chính
bản thân mình. Lá xanh, cây cỏ dại đâm chồi ướt đẫm nước mưa hay hàm nghĩa bóng bảy một
niềm hy vọng “sau cơn mưa trời lại sáng”. Đây cũng là một điểm rất riêng của Shiki là thể hiện
được cái tôi trong haiku và tanka – điều này khác biệt với các thể thơ truyền thống trước đó chưa
làm được: nhận thức kép trong thể hiện giữa miêu tả khách quan và chủ quan.

IX.

Giá trị nghệ thuật thơ Haiku của Masaoka Shiki:
Với nhiệt huyết mong muốn cách tân để nâng cao giá trị trong nghệ thuật của haiku, Shiki đã áp
dụng thuyết tả sinh (Shasei) vào phương pháp sáng tác haiku. Với Shasei ban đầu chỉ tập trung
vào phác họa cuộc sống xung quanh. Tuy nhiên, Shiki đã nhận ra những hạn chế của việc diễn tả
câu từ bằng thuyết tả sinh. Và một phần do chịu ảnh hưởng bởi lý tưởng shajitsu (tả thực) từ
trong hội họa ngoài trời Tây phương du nhập vào Nhật Bản đầu thời kỳ Meiji nhờ đó Shiki đã
cho ra đời một phong cách nghệ thuật haiku mới, lồng ghép giữa phương pháp tả sinh (shasei)
và phương pháp tả thực (shajitsu).
Và trong lịch sử của haiku, mỗi khi sáng tác một bài thơ ta luôn phải nhớ đến ba quy ước đã
được tuân thủ từ lâu đời: cấu trúc cố định giàu âm điệu 5 – 7 – 5 âm tiết, quý ngữ (kigo) và ngắt
từ kireji. Mỗi quy ước nắm giữ một vai trò riêng. Cấu trúc cố định 5 – 7 – 5 âm giữ vai trò về
hình thức, ngắt từ kire-ji liên quan đến nội dung, còn quý ngữ kigo có vai trò vừa nội dung lẫn
hình thức. Nhưng đối với Shiki, một người luôn theo đuổi sự cách tân bắt kịp với thời đại thì

những quy ước đó giống như một rào cản của truyền thống cổ hủ, ngăn cản sự tiến hóa của thơ
haiku. Bên cạnh đó, cấu trúc nguyên thủy của haiku không thể lột tả đầy đủ được tính chân thật
như thuyết tả sinh – tả thực của Shiki đã đưa ra về trước đã dẫn đường cho sự ra đời của luật tự
do (riyu-ritsu) và thơ haiku dư từ (ji-amari) mà ở thời kỳ cận đại rất được phổ biến rộng rãi và
trở thành xu hướng của thời kỳ này.
Tìm ra con đường tiếp cận với hiện thực, đề tài thơ của Shiki không bao giờ cạn kiệt mà ngày
càng phong phú, sáng tạo. Nếu haiku diễn tả trung thành về mùa cũng có nghĩa diễn tả sự trung
thành với thiên nhiên, quý trọng thiên nhiên của người Nhật. Kigo (phú quý) có nghĩa là bốn
mùa trong năm xuân – hạ - thu – đông. Người Nhật vốn dĩ luôn nhạy cảm với thiên nhiên và thời
tiết, vì thế khi làm haiku luôn phải có kigo ẩn mình bên trong đó. Thế nhưng Shiki lại không hề
24


ホーチミン市師範大ー

正岡 子規の俳句

日本語ー部

bị bó buộc trong mỗi bốn mùa. Thơ Haiku của ông mở rộng ra cả về sự thay đổi của thiên nhiên
và con người. Shiki mở rộng quan điểm về kigo của mình ra khỏi bốn mùa xuân hạ thu đông và
hướng về sự hòa hợp của con người với thiên nhiên. Vì lẽ đó thơ Shiki luôn gần gũi với quần
chúng nhưng vẫn đậm chất ôn hòa thanh khiết của thiên nhiên.
Trong thơ Shiki ta có thể tìm thấy sự kết hợp hài hòa, tinh tế giữa hai yếu tố trái ngược nhau như
hiện thực và tưởng tượng, khách quan và chủ quan. Nghệ thuật trong thơ của Shiki chính là sự
tồn tại song song và cân bằng lẫn nhau của các yếu tố đối nghịch tưởng chừng như không thể kết
hợp được: sự sống và cái chết, cái đi trước và cái đến sau, sự hòa quyện giữa truyền thống và
cách tân nhằm đưa haiku thoát khỏi con đường thoái trào suy vong. Chính nhờ sự kết hợp nhuần
nhuyễn các yếu tố đối nghịch này đã làm nên giá trị nghệ thuật trong thơ haiku của Shiki, làm
cho người đọc cảm thấy thân quen, bình dị gần gũi với con người và cuộc sống xung quanh.

Cũng có thể coi điều này cũng là phong cách sắc thái nghệ thuật nổi bật của Shiki.
Nếu Bashô là người đặt nền tảng cho haiku, Buson nới rộng tầm vóc nó, Issa đưa nó đến gần với
cuộc sống thì Shiki chú trọng đến hiện thực thực tế và đưa haiku lên một tầm vóc mới, phá vỡ
những rào cản truyền thống trói buộc thơ haiku cũng như đánh dấu thời kỳ chuyển biến trong
làng văn thơ Nhật Bản. Có thể nói rằng thơ haiku của Shiki đã đem những giá trị nghệ thuật mới
mẻ thông qua sự cách tân, đổi mới trong nghệ thuật làm thơ haiku cùng với nghệ thuật tả sinh tả thực kéo gần mọi người đến với thơ cuả Shiki

X. GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG THƠ HAIKU CỦA MASAOKA SHIKI:
Thơ haiku là nơi quy tụ của cảm xúc về con người và vũ trụ. Ở đó, cả nhà thơ và độc giả có thể
tuyền tải cảm xúc của riêng mình trong tác phẩm.Trong mỗi bài thơ Haiku đều bắt buộc phải có
“ quý ngữ “ (từ chỉ mùa ).Điều này cho chúng ta thấy rằng thơ Haiku bao giờ cũng nói về cảnh
vật trước mắt, nó là thơ của thời hiện tại.Những tác phẩm của Masaoka Shiki luôn mang một sự
cách tân lành mạnh ,ông luôn cải cách những bài thơ của mình không chỉ về hình thức mà cả nội
dung, lý tưởng chủ đạo xuyên suốt thơ của ông chính là lối “tả thực “ (shasei).Tất cả những đối
tượng mà Shiki mang vào thơ đó là những thứ hết sức gần gũi, thân thiết với con người.
Giá trị nhân đạo không chỉ nằm trên câu chữ và nội dung của tác phẩm mà nó còn được thể hiện
qua cách nhìn nhận của nhà thơ về thể thơ mà mình tâm huyết với nó. Masaoka Shiki nói rõ rằng
“ Haiku đã đem lại sinh mệnh mới vào tâm trí các hanjin (nhà thơ haiku)...kaiku thơi meiji hơn
nữa Haiku mới (shinhaiku) thời meiji đã ra đời từ sau năm meiji năm 25.Trong vòng 10 năm sự
thay đổi truongr thành của Haiku thật sự rất kinh ngạc.Sự tồn tại của haiku bắt đầu lên tiếng đòi
sự thừa nhận không chỉ trong giới nhân văn, mà lan rộng khắp nơi kêu gọi tán thành lẫn bị phản
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×