Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tìm hiểu phong cách thơ haiku của MATSUO BASHO, YOSA BUSON và KOBAYASHI ISSA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.11 KB, 56 trang )

































ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NIÊN LUẬN

ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU PHONG CÁCH
THƠ HAIKU
CỦA MATSUO BASHO,
YOSA BUSON VÀ
KOBAYASHI ISSA
GVHD:

Ths. Nguyễn Thị Lam Anh

Sinh viên thực hiện:
Tên: Nguyễn Duy Bình
MSSV: 1056190013
Niên khóa: 2010-2014



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4

4.1. Mục đích 4
4.2. Nhiệm Vụ 5
5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 5
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
6.1. Phương pháp tập hợp – Khảo sát tư liệu 5
6.2. Phương pháp phân tích – Tổng hợp 6
6.3. Phương pháp so sánh – Đối chiếu 6
6.4. Phương pháp hệ thống 6
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 6
PHẦN NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THƠ HAIKU 7
1. Nguồn gốc ra đời 7
2. Nội dung và hình thức nghệ thuật 9
3. Quá trình phát triển 10
CHƯƠNG 2: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ MATSUO BASHO 12
1. Cuộc đời và sự nghiệp cùa nhà thơ Matsuo Basho 12
1.1 Cuộc đời 12
1.2. Sự nghiệp sáng tác 14
2. Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho 15
2.1. Cảm thức Sabi 15
2.2. Cảm thức Wabi 19
2.3. Cảm thức Aware 21


2.4. Cảm thức Karumi 23
CHƯƠNG 3: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ YOSA BUSON 26
1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Yosa Buson 26
1.1. Cuộc đời 26
1.2. Sự nghiệp sáng tác 28
2. Phong cách thơ haiku của Yosa Buson 28

CHƯƠNG 4: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ KOBAYASHI ISSA 37
1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Kobayashi Issa 37
1.1. Cuộc đời 37
1.2. Sự nghiệp sáng tác 40
2. Phong cách thơ haiku của Kobayashi Issa 40
2.1. Con người của nỗi đau và bất hạnh 40
2.2. Tình yêu thương dịu dàng đối với loài vật nhỏ bé 44
2.3. Mẹ – nguồn thi ca vô tận 48
PHẦN KẾT LUẬN 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 53















1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Đất nước Nhật Bản có điều kiện địa lý khá đặc biệt so với nhiều
nước trên thế giới, là một quốc đảo có vị trí biệt lập. Trong quá khứ
xa xưa, nhờ vị trí đảo quốc đặc biệt của mình mà Nhật Bản tránh
được nhiều cuộc xâm chiếm đất đai giữa các nước láng giềng lục địa.
Nhật Bản là một quốc gia Đông Bắc Á duy nhất trực tiếp tiếp thu rất
nhiều từ Đông Á vá Đông Nam Á các nghề trồng củ, trồng lúa nước,
dệt vải, tín ngưỡng nữ thần…hình thành một đảo quốc luôn tạo ra
những chuỗi bất ngờ cho thế giới cả trong quá khứ lẫn hiện đại về
một nền văn hóa độc đáo của xứ sở Phù Tang.
Nhật Bản là một xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập
tục và nghi lễ, với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở
rộ như những đám mây hoa, với những thiếu nữ duyên dáng trong tà
áo kimono truyền thống. Đây còn là xứ sở huyền thoại của những Võ
sĩ đạo, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: sumo, akido,
karate, judo… Một xứ sở của Thiền đạo và Trà đạo gắn liền với
những bài thơ haiku ngắn đến mức tưởng chừng như không thể ngắn
hơn được nữa. Độc giả sẽ rất đỗi ngạc nhiên bởi bên cạnh những bài
thơ haiku cực ngắn ấy là cả một quá trình dài với những bước thăng
trầm gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà thơ nổi tiếng. Có bốn nhà
thơ được người đời tôn làm tứ trụ trong thơ haiku đó là: Matsuo
Basho, Yosan Buson, Kobayashi Issa và Masaoka Shiki. Mỗi nhà
thơ đều có những bút pháp, phong cách rất riêng, họ đã cùng nhau
đưa haiku lên đỉnh cao của nghệ thuật.
Thơ Haiku của Nhật Bản lan tỏa trên thế giới một cách trầm
lặng mà gây ra tiếng vang xa rộng như bước nhảy của một con ếch từ
trên bờ nhảy “tủm” xuống ao làm mặt nước xao động. Nó trở thành
một thể thơ đặc trưng của người Nhật trong mắt bạn bè quốc tế.


2


Ở Việt Nam, hòa theo xu thế hội nhập toàn cầu thì mối quan hệ
giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển nhanh chóng trên
nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều
sâu. Bên cạnh sự phát triển về Kinh tế – Xã hội và khoa học kĩ thuật
thì nhu cầu giao lưu văn hóa, học tập nghiên cứu của công dân giữa
hai quốc gia ngày càng phát triển theo. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
và phổ biến văn học Nhật Bản chưa được rộng rãi, chỉ là bước đầu
tiếp cận. Sách ngữ văn lớp 10 bộ mới cũng lần đầu tiên đưa vào
giảng dạy thơ haiku Nhật Bản cho học sinh Phổ thông nghiên cứu.
Trong hoàn cảnh này, việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ haiku là rất cần
thiết và ý nghĩa. Do hạn chế về thời gian và kiến thức nên tôi xin
được tìm hiểu riêng về “Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho,
Yosa Buson và Kobayashi Issa”.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Nền văn học Nhật Bản nói chung, thơ haiku nói riêng cũng từ
khá lâu rồi được nhiều dịch giả, giới nghiên cứu và bạn đọc trên thế
giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam việc quan tâm đến
văn học xứ Phù Tang ngày càng tăng nhưng sách biên soạn về
chuyên đề này chưa nhiều. Do nhu cầu tìm hiểu tinh hoa của nền văn
học Nhật Bản đã phát sinh từ nhà trường và xã hội mà nó được đón
nhận một cách nồng nhiệt. Việc nghiên cứu tìm hiểu và sáng tác thơ
haiku ở Việt Nam đang ở bước đầu. Dù Việt Nam còn mới mẻ trong
việc tiếp cận nền văn học Nhật Bản nhưng Việt Nam và Nhật Bản
vốn là những nước Châu Á nên việc tiếp cận có phần dễ dàng hơn.
Trong ba nhà thơ Basho, Buson và Issa, các tác phẩm của nhà
thơ Basho được dịch sang tiếng Việt nhiều nhất và có nhiều bản dịch
khác nhau. Thơ haiku đến với người Việt bước đầu là từ dịch thơ rồi
đi đến khám phá nguyên lý thơ và sau cùng là sáng tác thơ theo thể
haiku bằng tiếng Việt. Độc giả dần dần hiểu được rồi say mê thơ

haiku. Đến ngày nay, thơ haiku được giới thiệu trên các trang báo
Tài hoa trẻ, Tạp chí Văn học, Báo Văn học và Tuổi trẻ hay sách viết


3

về văn học văn hóa Nhật Bản với các bài dịch thơ, bài viết của các
tác giả nổi tiếng ở Việt Nam như: Nhật Chiêu, Đoàn Lê Giang, Vĩnh
Sính, Thái Bá Tân…Trong số những người nghiên cứu về văn học
văn hoá Nhật Bản, Nhật Chiêu là người có đóng góp to lớn trong
việc chuyển tải tâm hồn Nhật đến người Việt. Ông đã xuất bản nhiều
sách về văn học văn hoá Nhật Bản như là: Nhật Bản Trong Chiếc
Gương Soi (NXB Giáo Dục – 2003), Thơ Ca Nhật Bản (NXB Giáo
Dục, 1998), 3000 Thế Giới Thơm (NXB Văn Nghệ – 2007 ), Văn
Học Nhật Bản Từ Khởi Thuỷ Đến 1868 (NXB Giáo Dục –
2002),…Ngoài ra còn một số nhà nghiên cứu khác như là: Lê Từ
Hiền – Lưu Đức Trung với tác phẩm: Haiku – Hoa Thời Gian (NXB
Giáo Dục – 2007), Lê Thiện Dũng đã dịch tác phẩm: Hài Cú Nhập
Môn (tác giả H.G Henderson, NXB Trẻ – 2002)…
Ngày nay trên các trang web cũng thấy xuất hiện một số bài viết,
trang tin đăng tải có liên quan đến thơ haiku. Đặc biệt là Trường Đại
Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Tp. HCM, khoa Đông Phương
học đã ấn hành và cho ra đời một quyển sách có ý nghĩa vào năm
2003 đó là cuốn “Nhật Bản trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á”
trong đó thơ haiku Basho được coi là một phần linh hồn của văn học
văn hóa Nhật Bản.
Những vấn đề trên đã đưa đến một kết quả rất khả quan là nền
văn học Nhật Bản đang bước từng bước vào Việt Nam làm những
người yêu thơ đi vào nghiên cứu tìm hiểu thơ haiku. Ở các trường
Đại học sư phạm ở ngành Ngữ văn hay trường Đại học Khoa học Xã

hội va Nhân văn Tp.HCM, thơ haiku được giới thiệu vào chương
trình học cho sinh viên học tập, nghiên cứu. Vì vậy, thơ haiku được
các bạn sinh viên thích thú tìm hiểu và tham gia vào các cuộc thi
sáng tác thơ haiku bằng tiếng Việt.
Hiện nay, bộ sách Ngữ văn cấp III mới phần văn học Nhật Bản
lại được bổ sung vào những bài thơ haiku ngộ nghĩnh và lí thú ở lớp
10. Có thể nói sự xuất hiện của thơ haiku trong chương trình văn học


4

nước ngoài ở Phổ thông Việt Nam đã thực sự đánh dấu một bước dài
cho chân trụ vững chắc của thơ haiku ở Việt Nam.
Việt Nam đang nâng cao quan hệ hợp tác bang giao với Nhật
Bản trên nhiều lĩnh vực. Lĩnh vực văn học Nhật Bản đang được mở
rộng cửa đón chào. Dù còn gặp nhiều mới mẻ trong việc tiếp cận nền
văn học này, nhưng tương lai nền văn học Nhật Bản sẽ được khám
phá sâu rộng ở Việt Nam. Trong đó thơ haiku là một đại diện không
thể thiếu bởi nó là chiếc gương soi để soi rọi linh hồn văn hóa Nhật
Bản.
Thông qua việc tiếp thu các công trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước, cộng với sự tìm tòi nhiều nguồn tài liệu
phong phú trên internet, tôi xin đưa ra những nét hay, nét đặc trưng
trong phong cách của ba nhà thơ tiêu biểu: Matsuo Basho, Yosa
Buson, Kobayashi Issa.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về phong cách của một số nhà thơ tiêu
biểu, cụ thể là ba nhà thơ lớn gồm: Matsuo Basho, Yosa Buson và
Kobayashi Issa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ đi sâu vào khảo sát các tác phẩm thơ của ba nhà
thơ Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa để thấy được
phong cách sáng tác của từng nhà thơ. Các tác phẩm thơ ấy đã được
dịch sang tiếng việt bởi các dịch giả : Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thái
Bá Tân,…
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích
Giới thiệu đến độc giả một cái nhìn toàn diện, một cách tiếp cận,
khám phá mới về thơ thơ Haiku.


5

Khám phá cái hay, cái đẹp của thơ ca Nhật Bản thông qua ba
nhà thơ tiêu biểu là Basho, Buson, Issa. Đồng thời, hiểu rõ hơn về
cuộc đời và sự nghiệp của ba nhà thơ trên.
Giúp người đọc nhận ra sự khác biệt trong phong cách sáng tác
của ba cây đại thụ trong dòng thơ haiku.
Khơi gợi lòng yêu mến thơ ca của mọi người đối với thơ haiku
nói riêng và văn học Nhật Bản nói chung. Tạo tiền đề cho mối quan
hệ hữu nghị, am hiểu lẫn nhau giữa hai quốc gia Việt Nam – Nhật
Bản.
4.2. Nhiệm Vụ
Tìm ra những nét đặc trưng tiêu biểu về phong cách sáng tác
của ba nhà thơ Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa.
5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Nếu đề tài nghiên cứu thành công luận văn sẽ:
Đóng góp vào kho tàng lí luận văn học hướng nhìn, một cách
khám phá mới về nội dung và cách sáng tác của thơ haiku.

Giúp hiểu sâu hơn về thơ haiku và những tác giả tiêu biểu.
Mở rộng và trải lòng mình với thế giới thơ của Nhật Bản.
Vận dụng vẻ đẹp tinh túy và ý nghĩa thâm thúy của thơ haiku
trong cuộc sống của bản thân.
Là tài liệu tham khảo cần thiết và hữu ích cho việc phổ biến văn
học Nhật Bản tại Việt Nam. Ngoài ra còn là định hướng gợi mở đối
với việc tìm hiểu và nghiên cứu về Văn học Nhật Bản sau này.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp tập hợp – Khảo sát tư liệu
Thơ haiku của các nhà thơ nổi tiếng được dịch ra tiếng Việt khá
phong phú, có nhiều bản dịch khác nhau. Đồng thời, các bản dịch
nằm rải rác trên các báo, tạp chí, sách, trang web,…và số lượng dịch
ra tiếng Việt ngày một nhiều. Do vậy, tôi cần thiết phải sử dụng
phương pháp này để vừa thu thập tài liệu vừa tiến hành khảo sát tư
liệu.


6

6.2. Phương pháp phân tích – Tổng hợp
Nhằm làm nổi bật những vấn đề cần khai thác, khám phá, tôi sẽ
tiến hành phân tích các dẫn chứng sau đó tổng hợp khái quát lại để đi
đến đúc kết vấn đề.
6.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Trong quá trình tìm ra những nét đặc sắc trong phong cách sáng
tác của ba nhà thơ tiêu biểu, tôi cần có sự so sánh, đối chiếu giữa các
nhà thơ để làm rõ hoàn cảnh, nguồn gốc của những tư tưởng sáng tác
của ba nhà thơ.
6.4. Phương pháp hệ thống
Sau khi phân tích, khám phá phong cách của ba nhà thơ, tôi tiến

hành hệ thống lại vấn đề và từ đó rút ra kết luận.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được chia bố cục theo các phần sau:

Phần mở đầu bao gồm: Lý do chọn đề tài, tổng quan nghiên cứu,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu,
ý nghĩa của đề tài nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, cấu trúc
luận văn.

Phần nội dung: Được chia làm 4 phần như sau:
Chương 1: Khái quát thơ Haiku
Chương 2: Thơ haiku của nhà thơ Matsuo Basho
Chương 3: Thơ haiku của nhà thơ Yosa Buson
Chương 4: Thơ haiku của nhà thơ Kobayashi Issa

Phần kết luận

Tài liệu tham khảo




7

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THƠ HAIKU
Người dân xứ sở hoa anh đào thường tự hào đất nước mình là
“thi quốc”. Trong các thể thơ truyền thống của Nhật Bản, tanka và
haiku là tiêu biểu hơn cả. Đặc biệt, thơ haiku là thể thơ rất Nhật Bản,

là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã từng nói rằng: “Có một thể thơ
mà khi để nó lướt qua tâm hồn ta, ta có cảm giác như đang chạm
vào thiên nhiên, chạm vào từng mùa…Haiku? Đọc Haiku là chạm
vào hơi thở của mùa. Là chạm vào hoa đào, đom đóm, lá phong,
tuyết trắng,…”
Vậy thơ Haiku là gì và có nguồn gốc từ đâu?
1. Nguồn gốc ra đời
Thơ Haiku là thể thơ nổi tiếng của Nhật Bản và ngắn nhất thế
giới, toàn bài chỉ có 17 âm tiết, có thể xếp thành 3 câu (5-7-5). Trong
tiếng Nhật, thơ haiku không có vần và thường không có nhan đề.
Các bài thơ haiku thường chỉ là những nét chấm phá, gợi mở để độc
giả vận dụng trí tưởng tượng nhằm liên tưởng đến các sự vật, hiện
tượng khác. Vì thế, người ta cho rằng thơ haiku giống như những
bức tranh thủy mặc của người Nhật. Nó chứa đựng một khoảng trống,
một khoảng chân không nhưng tràn trề sinh động của cuộc sống.
Thơ haiku là thể thơ phái sinh từ tanka. Tanka là thể thơ khởi
đầu của dân tộc Nhật Bản, tức Đoản ca hay còn gọi là Waka hay Hòa
Ca. Bài thơ theo thể tanka có 31 âm tiết, chia thành 5 dòng theo nhịp
phách 5-7-5-7-7. Bài thơ tanka sau đây được xem là bài thơ mở đầu
cho thơ ca Nhật Bản:
Tám tầng mây dựng
Ở xứ Izumo
Ta làm tám tầng mây xa
Tám tầng mây ấy


8

Che chở người vợ ta

Đây là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng cho người vợ của
mình là nàng Kushinada. Theo H. H. Honda thì một bài tanka tựa
như “Hoa anh đào ẩm trong sương mờ mùa xuân”.
Từ thế kỷ XIV–XV, khi thơ tanka có dấu hiệu đi xuống, trên thi
đàn Nhật Bản xuất hiện thể thơ renga (liên ca). Renga cũng có nhịp
phách 5-7-5-7-7 như tanka nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7
rõ rệt, số lượng câu không hạn chế. Thơ renga được giải thích như
sau:
Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất lâu đời trong văn học Nhật.
Từ một bài tanka 31 âm tiết, 5 dòng được tách ra hai phần để cho
mọi người xướng thơ với nhau (phần ba câu đầu gọi là thượng cú,
phần hai câu sau gọi là hạ cú). Renga ra đời là như thế. Ví dụ như
một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập, 997):
Qua rồi nửa đêm
Chờ nhau chi nữa
Cho thêm ưu phiền
Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka
với ba câu như trên với ý trách móc người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người
ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn:
Muốn gặp em trong mộng
Nhưng rồi anh ngủ quên
Thực chất renga là trò chơi nối thơ của các nhà thơ tanka. Giới
quý tộc thời Heian rất thích lối sáng tác như thế. Sau này, trong bài
renga liên hoàn đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú được gọi là
hokku (phát cú) và được viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5). Đến
thế kỉ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ
nên renga trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí có nhiều bài
renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi là haikai no
renga, gọi tắt là haikai. Thể haikai do tầng lớp thị dân sáng tác với



9

mục đích đùa cợt, phóng túng nên dễ sa vào sự dung tục, chấp nối,
gượng ép và thiếu tâm hồn thơ.
Sau này, Basho đã đưa haikai thoát khỏi sự tầm thường bằng sự
dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của
haikai hiện đại với sự tao nhã, tâm linh của renga cổ điển vào trong
17 âm tiết của bài hokku. Từ đấy hokku không phụ thuộc vào renga
nữa, nó trở thành thể thơ độc lập và có tên là haiku (hài cú) (lúc đầu
có tên haikai đến thế kỷ XIX mới có tên gọi haiku). Phần đầu hokku
của bài renga là tiền thân của thơ haiku, như vậy thơ haiku có nguồn
gốc từ tanka và renga.
Thơ haiku phát triển mạnh trong thời Edo (1603–1867). Vào
thời kì này haiku đã mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy
mà thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền Tông.
Nghĩa là không còn sự phân biệt giữa người làm thơ và cuộc sống
đang vận hành, giữa bài thơ và cái nằm phía sau ngôn từ. Đó là sự
độc đáo vi diệu của thơ haiku.
2. Nội dung và hình thức nghệ thuật
Haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới, mỗi bài thường chỉ có 17
âm tiết (có thể ngắn hoặc dài hơn một vài âm tiết). Trong nguyên
bản tiếng Nhật, 17 âm tiết này thường được viết thành một dòng
nhưng khi phiên âm la-tinh lại ngắt thành 3 dòng 5-7-5. Haiku cổ
điển có niêm luật chặt chẽ. Một bài thơ haiku phải thể hiện được cảm
thức về thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả
các mùa xuân, hạ, thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang
đặc trưng của mùa. Việc dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện sự gắn bó
sâu sắc của người Nhật với thiên nhiên. Người Phù Tang rất nhạy
cảm với bốn mùa, có cảm quan tinh tế về thời tiết, nhất là sự thay đổi

của thiên nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên trong thơ haiku thường là
những cảnh vật bình dị, nhỏ bé, tầm thường và dễ bị lãng quên như
chú ếch, con quạ, chú khỉ nhỏ bé, chim đỗ quyên, tiếng ve, đóa hoa


10

dại nở bên bờ suối, hòn đá… Hai đề tài nổi bật của haiku là thiên
nhiên và cuộc sống đời thường.
Về phương thức biểu hiện, do một bài thơ chỉ gồm 17 âm tiết
nên các thi sĩ haiku thường bắt đầu từ những điểm nhìn đơn lẻ, chớp
lấy một khoảnh khắc có thần của thực tại, đẩy lên đỉnh điểm của cảm
xúc và sáng tạo theo nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh.
Trong một bài thơ haiku thường có một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương
xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Haiku không mô tả cảm
xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Nhà thơ ít dùng tính
từ và trạng từ làm hạn chế sự tưởng tượng của người đọc, vì thế,
haiku rất giàu sức gợi. Ở thơ haiku, ta bắt gặp bút pháp của tranh
thủy mặc, thiên về thần thái hơn là đường nét. Kết cấu bỏ lửng của
thơ haiku chính là cái hư không bảng lảng khó nắm bắt của tinh thần
Thiền tông.
3. Quá trình phát triển
Thơ haiku có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển thật
mạnh mẽ. Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, nó đạt tới
đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn
haiku làm “con đường” để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một
lối sống, vào một “đạo” và mang những triết lí sâu sắc gọi là “hài cú
đạo” (haikudo) hay “haiku no michi”. Đó là các nhà thơ Yosa Buson
(1716–1784), Kobayashi Issa (1762–1827), Masaoka Shiki (1867–
1902), Onitsura (1660–1738), Ryokan … Đối với họ sáng tác thơ

haiku không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với
họ bằng “con đường”, tức cái đạo mà thơ haiku chứa ở trong nó. Đấy
là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc
đời như Tagore đã từng nói: “Trong vội vã, ta bỏ quên những bông
hoa bên hàng giậu ven đường…”.
Hiện nay, thơ haiku của Nhật Bản đã lan tỏa ra khắp thế giới.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã nhận định: “Nói một cách chừng mực
hơn, thơ haiku mà Basho đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở


11

nên thể thơ quốc tế trong thế kỉ XX. Bên ngoài Nhật Bản, haiku
chẳng những được nghiên cứu rộng rãi mà còn được các nhà thơ ở
nhiều xứ khác nhau sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có
cả Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George
Seferis của Hi Lạp”.
Vậy, Thơ haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, đạt đỉnh cao
ở thế kỉ XVII với Basho. Ngày nay, haiku lan ra thế giới thành một
thể thơ được quốc tế đón nhận.


























12

CHƯƠNG 2: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ MATSUO BASHO
1. Cuộc đời và sự nghiệp cùa nhà thơ Matsuo Basho
1.1 Cuộc đời
Matsuo Basho (松尾芭蕉, 1644–1694), thiền sư thi sĩ lỗi lạc
của thời Edo, ông sinh ngày 16 tháng 12 năm 1644 trong một gia
đình võ sĩ cấp thấp thời Tokugawa (1603–1868), ở thành Ueno thuộc
Iga (nay là huyện Mie), Basho lúc mới ra đời tên là Matsuo Kinsaku
(松尾,金作) lớn lên đổi tên thành Matsuo Munefusa (松尾宗房).
Năm 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho lãnh chúa và trở
thành bạn thân của Yoshitada, một người lớn hơn ông vài tuổi và là
con của trai của lãnh chúa. Hai người đã cùng nhau vui chơi, học tập
và làm thơ. Người thầy dìu dắt Yoshitada và Basho về thơ haiku là
Kitamura Kigin, nhà thơ và nhà bình thơ lừng danh lúc bấy giờ.

Bài thơ đầu tay của Basho được sáng tác vào năm 1664, lúc đó
Basho vừa 20 tuổi. Trong tập thơ xuất bản ở Kyoto năm 1664, có hai
bài của Basho và một bài của Yoshisada.
Nếu dòng đời cứ yên bình trôi đi thì chắc hẳn Basho đã suốt đời
an phận, lặng lẽ với thân phận một người võ sĩ cấp dưới, thi thoảng
cùng chủ quân nâng chén thưởng nguyệt trong những ngày nhàn hạ.
Ngờ đâu vận đời trớ trêu, Yoshisada chẳng may bị bệnh và mất sớm
khi vừa mới hai mươi lăm tuổi (năm 1666). Số phận trở thành một
Samurai gia truyền tưởng chừng như đã an bài đã tan vỡ theo cái
chết của người chủ ấy và đồng thời để lại một vết hằn đen tối khó
quên.
Sau đó, Basho rời bỏ lâu đài xứ Iga, một nơi đầy kỉ niệm. Ông
đến Kyoto, vừa để tiêu dao những ngày tháng kinh kì nhằm khuây
khỏa vừa để theo đuổi nghiệp thơ. Ông tiếp tục học cổ văn Nhật với
Kigin và ông còn nghiên cứu thêm cổ văn Trung Quốc với một bậc
thầy khác. Ông thường sống trong nhà Kigin hoặc là tá túc trong một
đền chùa.


13

Tiếp đó, ông rời kinh đô đến Edo, thủ phủ của chế độ mạc phủ
Tokugawa. Ở Edo, Basho lấy bút hiệu là Tousei (Đào Thanh), ông
luôn tìm cách trau dồi thêm về thi ca, dần dần ông thu nhận môn đệ
và người ái mộ thơ Basho ngày một nhiều.
Năm 1680, Basho xuất bản tập thơ “Hai mươi bài thơ do môn
đệ của Tousei sáng tác độc lập”.
Năm ba mươi bảy tuổi, giữa lúc danh tiếng của Basho đang lan
rộng, nhà thơ đột nhiên quyết định thôi dạy, dọn về sống trong túp
lều tranh ở Fukugawa (Thâm Xuyên) cạnh bờ sông Sumida. Một

môn đệ khá giả là Sampu (Sam Phong) xây cho Thầy mình túp lều
để làm bạn với thiên nhiên. Basho trồng cạnh túp lều một bụi chuối
do môn đệ biếu, người đời gọi túp lều đó là Basho-an, tức Am Ba
Tiêu, và chẳng bao lâu họ gọi chủ nhân của túp lều đó là Basho
Sensei (Ba Tiêu Tiên Sinh). Chủ nhân của túp lều đắc ý với tên gọi
ấy nên đã lấy Basho làm bút hiệu.
Trong khoảng thời gian này, Basho tu tập Thiền dưới sự hướng
dẫn của Thiền sư Buccho (Phật Đỉnh) ở Choukeiji (Trường Khê Tự).
Năm 1682, Edo xảy ra trận hoả hoạn lớn, túp lều tranh của
Basho cũng chìm trong biển lửa , trắng tay giờ lại trắng tay, Basho
trở thành kẻ không nhà. Ý tưởng phiêu bạt chợt bùng dậy trong tâm
trí ông.
Tháng 5 năm 1683, Basho về lại Edo, môn đệ hợp sức dựng lại
cho ông túp lều nhưng giấc mộng hải hồ cứ thôi thúc ông từng ngày.
Mùa Thu năm 1684, Basho bắt đầu cuộc hành trình “gió biển
mây ngàn” của mình. Ông đi đến Thần cung Ise. Sau khi tham bái
ngôi đền nổi tiếng này, ông trở về cố hương viếng mộ mẫu thân.
Chuyến hành hương kế tiếp hướng về Kashima, Basho đến thăm
Thầy cũ của mình là Thiền sư Buccho. Sau đó ông đi ngắm hoa anh
đào ở núi Yoshino.


14

Ngay sau chuyến đi ngắn ngày ấy, Basho lại bỏ ra một năm trời
đi lang thang cùng thiên nhiên sông núi. Từ Edo đến bờ biển Suma.
Ông đến Sarashina để chứng kiến mùa trăng ở đỉnh Obasute.
Năm 1689, Basho cùng đệ tử Sora thực hiện chuyến đi nổi tiếng
đó là: hành trình lên miền Oku ở Đông Bắc của đảo Honshu – một
vùng thuở ấy còn hoang sơ, chưa có người khai phá. Basho phiêu bạt

gần ba năm trời, quãng đường ông đi qua hơn 2500 km. Sau chuyến
hành trình, Basho về Kyoto và cố lý sống hai năm. Năm 1691, Basho
trở lại Edo với danh tiếng đạt mức tột đỉnh.
Tâm hồn lãng tử của Basho lúc nào cũng thôi thúc ông dấn
bước vào cuộc hành trình gian nan như người đi tìm Đạo. Năm 1694,
Basho thực hiện chuyến lữ hành cuối cùng đến Otsu (gần hồ Biwa),
rồi ghé qua Kyoto ở lại Rakushisha, sau đó, ông đến Osaka. Vốn đã
tiều tụy, khi ở Osaka ông lại mắc phải chứng tiêu chảy không cách
nào chữa khỏi. Trong những ngày cuối đời, ông viết:
Tabi ni yande Dang dở cuộc hành trình
Yume wa kareno wo Chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
Kake meguru Trên những cánh đồng hoang
Và Basho trút hơi thở cuối cùng ngày 12/10/1694, hưởng thọ 51
tuổi. Đến phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn làm thơ, vẫn chưa
nguôi mộng sông hồ.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Những bước đường phiêu lãng, du hành khắp nơi trên đất nước
là cảm hứng sáng tác gắn liền với khối tác phẩm đồ sộ của Basho.
Những trang bút kí và những bài thơ huyền bí để lại cho hậu thế
là tài sản vô giá. Sau khi nhà thơ mất, một số đệ tử đã tập hợp các bài
thơ của ông thành Basho Shichi Bushu (Ba tiêu thất bộ tập) tức là
bảy tác phẩm. Những tác phẩm của Basho để lại cho đời là:
Ngày Đông (Fuyu no hi, 1684), 5 tập, viết chung với bạn thơ
Du kí lang thang đồng nội (Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành,
1685)


15

Ngày Xuân (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ

Nhật kí hành trình Kashima (Kashima kiko, 1687)
Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu
văn, 1688)
Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689)
Áo tơi cho khỉ (sarumino, viên thoa, 1691)
2. Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho
Haiku là một thể thơ đặc biệt ngắn gọn, xuất phát tự nhiên như
tiếng nói từ tâm đối cảnh trong khoảnh khắc của ngay lúc ấy, trong
đó thời gian và không gian cô đọng lại như khung cảnh hiện thực của
một bức ảnh, vì thế, thơ haiku hàm chứa nhiều nét thi vị Thiền.
Matsuo Basho đã đưa Thiền vào thơ đến mức tuyệt vời, ý thơ của
ông thanh thoát, bàng bạc những ảnh hưởng sâu xa của đạo Phật,
như thơ của một vị Thiền sư. Đó là những vần thơ cao nhã và nhàn
tản u tịch. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông trong nhận thức
cuộc sống nên thơ haiku của Matsu Basho thể hiện những cảm thức
thẩm mỹ khác nhau như là: Sabi, wabi, aware và karumi. Từ những
cảm thức này, Basho đã hình thành phong cách riêng cho mình, được
gọi là Shofu (Tiêu Phong).
2.1. Cảm thức Sabi
Sabi (Tịch) là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập
trung nhất tư tưởng của Thiền Tông. Sabi là linh hồn của tịch liêu, là
cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật. Sabi là ý thức mỹ học
đầu tiên được phổ biến qua thơ waka của Fujiwara Shunzei (1114–
1204) vào cuối thời Heian và đầu thời Kamakura. Ý thức này được
các nhà thơ sau đó, đặc biệt là Basho, tiếp tục phát triển và định hình.
Trên thực tế, sabi đã trở thành khái niệm căn bản trong thơ Basho.
Cái cô tịch của sabi không phải là sự cô tịch của việc chia rẽ,
tách biệt, phân li. Sabi là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”,
là cảm thức hùng tráng chứ không phải cô đơn cá nhân, không mang



16

tính bi lụy. Sabi là vẻ cô tịch, trong sự soi chiếu giữa một cá thể và
toàn thể, giữa một và tất cả. Đó là sự vắng bóng của bản ngã.
Nội dung của sabi không chỉ giới hạn trong sự cô tịch. Đó
không phải là niềm bi thương câm lặng, tịnh thức của bản ngã. Sabi
là cảm thức của sự tĩnh mịch tuyệt đối, khi lòng người lắng xuống
tận đáy kí ức tâm hồn, hiện tại đã hóa hư vô, sự vật nhìn thấy trước
mắt mà cứ ngỡ đã trôi về một miền vô định.
Basho chọn cho mình cuộc đời của một lữ khách phiêu bạt khắp
nơi trên đất nước Nhật Bản. Trong những năm tháng độc hành ngao
du sơn thủy, với một người có lòng hoài cổ, chắc hẳn đã có nhiều lần
ông nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên bình dị trong chiều hôm
hay nghe một tiếng cuốc, một tiếng dế mà nhớ quê da diết.
Con tim khắc khoải mãi mãi đi tìm sự bình an cho tâm hồn, ông
muốn thoát đi thật xa tìm nguồn thi hứng, “theo gương những thiền
sư ngày xưa đã đi hàng ngàn dặm không mang gì theo chỉ cố gắng
đạt được trạng thái hạnh phúc dưới ánh trăng trong sáng”
1
. Có lẽ vì
thế, trăng là một người bạn đường quen thuộc của ông:
Tsuki kiyoshi Trăng
Yugyou no moteru Một nhà sư
Suna no ue Mang trăng đi qua bãi cát
Bài thơ gợi lên một hình ảnh rất tao nhã của một nhà sư bước đi
trên bãi cát vắng lặng dưới ánh sáng trăng. Tuy nhiên, trăng không
phải đang tỏa sáng soi đường cho người lữ hành mà chính người ấy
đang ung dung mang trăng theo trên bước đường phiêu du của mình.
Nhà sư không chỉ có trăng làm bạn, mà trăng dường như cũng khao

khát trở thành người đồng hành của nhà sư. Người lữ hành cô độc và
ánh trăng lẻ loi trên bãi cát đêm hoang vắng gợi lên một niềm cô liêu,
tịch mịch tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, nhưng đó không phải là nỗi

1
Trích từ tác phẩm:Tập ký sự trong tay nải (Oi no Kobumi, 1688) của Matsuo Basho.


17

cô đơn u uẩn, xót xa mà là cảm xúc rợn ngợp trước vẻ đẹp dung dị
mà thanh cao về sự hợp nhất của con người và thiên nhiên.
Khi con người để lòng mình lắng sâu đến mức nhìn thấy cái vô
thường trong hữu hạn cuộc đời, có thể cảm nhận bằng các giác quan
cụ thể những thứ không tạo hình, không thanh sắc, lúc ấy, cả tâm
hồn và thể xác như chìm đắm vào sự tĩnh lặng và giao hòa tuyệt đối
với đất trời. Đó là cốt lõi của Thiền. Theo Thiền tông, khi lắng vào
niềm tĩnh tịch thì người ta sẽ lắng nghe được tất cả sự chuyển động
của vạn vật:
Shizuka sa ya Vắng lặng u trầm
Iwa ni shimiiru Thấm sâu vào đá
Semi no koe Tiếng ve ngân
Những hình ảnh trên của bài thơ vẽ nên một khung cảnh heo hút,
đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải. Có gì mỏng manh hơn tiếng một
con ve ở tận sâu trong khu rừng vắng! Không gian yên tĩnh đến mức
thi sĩ có thể nghe thấy tiếng ve thấm sâu vào từng lớp đá, làm run rẩy
linh hồn đá cứng. Thật ra tiếng ve mùa hạ vốn dĩ rất ồn ã. Nhưng với
Basho, tiếng ve mùa hạ kia dường như đã rơi vào hư vô. Vượt lên
trên tất cả những thanh âm ồn ào hỗn độn, tâm hồn thi sĩ đã đạt đến
trạng thái tĩnh lặng hoàn mỹ, và sự yên tĩnh trong tâm hồn đã lan tỏa,

bao trùm lên cảnh vật xung quanh. Trong tiếng ve kêu, nhà thơ bước
vào cõi âm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Vẫn là tiếng ve ngày
nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với
những nhịp đập ngày thường của nó, nhưng không phải ở chốn ồn ào
sôi động mà chính là trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Dù cuộc đời
có “động” đến đâu thì lòng vẫn “tĩnh”, ấy là Thiền, ấy là sabi.
Vào lúc hoàng hôn, nghe hồi chuông chiêu mộ từ xa vọng lại,
người lữ khách nhạy cảm như Basho tự dưng cảm thấy đâu đây
phảng phất mùi Thiền. Trong buổi xế tà này, đằng phương trời xa
từng đàn chim đang rũ cánh bay về tổ, nhà thơ làm sao không khỏi ý


18

thức về thân phận con người? Qua ngọn bút, niềm cô tịch triền miên
ấy biến thành thơ.
Kane kiete Chuông chùa tắt
Hana no kaori ha tsuku Hương hoa phảng phất
Yuube kana Chắc hẳn hoàng hôn
Tâm hồn nhà thơ đã gắn kết, hòa đồng vào vũ trụ, con người
sống đời sống của thiên nhiên, thở hơi thở của tự nhiên. Nếu được
như vậy bất cứ lúc nào con người lặng im nhìn vào tâm tưởng của
chính mình cũng cảm nhận được nhịp điệu, sự rung động của đất trời.
Vì thế giới bên trong và bên ngoài là một, nên thơ của Basho ít khi
thể hiện cảm xúc cá nhân. Chỉ vài nét phác thảo đơn sơ, mộc mạc
cũng làm nổi bật một chiều thu cô tịch và hoang liêu:
Kare eda ni Trên cành khô
Karasu no tomari keri Cánh quạ đậu
Aki no kure Chiều thu
Mùa thu trong bài thơ nhuốm màu tiêu điều, quạnh quẽ, xác xơ

qua hình ảnh “cánh quạ ô trên cành héo hắt”. Giống như một bức
tranh mực Tàu với những nét điểm tinh tế, trầm buồn của chiều thu,
bài thơ vẽ nên một khung cảnh với những chi tiết đối lập, là hiện
thực tạo thành cái sâu thẳm vô hạn nhất của sabi. Cảm nhận về bài
thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không chỉ đơn giản là phong
cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con
quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của
con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm và với nhiều
điều khác nữa tuỳ người đọc”.
Trong thế giới phồn hoa chốn nhân gian, để lắng nghe được
thanh âm của tự nhiên người ta phải lắng hồn mình đến trạng thái
tuyệt tĩnh của sabi, nơi tâm hồn con người trở thành tấm gương
phẳng lặng soi chiếu vạn vật.


19

2.2. Cảm thức Wabi
Wabi (Đà) là một khái niệm của Phật giáo thiền tông, nói đến
sự cảm nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao
của cuộc sống con người và sự vật.
Cơ sở của wabi chính là bắt nguồn từ quan niệm của người
Nhật Bản “Vạn vật hữu linh”. Theo quan niệm đó, sự sống tồn tại
trong mọi thứ bao quanh con người, dù bé nhỏ hay to lớn, vô tri vô
giác hay có ý thức và cảm giác, đều là biểu hiện của sự sống. Nói
cách khác, tư tưởng “Vạn vật hữu linh” chính là thái độ trân trọng
cuộc sống thực tại. Điều này dẫn đến quan niệm chuộng sự cân bằng
hài hòa giữa con người và thiên nhiên, chuộng sự giản dị, thanh khiết,
mộc mạc, gần gũi. Đó cũng chính là cốt lõi của cảm thức wabi. Hay
nói cách khác, đó cũng chính là tinh thần Thiền tông, đưa con người

về với thiên nhiên bình dị, trữ tình, đưa nghệ thuật về với đời thường.
Nếu như sabi là niềm cô tịch soi chiếu tâm hồn với vạn vật thì wabi
là sự hiện hữu của cái đẹp dưới bất kì khoảnh khắc nào, trong bất cứ
sự vật mộc mạc nào của cuộc sống đời thường.
Tokotsubo ni Con bạch tuộc lười
Hakanaki yume wo Mơ màng trong lưới
Natsu no tsuki Trăng mùa hè
Chắc chỉ có Basho mới có con mắt tinh tế và nhạy cảm đến mức
nhìn thấy một con bạch tuộc mắc trong lưới. Nhưng dưới con mắt
của ông, chú bạch tuộc kia thay vì lo lắng cho cuộc sống sắp kết thúc
của mình, chỉ lười biếng, mơ màng thưởng trăng. Quả là một hình
ảnh đầy thi vị và hóm hỉnh. Cả sự sống dường như chỉ đọng trong
khoảnh khắc, con bạch tuộc lười và ánh trăng mùa hạ. Cái bi thương
đã nhường chỗ cho sự thăng hoa của cái đẹp.
Wabi chính là cuộc hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm
hồn và thiên nhiên, tính chất phác, mộc mạc và cái sâu thẳm, tuyệt
diệu.


20

Thơ Basho hồn hậu, thuần khiết, trong sáng, được tạo thành từ
những điều bình dị nhất của đời sống nhưng mang vẻ đẹp tâm linh
sâu thẳm, dịu vợi. Khi nâng haiku lên sự hoàn thiện của một dòng
thơ tâm linh, Basho đã nâng trong lòng bàn tay bát ngát của mình
những sự vật bình thường nhất của thế gian này.
Basho tìm thấy vẻ đẹp trong cát bụi chứ không dùng cát bụi xây
nên tòa lâu đài thơ ca đẹp đẽ. Ông tìm đến khu vườn cỏ ngát hoa để
làm chốn nghỉ chân:
Vườn cỏ

Chọn hoa nào
Làm gối?
Thật đẹp làm sao khi ta bắt gặp một người lữ hành sau chuyến
hành trình mệt lả, thong dong tìm một chỗ để ngã lưng trong khu
vườn cỏ đầy hoa, nhưng phân vân chẳng biết nên gối đầu lên loài
hoa nào. Cuộc đời bần hàn với cỏ là đệm, bầu trời là chăn và những
bông hoa làm gối ấy sao mà đẹp một cách thanh cao và thoát tục.
Đôi mắt không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp cuộc sống của Basho
dường như không bao giờ bỏ qua bất cứ sự vật, hiện tượng nào. Dù
là một cách bướm sặc sỡ rập rờn buổi sớm mai đánh thức cánh đồng
đang say ngủ:
Chou no tobu Con bướm bay
Bakari nonaka no Làm cánh đồng thức dậy
Hikage kana Trời đầy nắng
Basho đều phát hiện và đưa chúng vào các vần thơ đẹp đẽ. Có
lẽ cũng chỉ ông mới thi vị hóa những cành dâu mục, làm cho chúng
có sức sống, có cảm xúc da diết:
Akikaze ni Gió thu
Orete kanashiki Buồn bã làm rơi
Kuwa no tsue Mấy cành dâu mục


21

Hồn thơ đa sầu đa cảm của ông nhìn thấy những điều quá đỗi bé
nhỏ và đơn sơ trong cuộc đời vô thường, và ông đồng cảm sâu sắc
với vạn vật:
Yuku haru ya Mùa xuân ra đi
Tori naki uo no Tiếng chim thổn thức
Me wa namida Mắt cá lệ đầy

Nỗi buồn của chim muông hay đôi mắt đẫm lệ của loài cá khi
mùa xuân đang dần qua đi hay cũng chính là nỗi buồn của lòng
người trong thời điểm giao mùa đã được lưu giữ trong những vần thơ
súc tích, đầy nhân bản của thi sĩ Basho.
Con đường dẫn đến cái đẹp không tự nhiên hiển hiện trước
mắt và thi nhân cũng không cố ý kiếm tìm nó. Nó chỉ hiện hữu trong
sự tình cờ, bất chợt, trong vạn vật hữu linh, vừa xa xôi vừa thân
thuộc, vừa vĩ đại vừa bình thường.
Sabi và wabi không phải là hai yếu tố tách biệt mà luôn song
hành cùng nhau trong các sáng tác của Basho nói riêng, và nghệ
thuật Nhật Bản nói chung. Nhưng với sự thể hiện điêu luyện và tinh
tế trong những vần thơ súc tích, mang tính tượng trưng và biểu cảm
cao, Basho đã đưa những quan niệm thẩm mỹ này trở nên gần gũi
với quần chúng hơn bao giờ hết.
2.3. Cảm thức Aware
Cảm thức Aware (Ai) là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học,
xuất hiện khá sớm, được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi.
Aware gọi đầy đủ là mononoaware, là nỗi buồn của sự vật, là bi cảm,
một cảm thức xao xuyến trước mọi cái đẹp của sự vật. Nó chịu ảnh
hưởng tư tưởng “vô thường” của Phật giáo. Aware còn là cảm thức
thâm trầm trước cái đẹp não lòng của sự vật vì sự vật nào cũng vậy
có lúc rực rỡ, cũng có lúc tàn phai. Từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và
trong truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến Aware.


22

Aware là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não nùng
của sự vật. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của
lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là một bi

cảm thâm trầm.
Đối với người Nhật, sự rơi rụng hay tàn héo của một bông hoa
đẹp hơn khi nó ở trạng thái bung nở, một âm thanh mơ hồ hay hơn
khi nó rõ ràng, vầng trăng bị mây che khuất một phần quyến rũ hơn
một vầng trăng tròn đầy viên mãn. Họ đánh giá cao những gì ở trạng
thái ban sơ, tinh khôi, không tồn tại lâu dài và không thể chạm tới.
Đó là cái Đẹp mong manh thấm đượm cảm thức vô thường của Phật
giáo.
Bài thơ sau của Basho là một ví dụ:
Yagate shinu Cái chết gần kề
Keshiki wa miyezu Mặc ai hay biết
Semi no koye Vẫn hoài tiếng ve
Đấy là xúc cảm trước cái đẹp của tiếng ve ngân vang điệp khúc
mùa hè. Tiếng ve tượng trưng cho sự sống. Còn cái chết sắp đến với
ve không là bi kịch mà đó là điều tự nhiên của sự sống và cái chết.
Khoảnh khắc sống và chết không là gì cả, là “vô thường”. Bi cảm
aware là thế đấy. Vì vậy, con người sống trên đời này cũng chỉ là hư
ảo, giữa sự sống và cái chết cũng không có gì phải bận tâm, nhẹ tựa
lông hồng. Trước cái chết của người bạn thân, Basho viết :
Iru tsuki no Trăng rơi rụng
Ato ha tsukue no Bốn gốc bàn quen thuộc
Yosu mi kana Còn lại mà thôi
Sự ra đi của người bạn thân là sự mất mát quá lớn nhưng nhà
thơ không hề nói đến từ “chết”, mà dùng những hình ảnh quen thuộc
để chỉ sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là khúc ca bi ai về cái chết của
một người bạn. Ánh trăng đã rụng tức là đang nói đến cái chết nhưng
bốn gốc bàn quen thuộc vẫn còn hiện hữu nơi gốc nhà, tựa như tất cả
về người bạn ấy vẫn còn nơi thế gian. Đây không phải là bi kịch của

×