LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước để đi lên chủ nghĩa xã hội
,nên việc nghiên cứu và vận dụng lý luận hình thái kinh tế -xã hội của chủ nghĩa MácLênin vào thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước là rất quan trọng.Mục tiêu của đất
nước ta là tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp ,bởi vậy việc nghiên cứu
và vận dụng lý luận vào thực tiễn càng cần được thúc đẩy và thực hiện tích cực .Hơn nữa
việc nghiên cứu lý luận và áp dụng vào thực tiễn giúp chúng ta chứng minh được rằng sự
sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và người anh cả Liên xô không phải là sự
đổ hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội ,của lý luận hình thái-kinh tế xã hội chủ nghĩa như các
thế lực chống xã hội chủ nghĩa đã nói vào những năm cuối của thế kỉ hai mươi.Sự sụp đổ
đó chỉ là sự bài trừ bác bỏ mô hình kinh tế tập chung của xã hội chủ nghĩa khi hoàn cảnh
lịch sử thay đổi,còn lý luận hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa của Mác-Lênin luôn đúng
trong mọi hoàn cảnh lịch sử vấn đề là chúng ta cần áp dụng nó đúng đắn vào từng hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia .Hiện nay do vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn
chưa hết nên sự đấu tranh và chứng minh tính đúng đắn của lý luận vẫn luôn rất gay gắt
giữa các nước theo xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản,có rất nhiều các nhà kinh tế học
trên thế giới quan tâm tới vấn đề này và có nhiều dự đoán khác nhau về thời gian mà chủ
nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới.Trong nước có rất nhiều các công trình nghiên
cứu về vận dụng lý luận vào thực tiễn nước ta của đảng và nhà nước và tất cả các công
trình đều chung một mục đích đó là cung cấp cho chúng ta thêm kiến thức về lý luận sau
đó là chúng ta tìm hiểu xem lý luận ấy đã được ứng dụng vào thực tiễn như thế nào và hiệu
quả của việc vận dụng đó ra sao.Công trình này của chúng em cũng với một mong muốn
và mục đích như vậy,từ việc nghiên cứu đề tài chúng em hiểu thêm được về lý luận và sự
vận dụng lý luận vào thực tiễn của đảng ta.Với tư cách là thế hệ tiếp bước tương lai của đất
nước,tiếp tục kế thừa và phát huy “tài sản” của Ông cha đã để lại ,chèo lái con thuyền “đất
nước” trên hành trình cập bến “xã hội chủ nghĩa” chúng em muốn đóng góp cho đất nước
1
với tất cả lòng nhiệt huyết và kiến thức mà mình có được trong quá trình học tập,tích lũy vì
sự phát triển giàu mạnh của tổ quốc.Đề tài nghiên cứu lý luận trong phạm vi sự vận dụng
lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình lãnh đạo công
cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam.Để nghiên cứu làm rõ các khía cạnh của đề
tài,thì đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn
như:Phương pháp thống kê,phương pháp lịch sử,logic,tổng hợp.Đề tài đóng góp vào làm
chứng minh tính đúng đắn của lý luận hình thái kinh tế-xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng
hợp lý có hiệu quả vào thực tiễn của đảng và nhà nước ta trong công cuộc đổi mới đất
nước.Đề tài góp phần bổ trợ thêm cho môn triết học ,từ đó giúp sinh viên hiểu rõ hơn về lý
luận hình thái kinh tế -xã hội và thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ của mình đóng góp vào
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đề tài gồn ba phần:Phần lời mở đầu ,phần nội dung ,phần kết luận.
Phần lời mở đầu gồm 2 trang
Phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1:Khái quát chung về hình thái kinh tế-xã hội.
Chương 2: Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa
Mác- -Lênin vào công cuộc đổi mới của đảng và nhà nước ta.
Phần kết luận :Gồm 2 trang
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI
2
I CẤU TRÚC CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI.
1.
Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất
xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba
quá trình sản xuất này, gắn bó chặt chẽ với nhau,tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản
xuất vật chất là cơ sở của sự tổn tại và phát triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen : "Điểm
khác biệt căn bản giữa xã hội loài người và xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vật may lắm chỉ
hái lượm, trong khi con người lại biết sản xuất ra của cải vật chất ".
Như vậy, sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động
tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất,để thỏa mãn với nhu cầu tồn tại và phát triển của con người., thực chất của quá trình
sản xuất vật chất chính là quá trình con người thực hiện việc cải biến môi trường tự nhiên
nhằm mục đích sáng tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết để sinh tồn và phát triển.
Con người cũng sản xuất ra nhiều của cải vật chất, sáng tạo ra toàn bộ các mặt của
đời sống xã hội. Từ điều kiện đó, tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật, tôn giáo…. đều được hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất .Trong quá
trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội,
đồng thời cũng làm biến đổi bản thân mình.Bên cạnh đó con t vật chất. Từ khái quát lịch sử
phát triển của nhân loại Mác đã kết luận:" Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất
trực tiếp vào mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời
đại tạo ra một cơ sở, từ đó người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp
3
quyền và thậm chí là cả những quan điểm tôn giáo của con người”. Sự phát triển của sản
xuất vật chất quyết định đến sự biến đổi và phát triển các mặt của đời sống xã hội từ thấp
đến cao. Chính vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất
vật chất của xã hội.
2.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới tự
nhiên bằng tất cả sức mạnh của mình trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội, hay là cái
nói lên cái năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội.
Lực lượng sản xuất được tạo thành do có sự kết hợp giữa lao động với tư liệu
sản xuất, mà trước hết là với công cụ lao động kết hợp với nhau .
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái sản
xuất xã hội bao gồm ba mặt: các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất , các quan hệ trong
tổ chức quản lí và sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất.
Trong một xã hội, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn tồn tại trong
mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau không thể tách rời. Sự biến đổi của lực lượng sản
xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho cùng nó bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển
đó, mà trước hết là công cụ lao động . Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì
quan hệ sản xuất cũng được hình thành và phát triển sao cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất . Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất
của nó cũng biến đổi theo . Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của
con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho
sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố:
4
•Trình độ của công cụ lao động
•Trình độ tổ chức lao động xã hội
•Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
•Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
•Trình độ phân công lao động
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu
sản xuất và của lao động . Ứng dụng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội được thể
hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động, thì tính chất xã hội cũng biến đổi theo .
Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không
đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó . Mặt khác tinh chất của nó còn phản ánh khả năng
chinh phục giới tự nhiên của con người, và khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất . Sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu
thành quan hệ sản xuất tạo điều kiện đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển .
Như vậy, lực lượng sản xuất quyết định đến sự hình thành và phát triển của quan hệ
sản xuất, một khi lực lượng sản xuất biến đổi dù sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng
phải biến đổi sao cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới. Tuy vậy, quan hệ
sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lượng sản xuất . Quan hệ sản xuất tác
động trở lại với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến
khuynh hướng phát triển của công nghệ . Trên cơ sở đó hình thành nên một hệ thống
những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một lực lượng sản xuất . Khi quan
hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự
phát của lực lượng sản xuất, trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất - nó sẽ kìm hãm
5
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Và nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến”
nhưng lại là một cách giả tạo thì cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển được.
Như vậy quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến có tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài
người từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản
nhất trong hệ thống các quy luật xã hội .
3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng .
Trong hình thái kinh tế- xã hội khái niệm cơ sở hạ tầng được sử dụng để chỉ tổng
thể những quan hệ sản xuất hiện thực tạo thành một kết cấu kinh tế của xã hội. Theo cách
định nghĩa như vậy, khi nói đến cơ sở hạ tầng của một xã hội thì thực chất là nói đến cơ sở
hạ tầng kinh tế của xã hội đó và do vậy mà ta cũng có thể gọi tắt là cơ sở kinh tế của xã
hội đó.
Để hiểu sâu về cơ sở hạ tầng của một xã hội ta co thể phân tích theo cấu trúc hai
lớp: đó là chiều sâu và bề nổi hiên thực của nó. Theo cấu trúc chiều sâu thì cơ sở hạ tầng
của một xã hội đó là hệ thống đan xen các loại hình quan hệ sản xuất được dựa trên ba
phương diện sở hữu: tổ chức, quản lí, và phân phối của quá trình sản xuất và tái sản xuất
của một xã hội. Bề nổi của những quan hệ đó chính là tổng thể cơ cấu và hoạt động của
một cơ cấu kinh tế trong hiện thực khách quan. Như vậy, ta cũng có thể định nghĩa cách
khác về cơ sở hạ tầng đó là chỉ hệ thống cơ cấu kinh tế hiện thực được xác lập trên cơ sở
hệ thống những quan hệ sản xuất của xã hội.
Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, đạo dức, tôn giáo, nghệ thuật,….. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như
6
nhà nước, đảng phái, giáo hội các đoàn thể xã hội, ….. được hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định. Nói một cách dễ hiểu thì kiến trúc thượng tầng là khái niệm dùng để chỉ
khái quát toàn bộ những phương diện còn lại của xã hội - tức là phương diện về mối quan
hệ giữa con người với con người trên các lĩnh vực tư tưởng cùng với các tổ chức, thiết chế
chính trị- xã hội.
Từ khái niệm về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, có thể thấy rằng
chúng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội. Sự phân tích hai phương diện này
trong lí luận hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin đã cho ta thấy không
những cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng, đan xen vào
nhau mà còn cho ta thấy nguyên lí về tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng, và một nội dung hết sức cơ bản của nguyên lí này đó là:" Kinh tế quyết định
đến chính trị, mà chính trị lại là biểu hiện tập trung của kinh tế ". Có thể nói đây là một
trong những nguyên lí hết sức cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội, ta có thể phân tích trên bốn phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất: Cơ sơ hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội tồn tại trong tính
quy định thống nhất với nhau. Kiến trúc thượng tầng là các hình thức chính trị, pháp luật,
….. của các quan hệ kinh tế và hoạt động kinh tế hiện thực của xã hội. Ngược lại,cơ sở hạ
tầng lại là cơ sở kinh tế để hình thành nên những quan hệ và hoạt động chính trị, pháp luật,.
…..trong hiện thực đời sống của xã hội. Trong thực tế xã hội những quan hệ và hoạt động
kinh tế sẽ không thể thực hiện được nếu như nó thiếu những hình thức chính trị, pháp luật
nhất định. Chẳng hạn, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong cơ sở hạ tầng sẽ không thể
được đảm bảo trong thực tế nếu như nó thiếu đi một hình thức pháp lí và thiết chế hoạt
7
động của một loại hình thức nhà nước tương ứng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội
đó.
Thứ hai: Trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì vai
trò quyết định thuộc về cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Hay nói khác thì cơ sở kinh tế là
nhân tố quyết định đến chính trị, nhà nước,…. Tính quyết định này có thể được phân tích
trên hai phương diện : Một là cơ sở hạ tầng nào thì tất yếu sẽ làm nảy sinh kiến trúc thượng
tầng ấy. Hai là khi cơ sở hạ tầng có những biến đổi nhất định của các nhân tố thuộc kiến
trúc thượng tầng của xã hội.
Thứ ba: Các nhân tố thuộc kiến trúc thượng tầng đều có thể tác động đến cơ sở
hạ tầng kinh tế của xã hội với những mức độ khác nhau và với những phương thức khác
nhau. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai khả năng đó là tích cực và tiêu cực. Hai khả
năng này tùy thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ
sở hạ tầng và mức độ cùng phạm vi phù hợp của nó.
Thứ tư: Mối quan hệ giữa cơ sơ hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội là
mối quan hệ biện chứng, chúng vừa có khả năng thống nhất với nhau, lại vừa có khả năng
đối lập, xung đột với nhau. Chính sự vận động của mâu thuẫn này cũng là một quy luật cơ
bản của xã hội. Sở dĩ như vậy là vì có cơ sở hạ tầng kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào sự phát
triển của lượng sản xuất, trong khi đó các nhân tố của kiến trúc thượng tầng lại trực tiếp
phụ thuộc vào các nhận thức chủ quan của con người, của các tập đoàn, các lực lượng và
các giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì vậy mà một khi có mâu thuẫn giữa kiến trúc
thượng tầng với cơ sở hạ tầng của xã hội thù cần có những cuộc cải cách và cao hơn là
những cuộc cách mạng đóng vai trò là phương thức thực hiện sự điều chỉnh mối quan hệ
đó để tạo ra sự thống nhất mới giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng của xã hội.
8
Như vậy, về nhu cầu khách quan tính tất yếu của quy luật là kiến trúc thượng
tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng của xã hội. Thế nhưng trong thực tế luôn luôn có khả
năng diễn ra sự không phù hợp giữa chúng và nguyên tắc xử lí sự không phù hợp ấy phải là
làm cho kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng và chỉ có nguyên tắc như vậy, thì
mới có khả năng tạo ra tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng, nhờ
đó khiến cho cơ sở hạ tầng có được tác dụng tích cực đối với sự bảo tồn và phát triển các
lực lượng sản xuất của xã hội.
II.
HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về hình thái kinh tế xã hội.
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lich sử dùng để chỉ
xã hội ở những giai đoạn phát triển, những hình thái khác nhau và những hình thái cụ thể
của sự vận động xã hội, là một chỉnh thể thống nhất của cơ
sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, thích ứng với một giai đoạn nhất định của sự
phát triển của lượng sản xuất.
Hình thái kinh tế xã hội bao gồm hình thái kinh tế, hình thái chính trị và hình
thái ý thức, đó là sự thống nhất lịch sử cụ thể. Hình thái kinh tế là cơ sở của hình thái xã
hội, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của xã hội
từ thấp đến cao.
Mác và Lênin đã thường sử dụng phạm trù " hình thái xã hội" và hình thái "
kinh tế - xã hội " với ý nghĩa tương đồng, đồng thời cũng đã giải thích về " tổng hòa quan
hệ sản xuất ", đó là phương diện cơ bản của hình thái kinh tế xã hội. Và kiến trúc thượng
tầng được dựng trên cơ sở kinh tế là bộ phận không thể phân cắt của một hình thái kinh tế 9
xã hội nhất định. Một hình thái xã hội nhất định nói chung đều phải lấy hình thức chế độ xã
hội để biểu hiện ra. Xã hội loài người ngày càng không ngừng phát triển , sự biến đổi và
tiến bộ có tính căn bản của xã hội là thông qua bằng việc thực hiện thay thế các quan hệ
sản xuất ấy.
Có thể nói rằng: Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu
trúc phức tạp trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng, tác động qua lại lẫn
nhau và thống nhất với nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt với các chế độ xã hội khác.
2. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên.
Xã hội loài người đã phải trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.
Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vân động, phát triển khách quan của xã hội C.Mác đã
đi đến kết luận : " Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
tự nhiên ".
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau để tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội
khác. Chính sự tác động khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội luôn vận động và
phát triển từ thấp đến cao.
10
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển đó đã quyết định đến sự thay đổi của quan hệ sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do
đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao
hơn, tiến bộ hơn. Qúa trình đó được diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo một
ý muốn chủ quan. Theo quan niệm của V.I.Lênin thì :" Chỉ có đem những quan hệ xã hội
vào những quan hệ sản xuất và đem những quan hệ sản xuất vào hình thai kinh tế xã hội ".
Trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển xã hội loài người, sự thay thế và phát
triển từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế
độ tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là đến xã hội cộng sản. Có được sự phát triển như vậy là
do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Đúng như
C.Mác đã viết :" Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội,
tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí về chính trị và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó.
Như vậy xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan
hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực mà trên đó hình thành
nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học đạo đức, tôn giáo….. cùng với những thiết chế xã hội như nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể xã hội được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Như vậy,
trong một xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó
nhà nước có vai trò cực kì quan trọng. Đó là tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội
11
nhất định. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình
về tất cả các mặt trong đời sống xã hội.
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành
các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được
chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng đẻ chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên.
Sự tác động khách quan của các quy luật đã làm cho các hình thái kinh tế - xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ chi phối bởi các quy luật chung
ấy mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống, văn hóa,
điều kiện quốc tế ….. Chính vì vậy mà lịch sử phát triển của nhân loại là hết sức phong phú
và đa dạng. Mỗi một dân tộc đều có một nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của
mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao,
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy
nhiên việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên, chứ không theo
một ý muốn chủ quan.
Như vậy sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội. Qúa trình đó không những diễn ra theo con đường phát
triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định, một hoặc một
vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
12
3. Gía trị khoa học của lí luận hình thái kinh tế - xã hội.
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự
ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học một phương pháp
nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra : Sản xuât vật
chất là cơ sở của đời sống xã hội, và phương thức sản xuất quyết định đến các mặt của đời
sống xã hội, cho nên không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng từ ý chí chu quan của con
người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức
sản xuất
Học thuyết cũng chỉ ra rằng : Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa các cá nhân với nhau mà là một cơ thể sống động, các mặt thống nhất
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản
quyết định đến các quan hệ xã hội khác, đó còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ xã hội, để phân kì lịch sự một cách đúng đắn và khoa học
Học thuyết còn chỉ ra : Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không theo
một ý muốn chủ quan nào cả. Vì thế cho nên V.I.Lênin đã quan niệm rằng : " Xã hội là một
cơ thể sống đang phát triển không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu thì cần phải
phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định, và cũng cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội đó.
Ngày nay có quan điểm cho rằng cần thay thế lý luận đó bằn cách tiếp cận
khác ,nhất là cách tiếp cận theo nền văn minh.Ông Alvin Toffler ,nhà tương lai học nổi
13
tiếng người Mĩ,ông phân chia lịch sử nhân loại thành ba nền văn minh:Văn minh nông
nghiệp,văn minh công nghiệp,văn minh hậu công nghiệp .
+Nền văn minh nông nghiệp là nền văn minh có nền kinh tế khép kín,tự cung tự
cấp,dân cư sống thành làng mạc,chủ yếu làm nông nghiệp.
+Nền văn minh công nghiệp được bắt đầu từ năm 1650-1750,nó được thực hiện
bởi cuộc cách mạng khoa học kĩ thật.Nền văn minh này có sự phân công lao động sâu
sắc,công nghiệp giữ vai trò thống trị nền kinh tế.
+Nền văn minh hậu công nghiệp bắt đầu ở Mĩ sau đó lan rộng tới
Nhật,Anh,Pháp..vào những năm 50 của thế kỉ XX,nền văn minh này gắn liền với những
ngành khoa học,công nghiệp mới như Lượng tử,tin học ,sinh học phân tử,công nghệ
gen,năng lượng mặt trời…
Cách phân chia như vậy ,mặc dầu có đề cập đến các mặt khác của đời sống xã
hội ,nhưng cách phân chia ấy lại tập chung chủ yếu vào sự phát triển của sản xuất ,vào
trình độ phát triển của kinh tế.Suy cho cùng cách phân chia ấy dựa vào trình độ phát triển
cơ bản của lực lượng sản xuất và phân chia các thời đại kinh tế trong việc xem xét kinh tế
của mỗi nước.Cách tiếp cận đó còn quá phiến diện,không nêu ra được cơ sở để phân chia
các chế độ xã hội ,cũng không chỉ ra được mối quan hệ giữa các mặt trong xã hội và quy
luật thay thế xã hội này bằng xã hội khác cao hơn.Chính vì vậy nó không thể thay thế được
lý luận hình thái kinh tế -xã hội.
14
15
CHƯƠNG 2:
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀO CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
1. Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế -xã hội của chủ nghĩa Mác-lênin vào
việc đề ra chiến lược cho cách mạng nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội là rất quan
trọng.Đường lối cách mạng do chủ tịch HỒ CHÍ MINH và đảng ta nêu ra là sự vận dụng
sang tạo hình thái kinh tế-xã hội vào điều kiện Việt Nam.Đây là sư lựa chọn hướng đi
đúng đắn và xác định mục tiêu chính xác cho sự phát triển đi lên của đất nước.Việc lựa
chọn và xác định này đã được đảng và nhà nước ta xác định ngay từ những ngay đầu thành
lập .Sau nay thực tế đã chứng minh được rằng sự lựa chọn và xác định ấy luôn đúngvới
mọi sự biến động của đất nước.trong sách lược vắn tắt và luận văn chính trị của đảng ta
năm 1930 đã ghi rõ cánh mạng Việt Nam sẽ đi theo con đường tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản ,bỏ qua giai đoạn của chủ nghĩa tư
bản.Chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn không qua giai
đoạn của chủ nghĩa tư bản không có nghĩa là chúng ta gạt bỏ tất cả quan hệ sở hữu cá thể
tư nhân chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể mà trái lại là tất cả những gì thuộc về sở hữu
tư nhân góp phần nào vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận tự nhiên
của quá trình xây dựng kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội.Nhưng cái mà chúng ta phải bỏ
qua đó là măt chính trị của chế độ tư bản,tức không thể hình thành một hệ thống giai cấp tư
sản trong xã hội nước ta .Một chế độ mà trong đó đa số phải phụ thuộc vào thiểu số đây là
cái mà chúng ta đang muốn gạt bỏ nó khỏi xã hội Việt Nam, bởi chế độ đó mang lại không
biết bao nhiêu sự áp bức bóc lột một cách dã man đối với nhân dân ta.Sự lựa chọn này là
16
kết quả trưc tiếp nảy sinh từ sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin,chủ nghĩa xã hội khoa học ở
Bác sau một thập niên (1911-1920).Khi Bác trở thành một người cộng sản và những năm
sau này Bác luôn nhất quán khẳng định rằng giải phóng giai cấp ,giải phóng dân tộc chỉ có
thể thưc hiện được bằng con đường cách mạng vô sản,bằng công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ,xã hội cộng sản chủ nghĩa.Việt Nam sẽ trở thành một nước tự do, độc lập,nhân dân
được hưởng một cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự chứ không phải là sự tự do,hạnh phúc
,độc lập giả dối như những nước thực dân,đế quốc đã nói trong các bản tuyên ngôn độc lập
của họ.
Khi miền Bắc được giải phóng,trong khi đó miền Nam ruột thịt vẫn còn đang
chìm trong khói lửa của bọn đế quốc,khi đó đặt ra một câu hỏi đặt ra một câu hỏi cho đảng
và nhan dân ta:Miền Bắc có nên thực hiện ngay vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội hay
không khi một nửa tổ quốc vẫn còn chưa được giải phóng?Lúc ấy đảng và nhân dân ta
khẳng định là phải đồng thời xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ,vừa phải tiếp tục đấu
tranh để giải phóng miền Nam,giải phóng hoàn toàn đất nước.
Sau Khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng lại một câu hỏi nữa đặt ra cho đảng
ta đó là: Cả hai miền nam bắc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội hay chỉ có miền bắc?Khi ấy
đảng ta đã đưa ra một quyết định rất đúng đắn là cả hai miền nam bắc cung tiến lên xã hội
chủ nghĩa.
Vào thập kỉ 80 của thế kỉ XX đất nước ta cùng với nhiều nước trên thế giới lâm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng,đặc biệt là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
bấy giờ.Do vận dung không linh hoat lý luận hình thía kinh tế -xã hội nên sau một thời
gian khủng hoảng kinh tế không lâu thì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và cả người
anh cả Liên Xô đã chao đảo và hoàn toàn sụp đổ vào cuối thập kỉ 80.Vào thời gian có tính
chất sống còn đối với chế độ xã hội chủ nghĩa,nếu như không vượt qua được cuộc khủng
17
này thì tất cả những gì mà chúng ta đạt được chỉ là con số không và hệ thống xã hội chủ
nghĩa coi như sụp đổ hoàn toàn.Hơn nữa chúng ta còn là ngọn cờ đầu trong phong trào giải
phóng dân tộc nếu chúng ta bị sup đổ thì các thế lực thù địch sẽ lật đổ tất cả những nước đi
theo xã hội chủ nghĩa còn lại và đó cũng là điều mà các nước tư bản luôn mong muốn.Và
điều ấy đã không thẻ xảy ra bởi đảng ta đã đưa ra đươc quyết định đổi mới canh tân đât
nước vô cùng sáng suốt.Một quyết định và sách lược sáng suốt đã được kịp thời đưa
ra.Đảng ta quyết định đổi mới đất nước,chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế đa
thành phần lấy kinh tế nhà nướ làm chủ đạo.Một nềm kinh tế đa thành phần,vận hành theo
cơ chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ,một cơ chế vô cùng
độc đáo chưa từng xuất hiện ở bất cứ nước nào trên thế giới và nó đã mang lại hiệu quả rõ
rệt.Một lần nữa thực tiễn đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta là
đúng đắn.
Có thể nói rằng những quyết sách của đảng ta ở trong thời kì này đã thể hiện sự
năng động sáng tạo về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản lĩnh
chính trị vững vàng kiên định.Đổi mới để phát triển ,để thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng ,để vượt qua sự kìm hãm của mô hình cũ-mô hình kinh tế bao cấp.Chúng ta không
chỉ đổi mới về mô hình kinh tế mà còn đổi mới về phương pháp quản lý xóa bỏ tệ quan
liêu tham nhũng , cơ chế cứng nhắc.Sự đổi mới đó đã giải phóng và khai thác mọi tiềm
năng phát triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng
dân chủ văn minh,đúng với quy luật khách quan ,phù hợp với quang cảnh ,điều kiện thực
tế của đất nước với xu thế,đặc điểm của thế giới hiện đại.Đổi mới là để xây dựng một xã
hội chủ nghĩa hiệu quả hơn,làm cho chủ nghĩa xã hội bộc lộ và khẳng định bản chất của nó
từng bước định hình và phát triển trong thực tế,làm cho đời sống vật chất ngày càng tăng
,đời sống tinh thần ngày càng tốt,xã hội ngày càng văn minh tiến bộ.Nhân dân có một cuộc
sống ấm no hạnh phúc,được học hành phát triển hết những khả năng của bản thân cống
hiến cho đất nước,nhân dân thực sự làm chủ cuộc sống của mình và xã hội.
18
Bao nhiêu khó khăn gian khổ mà đất nước chúng ta ,đất nước Việt Nam đã trải
qua đã cho chúng ta được đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan .Công cuộc đổi mới
của đảng ta đã xác lập một sự bình ổn mới làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền
vững.Chúng ta cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự năng động hơn nữa ,tích cực hơn
nữa,sáng tạo và phù hợp hơn nữa với tình hình kinh tế -xã hội hiện nay.Chế độ xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng sẽ là chế độ phát triển và sử dụng tốt nhất những nguồn
lực của chính mình ,trong đó sức mạnh quyết định chính là nguồn lực con người.Đó là
mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội.
2. Những nhiệm vụ của thời kì đầu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì tạo ra cơ sở vật chất và con người
cho chủ nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện này.Với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam
đã đặt ra cho chúng ta rất nhiều những nhiệm vụ khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu đề ra
để phát triển đất nước.Trong thời kì này đảng và nhà nước ta luôn nhấn mạnh thực hiện
theo tư tưởng của Lênin đó là chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản ,nhất là hướng vào
chủ nghĩa tư bản nhà nước ,làm khâu trung gian để chuyển một nước tiểu sản xuất lên chủ
nghĩa xã hội.
Thực hiện cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật
chất cho nền sản xuất lớn hiện đại .Tạo ra những điều kiện tất yếu về vật chất, kĩ thuật,
con người và khoa học công nghệ ,huy động mọi nguồm vốn, nguồn lực lao động ,nâng
cao tay nghề cho người lao động làm cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.Két hợp
với tổ chức thường xuyên cho mọi tầng lớp nhân dân , đặc biệt là học sinh ,sinh viên về
quan điểm và chủ chương thực hiện của đảng để tránh đi lệch khỏi hướng xã hội chủ nghĩa
19
mà đảng và nhà nước ta đã xác định từ đầu.Quan tâm chăm lo tới đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân.
Tại đại hội đảng lần thứ năm và việc thực thi nghị quyết đại hội chúng ta còn
thấy nhiều bế tắc trong quản lý,nền kinh tế tư nhân bị kìm hãm phát triển ,nói đúng hơn là
bị ngăn cấm triệt để.Quản lý kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân miền Nam,Tây Nguyên vào làm
ăn tập thể,thể hiện tư tưởng bảo thủ ,trì trệ trong quan lý của đảng và nhà nước.Kinh tế
trong nước mất cân đối,kinh tế quốc doanh thua lỗ nặng .Thời gian đó nền kinh tế nước ta
lâm vào tình trạng quyệt quệ,đời sống nhân dân rất khó khăn,khổ cực .Tất cả những điều
ấy đã thay đổi toàn bộ,ta thấy được điều đó trong nghị quyết đại hội VI của đảng . Trong
văn kiện đại hội VI của đảng đã nêu rõ “Mục tiêu về kinh tế , xã hội cho những năm còn lại
của chặng đường năm đầu đổi mới (1986-1990) là sản xuất đủ tiêu dùng có tích lũy ,bước
đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất …” “ứng dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học kĩ thuật ,nhất là các thành tựu về cây trồng vật nuôi,tạo ra vật liệu
mới,sản phẩm mới từ nguyên liệu trong nước..” “sắp xếp ,bố trí lại cơ cấu và bước đi trước
mắt ,phù hợp với khả năng thực tế của đất nước…”. Đại hội đảng lần thứ VI chú trọng tới
vấn đề thiết yếu đó là “ Lương thực -thực phẩm” “Hàng tiêu dùng “ “Hàng xuất khẩu”
cùng nhiều vấn đề khác như khoa học kĩ thuật ,đời sống của nhân dân .Với quá trình mới
về sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước còn nhiều thách thức khó khăn trước
mắt đảng và nhà nước đã đề ra những nội dung cần thực hiện để thực hiện mục tiêu đó:
+ Tăng thêm tốc độ và tỉ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc
dân.Đầu tư cho nền nông nghiệp để luôn đảm bảo về an ninh lương trong nước.
+ Dựa trên sự thay đổi về công nghệ chúng ta phải chuyển dich cơ cấu
kinh tế để dần tới sự tăng trưởng nhanh và bền .
+ Khuyến khích và đào tạo những tài năng trẻ nhằm tạo ra nguồn nhân lực
có chất lượng cao cho đất nước .
20
+ Thực hiện chuyển giao công nghệ kết hợp với năng lực sáng tạo của quần
chúng.Muốn vậy cần phải nắm bắt đầy đủ chính xác các thông tin cần thiết thông qua các
công ty tư vấn trong và ngoài nước để đảm bảo công nghệ lựa chọn là chính xác và phù
hợp.Mở rông liên kết kinh doanh với nước ngoài với sự giám sát chặt chẽ của nhà nước
ta,để có thể khai thác công nghệ một cách trực tiếp.
+ Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cần phải chấn chỉnh, đổi mới và có hiệu quả khu vực
doanh nghiệp nhà nước làm tốt vai trò hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát
triển .
+ Thận trọng trong sự phát triển xã hội,mở rộng giao lưu văn hóa với các
nước trên thế giới,cần có biện pháp ngăn chặn sự thâm nhập của những văn hóa không tốt
kết hợp với giữ gìn bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc.
Liên tục đổi mới cơ chế của bộ may nhà nước tránh lặp lại cơ chế chuyên quyền độc
đoán trong bộ máy nhà nước đã từng mang lại hậu quả nghiêm trọng.
+Chống quan liêu độc đoán , chủ quan cá nhân.
+Phân biệt rõ chức năng ,thẩm quyền của các cấp các nghành.
+Phải đưa ra một hệ thống luật pháp chặt chẽ,hợp tình hợp lý,phù hợp với
những phong tục tập quán tốt.Phổ biến và thực thi nghiêm chỉnh mọi điều lệ đã ra. Liên
tục thăm dò và lấy ý kiến của nhân dân để hoàn thiệnhơn các bộ luật.
+Luật bảo vệ môi trường phải được thực thi và có sự kiểm tra giám sát cụ thể
sát sao,để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Kinh tế tập thể phải không ngừng được phát triển bởi đó là nền tảng của nền kinh
tế quốc dân.kinh tế tư nhân là một thành phần không thể thiếu ,nó là một trong những động
lực của nền kinh tế.Ngoài ra thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển .Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ ,các loại hình thị trường từng
bước được xây dựng và phát triển tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường.Nhưng cần
21
phải nâng cao năng lực của cán bộ quản lý thị trường tránh để thị trường rơi vào tình thế
không kiểm soát được
.
Trong đó khoa học công nghệ luân giữ vai trò then trốt trong phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại ,bảo vệ tài nguyên môi trường ,nâng cao năng suất và trình độ sản xuất
tăng tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.Sự phát triển khoa học kĩ thuật
đánh giá trình độ phát triển và dân trí của một quốc gia bởi vậy mà khoa học kĩ thuật luôn
được quan tâm và tạo điều kiện phát triển.Nghiên cứu và áp dụng các thabhf tựu khoa học
vào thực tiễn,trước hết là ưu tiên cho các lĩnh vực như y tế,nông nghiệp,ngư nghiệp,lâm
nghiệp và sau đó là các nghành khác như hóa chất ,công nghệ thông tin,điện tử viễn
thông…
Lập kế hoạch và thực thi việc xây dựng và tập trung phát triển các trung tâm công
nghiệp,trung tâm kinh tế của cả nước.Xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc,đẩy mạnh quá
trình đô thị hóa,nhưng tránh xây dựng đô thị ồ ạt thiếu chất lượng gây hậu quả nghiêm
trọng.Cải tạo ,nâng cấp và xây mới các hạng mục công trình giao thông,cơ sở hạ tầng đô
thị tạo điều kiện cho kinh tế phát triển
Đảng và nhà nước luôn cố gắng đưa ra các chính sách và tạo điều kiện cho mọi
công dân tham gia hoạt động sản xuất đóng góp cho sự phát triển của đất nước.Chăm lo
cho đời sống ,an sinh xã hội cho nhân dân đặc biệt là cho những trẻ em mồ côi lang thang
cơ nhỡ,những người cô độc có hoàn cảnh khó khăn.Quan tâm tới đời sống ,sức khỏe của
các cựa chiến binh ,gia đình các liệt sĩ ,gia đình có công với cách mạng ,họ là những người
đóng góp tuổi thanh xuân thậm chí là mạng sống của mình để mang lại cho chúng ta cuộc
sống ấm no hạnh phúc ngày hôm nay.
22
Thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ,tích cực giúp đỡ các gia đình gặp khó
khăn tạo điều kiện cho họ làm ăn kinh tế,giúp đỡ vốn hoặc cho vay dài hạn với lãi suất
thấp.Tạo điều kiện cho những người đã từng lầm đường lạc lối để họ làm lại cuộc đời và
hòa nhập với đời sống cộng đồng,không phạm lại sai lầm.Quan tâm tới đời sống của các
đồng bào dân tộc thiểu số,tạo điều kiện giúp đỡ cho họ làm ăn,tuyên truyền phổ biến chủ
trương của đảng cho họ.
3. Những thành tựu của đảng và nhân dân ta đã đạt được sau hơn hai mươi
năm đổi mới canh tân đất nước.
Sau hơn hai mươi năm kể từ nghị quyết của đảng và nhà nước ta tại đại hội lần
thứ VI,sự đồng lòng quyết tâm của nhân dân cùng đảng ,nhà nước chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu lớn về nhiều mặt.
*Về thưc hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước đạt được nhiều kết quả quan
trọng.
Nền kinh tế đã vượt qua khủng hoảng và đạt được mức tăng trưởng rất ấn tượng,
chất lượng ,hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và một số sản phẩm có chuyển
biến.Tốc độ tăng trưởng GDP thay đổi rất nhanh thể hiển qua số liệu trong một số năm như
sau.
+Giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng GDP còn
chậm
trung bình
tăng4,4%/năm,nhưng tới giai đoạn 1991-1995 GDP trung bình đã tăng 8,2% đất nước thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh bắt đầu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.Năm 2005 đạt được tốc độ tăng trưởng cao 8,4%/ năm, năm 2007 là 7,87%.
23
Thu nhập bình quân của nhân dân cũng khá cao năm 2008 là
1024USD/người/năm đời sống nhân dân tăng cao hơn rất nhiều so với thời kì bao
cấp và những năm đầu của thời kì đổi mới.
Tiếp tục thực hiện tích cực chủ trương giữ vững nền độc lập ,tự chủ nền kinh
tế có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn lực của đất nước , của các thành phần
kinh tế cho đầu tư và phát triển.Kinh tế nhà nước vẫn giữ được vai trò và vị trí quan trọng:
+Kinh tế nhà nước chiếm 38,4% trong tổng GDP của cả nước vào năm
năm 2005
+kinh tế dân doanh là 45,7%,kinh tế hợp tác xã là 6,8%,kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài là 15,9%.
Vào những năm 1986 nước ta còn là một nước thiếu lương trầm trọng phải
nhập khẩu nhiều,thì nhiều năm gần đây chúng ta đã hoàn toàn chủ động được nguồnlương
thực phục vụ trong nước không cần phải nhập khẩu hơn nữa chúng ta còn là một nước xuất
khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
*Về giáo duc –đào tạo,khoa học công nghệ ,phát triển văn hóa xã hội.
Nước ta đã đạt chuẩn về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.Phát triển
văn hóa ,xây dựng nếp sống văn minh , lành mạnh toàn dân.Công tác chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân được chú trọng, quan tâm hơn rất nhiều,các cơ sở y tế được xây mới với các
trang thiết bị hiện đại.Lực lượng y bác sĩ được đào tạo bài bản,có trình độ chuyên môn
cao.Phong trào toàn dân tích cực luyện tập thể dục thể thao được nhân dân hưởng ứng và
tham gia tích cực.Công tác xóa đói giảm nghèo tiếp tục đạt dược nhiều kết quả ,số hộ
24
nghèo đã giảm từ 31,1% vào năm 2006 xuống 23,43% vào cuối năm 2008.Khoa học công
nghệ phát triển mạnh ở nhiều lĩnh vực như :Công nghệ thông tin ,viễn thông với các tập
đoàn nổi tiếng như tập đoàn FPT tập đoàn Bưa Chính Viễn Thông
ViệtNam,Viettell,Mobifone đây là các tập đoàn các công ty đi đầu trong lĩnh vực
công nghệ thông tin ở Việt nam.
Điện thoại di động thuần việt
Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của nước
ta
(sản phẩm của FPT)
(tập đoàn VNPT)
Chúng ta đã xây dựng thành công và đưa vào sử dụng nhà máy lọc dầu Dung Quất
vào 6/1/2011,nhà máy lọc dầu Dung Quất giúp chúng ta giảm sức ép về tình trạng giá xăng
dầu tăng cao hiện nay và sự phụ thuộc vào nhập khẩu xăng dầu từ nước ngoài ,tận dụng
được nguồn tài nguyên có sẵn.Gần đây nhất đó là chúng ta đã khánh thành đưa vào sử
dụng nhà máy ethanol Đại Tân đay là nhà máy ethanol lớn nhất Đông Nam Á .Ngoài việc
giảm thiểu sức ép giá cả xăng dầu đang leo thang nhà máy ethanol Đại Tân nói riêng và
các nhà máy ethanol trên cả nước nói chung góp phần lờn vào việc giảm thiểu các khí độc
hại do động cơ của các phương tiện thải ra môi trường.
25