SỬ THI ẤN ĐỘ
I. Một vài nét về sử thi Ấn Độ
1. Khái niệm dặc trưng sử thi Ấn Độ
Sử thi là bức tranh sinh động phản ánh đời sống tư
tưởng của nhân dân Ấn Độ qua những cuộc xung đột vũ
trang giữa các vương quốc, giữa những chủng tộc sống trên
đất Ấn Độ. Sử thi còn là những bài ca vĩ đại ca ngợi những
chiến công hiển hách, khí phách hào hùng lí tưởng mà nhân
dân Ấn Độ cổ xưa ngưỡng mộ và tôn thờ.
2. Đặc trưng sử thi Ấn Độ
a. Tính quy mô đồ sộ
- Trên thế giới ít có những bộ sử thi nào quy mô đồ sộ như
hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ.
Mhabharata dài 22 vạn câu, gấp bảy lần Iliat và Ôđixê của
Hi Lạp cộng lại.
- Ramayana dài năm vạn câu. Có được tính quy mô đồ sộ
như vậy, trước hết là do người Ấn Độ có thói quen suy nghĩ
triền miên, giàu óc tưởng tượng. Hai nữa là Ấn Độ rộng
lớn, có nhiều dân tộc, nhiều truyền thuyết, có nhiều huyền
thoại. Các nghệ nhân kể chuyện thường sưu tập các truyện
lan truyền trong các địâ phương xâu chuỗi lại làm cho nội
dung thêm phong phú và được kéo dài. Hai tập sử thi kể
trên có sức khái quát rộng lớn và bối cảnh hoành tráng.
b. Tính giáo huấn sâu đậm.
- Hai tập sử thi đều đề cao lí tưởng đạo đức và bổn phận
của Ksatrya hướng con người vào điều thiện chống cái ác,
sống theo đạo lí công bằng, bác ái.
- Có đặc trưng trên là do Ấn Độ có nhiều tôn giáo. Dân tộc
Ấn Độ là dân tộc mộ đạo, giáo lí tôn giáo được phản ánh
khá sâu sắc trong các bộ sử thi. Điều này lam cho chất giáo
huấn, kinh lễ thêm sâu đậm trong sử thi.
c. Tính xung đột gay gắt về đạo lí
- Hai tập sử thi trên không coi trọng miêu tả chiến tranh mà
chú trọng miêu tả sự xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa
đạo lí và phi đạo lí. Nếu có xung đột với nhau, trước tiên
phải hoà giải, nếu không thành mới tiến tới chiến tranh.
Điều luật của chiến tranh là phải đảm bảo lẽ công bằng,
mang tính nhân đạo. Mục đích cuối cùng của chiến tranh là
hoà hợp, hoà bình. Đó là tinh thần Ấn Độ.
d. Tính đa dạng của hệ thống nhân vật
- Nhân vật trong sử thi Ấn Độ rất phong phú và đa dạng:
Người anh hùng, đạo sĩ, phụ nữ thần thánh, ma quỷ…
- Nhân vật thường biến hoá đa dạng, nửa thần, nửa người.
- Nhân vật anh hùng thường là người có sức mạnh về trí
tuệ, lòng dũng cảm, đạo đức, lòng từ thiện.
II. Phân tích hai bộ sử thi
1. RAMAYANA
* Nguồn gốc và ảnh hưởng
- Ramayana bắt nguồn từ truyền thuyết về hoàng tử Rama,
được lưu
truyền trong dân gian mấy ngàn năm về trước.
- Vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Vanmikimột đạo sĩ Bà
Lamôn đã ghi lại bằng văn vần.
Sử thi Ramayana có độ dài 24.000 câu đôi chia ra thành 7
khúc ca. Nó có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới ca múa (vũ điệu
Xita) kiến trúc, hội hoạ... trong việc khơi ngợi đề tài và
nguồn cảm hứng.
*. Tóm tắt
- Khúc ca I: dòng dõi và tuổi trẻ của hoàng tử Rama.
- Khúc ca II: 13 năm lưu đầy trong rừng sâu.
- Khúc ca III: nàng Xita bị quỷ vương Ravana bắt mất đưa
về đảo Lanka.
- Khúc ca IV: Rama tiêu điều vua khỉ Valin giành lại ngôi
báu cho vua khỉ Xugriva. Cuộc liên minh thần thánh.
- Khúc ca V: tướng khỉ Hanuman do thám đến đảo Lanka.
- Khúc ca VI: Cuộc chiến đấu dữ dội, ác liệt giữa Rama và
Ravana.
Ravana bị tiêu diệt. Nàng Xita được cứu thoát.
- Khúc ca VII: Rama nổi cơn ghen.Xita nhảy vào dàn lửa.
Thần Anhi soisáng lòng kiên trinh thuỷ chung cho nàng.
Rama cùng vợ là Xita trở về quốcvương Kôsala lên ngôi
vua.
Tóm tắt cốt truyện của sử thi Ramayana
Ở thủ đô Ayodhya của vương quốc Kosala, có ông vua già
yếu thuộc triều đại Mặt trời tên là Daxatha. Nhà vua có 4
người con trai do 3 người vợ sinh ra. Con cả là hoàng tử
Rama, hơn hẳn các em mình về trí tueetj, nhân đức và lòng
quả cảm. Daxatha có ý định nhường ngôi cho Rama nhưng
vì nghe theo lời xúi giục của thứ phi Kekei mà đày Rama
vào rừng 14 năm trời rồi quyết định nhường ngôi cho
Brahata do Kekei sinh ra.
Rama vâng lời cha , đem vợ là Sita và em trai Laksmana
vào rừng. Sita vốn được vua Janaka xứ Videha nhận làm
con. Trong một buổi lễ hạ điền, nhà vua cầm cày xới luống
đất đầu tiên thì trong luống cày xuất hiện một cô bé gái nhỏ
xíu xinh đẹp, nhà vua bèn ôm vào lòng và đem về hoàng
cung nuôi nấng . Không bao lâu Sita trở thành một cô công
chúa xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng. Đến tuổi, nhà vua làm
lễ kén phò mã cho nàng. Trong lễ đó nàng làm điều kiện
cho các hoàng tử khắp bốn phương đến đọ sức đua tài, nếu
ai bẻ gẫy được chiếc cung thần của cha nàng thì nàng nhận
làm chồng.
Các hoàng tử khác đã thử sức nhưng đành bó tay, duy chỉ
có Rama đủ sức mạnh phi thường, bẻ gẫy được chiếc cung
thần đó. Chàng được Sita choàng vào cổ vòng hoa chiến
thắng và nhà vua làm lễ thành hôn cho hai người.
Sau khi bị đày vào rừng, Rama dựng lều bên bờ suối cùng
vợ và em trai ngày ngày săn bắn tập võ nghệ, tu luyện đức
độ, trong cảnh gian khổ, ăn quả rừng, uống nước suối.
Không bao lâu, quỷ Ravana ở đảo Lanka (Sri Lanka ngày
nay) biết tin nàng Sita xinh đẹp đang sống trong rừng,
muốn đến cướp nàng về làm vợ. Hắn lập mưu sai con quỷ
Maricha đến trước giả dạng làm con hươu xinh đẹp nhảy
nhót tung tăng trước mặt hai vợ chồng Rama, Sita thích con
hươu bèn giục chông đuổi bắt cho nàng. Rama đuổi theo
hươu vào rừng sâu quá lâu. Sita lo lắng bảo em chồng vào
tìm. Thừa cơ, quye Ravana giả danh đạo sĩ Bà la môn đến
phonhr phờ, dụ dỗ nàng rồi bắt nàng bỏ lên thiên xa phóng
về Lanka. Ravana giam nàng trong cung cấm, tìm cách hãm
hiếp nhưng không được bèn đe dọa cho quỷ sứ xẻo tai, moi
mắt, cắt tiết nàng, băm vằm nàng nhưng nàng một mực
chống cự.
Hai anh em giết được con quỷ hóa hươu rồi quay lại lều trại
biết Sita đã bị quỷ vương Ravana bắt cóc, Rama quyết tâm
đi cứu. Nhờ có đạo sĩ Kabandha khuyên, anh em Rama đến
tìm vua loài khỉ Sugriva giúp sức . Sugriva đang bị khỉ Vali
cướp ngôi báu, gặp dịp anh em Rama trừ khử khỉ Vali
giành lại ngôi báu cho Sugriva. Trước tinh thần nghĩa hiệp
và lòng dũng cảm đó của Rama, Sugriva bèn phái tướng
khỉ Hanuman tài giỏi, có phép thần thông biến hóa đi theo
giúp sức anh em Rama.
Chiến đấu với quỷ vương Ravana gặp rất nhiều khó khăn,
Ravana vốn là con quỷ có mười đầu , đầu chặt xong lại
mọc lên, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Hanuman và nhờ có
thanh kiếm thần của thần Brahma cấp cho nên Rama dã
tiêu diệt được Ravana cứu được nàng Sita.
Sau thắng lợi đó tưởng chừng hai vợ chồng sẽ mừng vui
khôn xiết trong cảnh hội ngộ, nhưng không ngờ trong lòng
Rama bỗng nổi lên cơn ghen tuông dữ dội. Rama nghĩ rằng
Sita không còn đủ tiết hạnh và lòng chung thủy khi sống
với quỷ Ravana do đó không muốn nhận nàng làm vợ nữa.
Sita thấy vậy rất đau lòng , nàng đã cố dùng những lời lẽ để
minh oan cho mình, cuối cùng không còn cách nào khác,
nàng đành nhảy vào lửa để tự thiêu. Nhờ có thần lửa Agni
chứng giám lòng trong trắng của nàng nên đã không thiêu
đốt nàng. Giữa ngon lửa thân mình nàng sáng ngời như Mặt
tẳng , thần Lửa giao nàng lại cho Rama , Rama vui sướng
dang tay đón nàng. Cũng đúng lúc hết hạn đi đày, vợ chồng
Rama cùng em trai trở về kinh đô trong cảnh dân chúng
náo nhiệt đón mừng Rama lên ngôi trị vì đất nước. Từ đó
vương quốc Kosala sống trong cảnh thái bình thịnh vượng.
[Đoạn tiếp sau không có trong nguyên bản khúc ca]
Trăm họ đang sống trong cảnh thái bình yên vui thì từ trong
đám vươngg công quý tộc ở đô thành nổi lên dư luận dèm
pha, chỉ trích nhà vua đã dung túng cho một người đàn bà
đã thay lòng dổi dạ , chung chạ với quỷ sứ. Rama nghe tin
đó lại nổi cơn ghen một lần nữa bèn đuổi Sita vào rừng sâu
đúng lúc nàng đang mang thai.
Sita vào rừng trong cảnh đau khổ, nàng khóc lóc kể lể nỗi
niềm với cây cỏ rồi ngất đi giữa rừng sâu, May thay có đạo
sĩ Valmiki tu gần đấy nhận nàng làm con nuôi.
Mười năm sau, trong đám hội lớn ở đô thành Ayodhya có
hai em bé là Kusa và Lava đi đến đâu cũng hát kể kì tích
của Rama, lòng đau khổ và niềm chung thủy của Sita khiến
mọi người nghe bùi ngùi xúc động. Rama nghe tin đó đã
gọi hai đứa bé vào cung , hỏi đầu đuôi mới nhận ra hai đứa
con của mình do Sita sinh ra trong rừng.. Biết vậy, Râm
buồn phiền hối hận cho đón Sita về kinh, nhưng Sita không
muốn găp lại Rama nữa mà cầu xin đất me là thần Đất mở
rộng luốn cày đón nàng trở về trong lòng đất, nơi đã sinh ra
nàng.
Rama đau đớn van nài thần Đất, nhưng thần Brahma xuất
hiện an ủi chàng và cho biết chàng sẽ được tái hợp trong
kiếp sau ở cõi trời, Sau đó, Rama nhường lại vương quốc
cho hai con và về trời, trở lại bản thân nguyên thủy là
Visnu - thần bảo vệ của toàn thể vũ trụ.
* RAMA buộc tội.
* Xuất xứ và ý nghĩa
- Đoạn kể "Rama buộc tội" trích trong ca khúc thứ 6,
chương 79 sử thi
Ramayana.
- 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Rama,
hơn 13 năm đi đày và cuộc chiến đánh thắng quỷ vương
Ravana để cứu nàng Xita xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo
Lanka, Rama cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn thì hạn
đi đày 14 năm gần kết thúc. Bỗng Rama nổi cơn ghen
tuông dữ dội. Chương 79, Rama dùng những lời nặng nề,
gay gắt buộc tội Xita, nghi ngờ nàng về sự trong trắng thuỷ
chung. Xita bước vào giàn lửa thần Anhi đã minh chứng
cho nàng... Rama hồi hận, cảm động, tự hào đón lấy nàng.
Hạn đi đày 14 năm cũng kết thúc. Rama chia tay các chiến
hữu, chàng cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên xa bay về
kinh đô Kôsala...
- Chương 79 khắc hoạ thêm một nét đẹp về con người
Thiện của đẳng cấpKơxatrya (vương công, quý tộc, võ sĩ)
và đức tính trung hậu, đoan trang củangười phụ nữ cao quý.
Phân tích
a. Rama ghen tuông - nổi giận
- Khi Xita đã khiêm nhường đứng trước Rama, chàng nói với
nàng mộtcách mỉa mai: "Hỡi phu nhân cao quý". Quan hệ vợ
chồng hầu như khôngcòn nữa.
- Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Rama đó là nghĩa
vụ và tài năng đã hoàn thành: "ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu
khống nghĩa là nàng đã bị Ravana bắt cóc chứ không phải đi
theo hắn; "cơn giận ta đã hả, ta đã trả thù kẻ năng nhục ta".
Rama đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya
của mình: "Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài
nghệ của riêng mình ra để trả thù, kẻ đó là một gã tầm thường".
Rama cũng dành những lời nói tốt đẹp nhất để ca ngợi
Hanuman và Viphisana - hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.
Trước nhan sắc của Xita: "khuôn mặt bông sen", "những cuộn
tóc cuộn sóng" và những giọt lệ của nàng, lòng Rama "đau như
dao cắt", nghĩa là chàng vẫn say đắm Xita. Nhưng danh dự là
trên hết, là tất cả, bởi lẽ người anh hùng "sợ tai tiếng". Phải kết
thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để "xoá bỏ vết ô nhục vì
uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của
mình". Rama không thể "nhận nàng về", "không ưng có nàng
nữa" vì "nàng đã lưu lại tại nhà một kẻ xa lạ", vì Ravana với
"đôi mắt tội lỗi... hau háu nhìn khắp người nàng", nghĩa là nàng
đã thất thân với hắn, cho nên Rama phải nghĩ tới "gia đình cao
quý" đã sinh ra mình.
Tóm lại, Rama vẫn còn yêu Xita xinh đẹp, nhưng vì danh dự,
nhân phẩm của người anh hùng, của dòng họ cao quý mà chẳng
phải buộc tội Xita, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: "Vậy
ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu tuỳ nàng, ta không ưng
có nàng nữa" Rama cảm thấy xấu hổ bị xúc phạm khi trông
thấy Xita thì "không chịu nổi", "chẳng khác ánh sáng đối với
người bị đau mắt". Rama ghen tuông, buộc tội không phải vì
mù quáng mà trái lại, ghen tuông và buộc tội vì nhân phẩm,
danh dự, một nét tính cách
của con người Thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý.
b.. Nàng Xita
Xita được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và
danh dự.
Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng "đau đớn đến
nghẹn thở". Nàng "xấu hổ cho số kiếp của nàng", nàng muốn
chết ngay "muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình". Nàng
vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Rama, nàng cảm
thấy như muôn nghìn mũi tên "xuyên vào trái tim nàng". Nàng
khóc "nước mắt nàng đổ ra như suối"- buộc tội Rama. Nàng
khẳng định: "trái tim thiếp đây thuộc về chàng". Chàng chưa
hiểu được thiếp qua tình yêu và tâm hồn thiếp. Tại sao khi
Hanuman trinh sát tới đảo Lanka, chàng không nhắn nhủ lời
"tử bỏ thiếp để thiếp sớm tự kết liễu đời mình". Nếu chàng tự
hào dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: "Đất là mẹ của
thiếp". Nếu Rama mỉa mai, gọi Xita là "Hỡi phu nhân cao quý"
thì Xita cũng đàng hoàng đáp lại "Hỡi đức vua" (và trách) "cớ
sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp?".
- Xita nhảy vào giàn hoả thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai
đã từng
mục kích điệu múa "Nàng Xita"? Rama "khủng khiếp như
Thần Chết". Các thánh thần thì tự hào nhìn Xita nhảy vào lửa
"chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh". Đông đảo phụ
nữ thì "kêu khóc thảm thương". Loài ma quỷ như Vanara,
Raksaxa cũng "kêu khóc váng trời".
- Hình ảnh Xita đàng hoàng tự tin. Nàng "lượn quanh" Rama
như để chàovĩnhbiệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng.
Nàng cất lời nguyền vớiThần Anhi: khẳng định mình bị oan,
một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻgian dối; tự hào về lòng
trong trắng thuỷ chung trong tình yêu cúi xin thần"bảo vệ con",
"phù hộ cho con". Lời cấu nguyện của nàng Xita:"Nếu con
trước sau một lòng một dạ với Rama thì cúi xin Thần hãy
tìmhết cách bảo vệ con. Rama đã coi một người phụ nữ trinh
tiết như một kẻgian dối: nhưng nếu con trong trắng, xin Thần
Anhi phù hộ cho con."
Đọc "sử thi Ramayana" như ta biết, ngọn lửa sáng rực như
mặt trời, nàng
Xita lộng lẫy kiều diễm trong ngọn lửa. Thần lửa Anhi đã
chứng minh và
cứu sống nàng. Rama dang đôi tay đón Xita, nước mắt chan
hoà sung sướng
vừa ân hận, vừa tự hào.
2. Giá trị tác phẩm
a. Về mặt nội dung, sử thi Ramayana:
- Là bức tranh rộng lớn về xã hội Ấn Độ cổ đại.
- Ca ngợi chiến công và đạo đức của người anh hùng.
- Biểu dương tấm lòng thuỷ chung, kiên trinh son sắt của người
phụ nữ.
b. Về mặt nghệ thuật Ramayana:
- Bút pháp miêu tả thiên nhiên và tâm trạng nhân vật tài tình
tạo nên màu
sắc trần thế và thần linh hoà quỵên.
- Kể chuyện bi hùng, đậm đà màu sắc thần thoại kì diệu.
- Rama và Xita là 2 hình tượng điển hình chói sáng nhất, hấp dẫn
nhất.
- Quy mô kì vĩ, hoành tráng mang tầm vóc vũ trụ.