Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Giáo trình Văn học chau A

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.49 KB, 54 trang )

VĂN HỌC CHÂU Á
LỜI NÓI ĐẦU
Ðây là cuốn giáo trình có tính chất Ðại cương về Văn học sử một số nước ở Châu Á.
Châu Á là một lục địa rất rộng lớn, bao gồm nhiều quốc gia. Mỗi dân tộc- mỗi quốc gia lại có
nền văn học đậm bản sắc dân tộc. Nền văn học Châu Á rất phong phú, đa dạng, nhiều vẻ. So với
nền văn học các châu lục khác trên hành tinh chúng ta, thì văn học Châu Á có nhiều nét riêng bởi
tính đặc thù của nó. Cần phải có những bộ Văn học sử Châu Á! Ðó là một yêu cầu cấp thiết. Tuy
nhiên, điều cần phải có ấy lại còn thuộc về tương lai!
Trong khi chờ đợi những bộ sách như thế ra đời, chúng tôi mạnh dạn phác thảo chân dung ba
nền văn học của ba quốc gia tiêu biểu cho Châu Á là văn học Ấn Ðộ, văn học Trung Quốc và
văn học Nhật Bản. Vì vậy, cuốn giáo trình này cũng được chia làm ba phần rõ rệt: văn học sử
Trung Quốc (từ thời Mông- Nguyên đến thời đương đại), khái quát tiến trình văn học sửẤn Ðộ,
khái quát tiến trình văn học sử Nhất Bản. Ðây quả là một việc làm quá sức và liều lĩnh. Song
trước yêu cầu của công tác giảng dạy và học tập môn Văn học Châu Á ở bậc đại học, chúng tôi
xin được phác lược những nét cơ bản nhất của ba nền văn học đã nói tới ở trên.
Khi định danh cho cuốn sách là một giáo trình, thiết nghĩ cũng xinh được giải bày một vài
thiển ý của người viết về quan niệm thế nào là một giáo trình. Trong suy nghĩ của người viết, có
nhiều cách để giới thuyết khái niệm giáo trình. Nhưng dù bằng cách nào thì cũng phải phân biệt
được sự khác nhau giữa giáo án, bài giảng và giáo trình. Sự khác nhau giữa giáo án, bài giảng và
giáo trình là do Ðặc điểm đối tượng đào tạo, Mục đích yêu cầu riêng của từng bậc học chi phối.
Sự khác nhau này lại được thể hiện ở Mức độ, ở Nội dung và ở cà Hình thức của giáo án, bài
giảng và giáo trình. Giáo án ( có nơi, có lúc còn gọi là giáo tài) là bài soạn, là Kế hoạch lên lớp
của Giáo viên phổ thông, hay Giáo viên huấn luyện ở các lớp Dạy nghệ, các lớp Thực hành. Còn
nội dung cần dạy và học ở Phổ thông lại nằm ngay trong sách Giáo khoa dùng chung cho thầy và
trò. Bài giảng và giáo trình là những bài soạn và bài viết của cán bộ giảng dạy ở bậc đại học
dùng để giảng cho sinh viên đại học. Bài giảng cũng khác giáo trình về mức độ và chất lượng.
Bài giảng được soạn trên cơ sở dựa vào các tài liệu, tư liệu đã có, được tổ chức lại, sắp xếp lại
một cách hệ thống để lên lớp trìng bày theo lối giảng đ5c. Kiến thức trong bài giảng là kiến thức
cốt lõi. Còn kiến thức trong giáo trình vừa là kiến thức cốt lõi cho sinh viên học, vừa là kiến thức
phát triển cho sinh viên đọc. Kiến thức phát triển là kiến thức mở rộng, kiến thức mới. Giáo trình
của bất cứ một môn học nào, đúng nghĩa của nó cũng có tính phương pháp. Ðối với sinh viên đại


học, nắm phương pháp chính là nắm được chìa khóa, nắm được kiến thức công cụ để học tập và
nghiên cứu khoa học ngay từ giảng đường đại học. Sự phát triển của cách mạng khoa học- kỹ
thuật trong thế kỷ XXI sẽ được đánh dấu bằng sự phát triển của phương pháp. Không có phương
pháp tư duy thì sẽ không thể đưa Khoa học và Công nghệ hay vào kỹ thuật được. Nếu xét về kiến
thức chất liệu, với các tư liệu, cứ liệu cụ thể thì hầu hết các giáo trình văn học sử đều giống nhau,
nhưng mỗi giáo trình lại có cách tiếp cận- một phương pháp luận giải khác nhau đối với các vấn
đề văn học sử. Sự khác nhau về phương pháp tiếp cận các vấn đề văn học sử đã dẫn tới sự ra đời
nhiều công trình, giáo trình văn học sử. Căn cứ vào sách giáo khoa môn Văn học ở trường phổ
thông trung học và giáo trình văn học sử ở bậc đại học, có thể phân các bài văn học sử thành năm
dạng bài:
- Dạng bài văn học sử khái quát một giai đoạn văn học.
- Dạng bài văn học sử về một trào lưu, một khuynh hướng, một tư trào, một lưu phái văn học.
- Dạng bài văn học sử về một thể loại hay một thể loại văn học.
- Dạng bài văn học sử về một tác gia văn học.
- Dạng bài văn học sử về một tác phẩm văn học( đối với những tác phẩm ưu tú và dài)
Mỗi dạng bài văn học sử đều có những đặc điểm riêng biệt. Nhưng suy tới cùng, Lịch sử văn học
chính là Lịch sử ra đời và phát triển của một hay nhiều loại thể, thể loại văn học gắn liền với
những tên tuổi của các Tác gia, Tác phẩm trong quy luật kế thừa và cách tân của nó.
Bất kỳ một Loại thể hay Thể loại văn học nào cũng ra đời và phát triển trong hoàn cảnh
Lịch sử- Xã hội nhất định. Vì vậy, khi thực hiện hai chức năng mô tả và giải thích của văm học
sử, giáo trình lý giải các mối quan hệ tác động đến sự ra đời và phát triển của một hay nhiều loại
thể, thể loại, một trào lưu, một hiện tượng văn học ở một giai đoạn nào đó. Nếu như lý luận
văn học hướng tới việc cắt nghĩa bản chất văn học là gì thì lịch sử văn học lại nhằm lý giải quy
luật sinh thành và phát triển của văn học như thế nào. Muốn lý giải được quy luật sinh thành và
phát triển của văn học thì phải chỉ ra các nguyên nhân sâu xa bao gồm nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp vì vậy khi nói tới sự
nảy sinh và phát triển của một loại thể, thể loại hay một hiện tượng văn học, giáo trình cố gắng
luận giải như là một tất yếu của đời sống văn chương.
Do vốn hiểu biết của người viết còn hạn chế, nên giáo trình không thể tránh khỏi những
sai sót. Người viết mong nhận được những góp ý thắng thắn, nghiêm khắc của các đồng nghiệp

và sinh viên. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất.
CHƯƠNG 1 : VĂN HỌC TRUNG QUỐC
TỪ TRIỀU ÐẠI MÔNG NGUYÊN (1279-1368) ÐẾN THỜI ÐƯƠNG ÐẠI
Có thể xem đây là Tám thế kỷ phát triển của Văn chương Trung Quốc.Trong tám thế kỷ
ấy,lịch sử Trung Quốc đã diễn ra nhiều biến thiên trọng đại. Từ chế độ phong kiến, Trung Quốc
đã trải qua chế độ nửa phong kiến nửa thuợc địa. Từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ đã
chuyển sang cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp công nhân lãnh đạo.Sau khi thực
hiện thắng lợi hai cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Cũng trong tám thế kỷ ấy, văn chương Trung Quốïc không ngừng phát triển. Từ hình thái
văn chương cổ điển, nền văn chương Trung Quốc đã chuyển mình trên con đường hiện đại hóa
để có được sự phát triển đồng đều của nhiều loại thể và thể loạüi, đạt được nhiều thành tựu đáng
kể, đóng góp xứng đáng cho nền văn chương nhân loại.
VĂN CHƯƠNG THỜI MÔNG NGUYÊN (1279 - 1368) TOP
Mỗi giai đoạn lịch sử đều có những đặc điểm và những yếu tố khác nhau tác động, ảnh hưởng
đến sự phát triển của văn chương. Những đặc điểm và những yếu tố ấy có khi tác động trực tiếp,
cũng có khi tác động gián tiếp. Nó tạo nên những nguyên nhân chủ quan và khách quan thúc
đẩy sự phát triển của văn chương.
Thời Mông Nguyên có thể tính từ 1279 (lúc Mông Cổ chiếm được toàn bộ đất đai của
Trung Quốc) đến 1368 (lúc xây dựng được nhà nước thống nhất của Hán tộc). Nét nổi bật nhất
của giai đoạn lịch sử này là sự thống trị hà khắc và tàn bạo của xâm lược Mông Cổ đè nặng lên
đời sống mọi mặt của người dân Trung Quốc. Từ trong bối cảnh ngột ngạt ấy, văn chương vẫn
phát triển, đặc biệt là thể loại tạp kịch. Sân khấu tạp kịch đã trở thành diễn đàn để cho các văn
nhân, nghệ sĩ chân chính bày tỏ tâm tư, ước vọng của quần chúng nhân dân Trung Quốc trước
bạo lực cường quyền của quân xâm lược.
I. NHỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA GIAI ÐOẠN VĂN CHƯƠNG THỜI MÔNG
NGUYÊN
TOP
Về lịch sử xã hội:
Mông Cổ xâm lược Trung Hoa và thiết lập nên triều đại nhà Nguyên trên đất

Trung Hoa, nên sử gọi là thời Mông Nguyên.
Mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt, đặc biệt là mâu thuẫn
dân tộc.
Về văn chương:
Ở giai đoạn này, có sự phát triển phồn thịnh nhất của thể tạp kịch. Tạp kịch phát
triển đã tạo nên diện mạo riêng cho nền văn chương Trung Quốc ở thời Mông Nguyên.
II. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI TOP
Trung Quốc nằm dưới ách thống trị của quân Mông. Mông Cổ đã thiết lập nên triều đại
nhà Nguyên. Vì vậy xã hội Trung Quốc thời này có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giai cấp và
mâu thuẫn dân tộc. Nổi bật là mâu thuẫn dân tộc.
Thế kỉ XIII đế quốc Mông Cổ bành trướng thế lực. Mông Cổ đánh xuống phương Nam
đồng thời tiến đánh vùng Trung Á, đánh Nga, Ðông Âu. Mông Cổ trở thành một đế quốc án ngự
giữa hai châu lục Âu-Á. Khi đế quốc Mông Cổ bành trướng thế lực Trung Quốc bị chia làm hai
miền: miền Bắc do nhà Kim (ngoại tộc), miền Nam do Nam Tống (Hán tôc) thống trị.
1210, Mông Cổ đánh nhà Kim.
1234, Mông Cổ đã chiếm được phần đất nhà Kim.
1267, Mông Cổ cất quân đánh Nam Tống.
1279, toàn bộ đất đai của Nam Tống bị lọt vào tay Mông Cổ. Mông Cổ trong thời này
còn ở tình trạng lạc hậu. Họ sống bằng nghề chiến tranh, cướp bóc. Quân của Mông Cổ rất giỏi
cưỡi ngựa, bắn cung. Khi quân Mông Cổ xâm lược Trung Quốc, đi đến đâu họ tàn phá đến đó,
khiến cho bao nhiêu làng mạc, bao nhiêu thành phố ở Trung Quốc lâm vào cảnh tiêu điều xơ xác.
1. Kinh tế:
Nông nghiệp Trung Quốc thời Mông Nguyên không phát triển bởi triều Nguyên
không trọng nông ức thương như các triều đại Hán tộc trước đó. Thời này, ruộng đất của nông
dân Trung Quốc hầu hết bỏ hoang vì chiến tranh, một phần còn lại bị quân Mông Cổ chiếm đoạt.
Người nông dân sản xuất không được là bao, lại bị thiên tai dồn dập và phả chịu thuế khóa rất
nặng nề. Họ không có ruộng cày và lâm vào tình trạng đói kém, bị biến thành công nô hay nông
nô. Người nông dân ở phương Bắc của Trung Quốc không chịu được sự bóc lột quá nặng nề,
nên họ đã tìm xuống phương Nam, mong có một cuộc sống đỡ hơn. Nhưng chạy trời không khỏi
nắng- tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, khi họ xuống phương Nam thì đời sống của nông dân phương

Nam cũng khó khăn chẳng khác gì đời sống của người nông dân phương Bắc. Ðời sống của nông
dân cả nước hết sức cùng quẫn bế tắc. Cho nên nông nghiệp Trung Quốc dưới triều Mông
Nguyên có phần tiêu điều.
Thủ công nghiệp-thương nghiệp: Triều đại nhà Nguyên có sự phát triển khá cao
của thủ công nghiệp và thương nghiệp. Quan lại triều đình Mông Nguyên rất coi trọng thương
nghiệp. Giao thông đường bộ và đường biển đều được mở mang, tạo điều kiện cho việc thông
thường, giao dịch, trao đổi hàng hóa. Nếu như trước kia, Trung Quốc nằm trong tình trạng bế
quan tỏa cảng thì đến triều Nguyên, Trung Quốc đã thông thương với Châu Âu và các nước vùng
Trung Á cũng như các nước vùng Ðông Nam Á. Các bến cảng cũng tấp nập thuyền bè buôn bán
ra vào. Việc đi lại, giao lưu giữa Trung Quốc với các nước khác đã trở nên dễ dàng. Nhờ vậy
việc trao đổi buôn bán đã diễn ra khá sôi nổi, nhộn nhịp mà trước đó chưa từng có. Các địa khu,
các đô thị trên cả nước đều trở nên sầm uất. Ðại Ðô (ngày nay là Bắc Kinh) không chỉ là trung
tâm chính trị của cả nước mà đã thực sự trở thành một trong những trung tâm kinh tế nổi tiếng
nhất thế giới. Máccô Pôlô-một nhà quan sát thị trường người Italia, sau chuyến đến quan sát thị
trường Trung Quốc vào thời này, đã viết trong cuốn du kí của ông những lời ca ngợi, đề cao đối
với nền công-thương nghiệp của Trung Quốc dưới triều nhà Nguyên. Ông đã cho rằng: các nơi
Nam Bắc Trung Quốc, đô thị buôn bán như sao sa. Ở Hàng Châu đã xuất hiện một số phường dệt
có quy mô lớn. Nghề in ấn, nghề làm giấy, nghề làm thuốc súng, nghề làm kim chỉ nam (la bàn)
được truyền vào Châu Âu từ đời nhà Nguyên. Kinh tế đô thị phát triển, nên tầng lớp thị dân càng
đông đúc và trưởng thành. Ðây là yếu tố quan trọng làm nảy sinh thị hiếu thẩm mỹ mới.
2. Chính trị:
Sau khi lên nối ngôi (1260), Hốt Tất Liệt áp dụng kiến nghị: phải thi hành Hán
pháp thì mới giữ vững được lâu dài. Tuy thi hành theo Hán pháp, nhưng mâu thuẫn dân tộc vẫn
ngày càng trở nên sâu sắc bởi triều Nguyên dựa vào Hán pháp để thẳng tay áp bức người Hán.
Nhà Nguyên đã thực hiện tứ đặng nhân chế, chia quốc dân trong nước ra thành bốn đẳng cấp,
hay nói cách khác là chia quốc dân thành bốn hạng người: hạng cao quý nhất được dành cho
người Mông Cổ, hạng thứ hai là người sắc mục (mắt có màu) ở vùng Tây Vực và Tây Hạ, hạng
thứ ba là người Cao Li, người Khiết Ðan và người Hán ở phương Bắc, hạng cuối cùng là người
Hán ở phương Nam. Không những thế triều Nguyên còn chia xã hội thành mười thứ người: nhất
quan, nhì lại, ba tăng đồ, bốn đạo sĩ, năm thầy thuốc, sáu thợ thuyền, người đi săn, tám con hát,

chín nho sĩ, văn nhân nghệ sĩ, mười là kẻ hành khất.
Hệ thống quan lại từ trung ướng xuống các địa phương hầu hết là người Mông Cổ, có
một ít là người sắc mục. Rất hiếm người Hán được làm quan và nếu có cũng chỉ được làm quan
nhỏ.
Mặt khác, sợ nhân dân Trung Quốc chống lại, triều Nguyên đã dadựt ra những luật lệ
cấm đoán rất khắt khe như cấm tàng trữ binh khí, cấm tập luyện võ nghệ, cấm đi săn, cấm nuôi
ngựa, cấm họp nhau cầu đạo, tế thần, cấm họp chợ mua bán, cấm thắp đèn ban đêm.
3. Văn hóa-giáo dục: Triều Nguyên không trọng Nho giáo mà sùng tín Phật giáo và Ðạo
giáo. Sức mạnh thống trị về tư tưởng của Nho giáo bị giảm sút rất nhiều so với các triều đại
trước đó.
Thời này, chế độ thi cử bị bãi bỏ, khiến cho các nho sĩ, văn nhân nghệ sĩ mất hết đường
sống. Họ đã tổ chức thành các Thư hội để biểu diễn và sáng tác tạp kịch. Thư hội gồm các tài
nhân là những tác gia của các kịch bản tạp kịch thời Mông Nguyên.
Mông Cổ thống trị Trung Quốc cũng đã mang những yếu tố lạ của văn hóa Mông Cổ vào
Trung Quốc, làm phong phúc thêm nền văn hóa Trung Quốc dưới triều Nguyên.
III. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VĂN CHƯƠNG TOP
Nét nổi bật của văn chương thời Mông Nguyên là sự phát triển rực rỡ của tạp kịch. Nếu
như thời Hán có sự phát triển của thể phú, thời Ðường có sự phát triển của thơ ca, thời Tống
có sự phát triển rực rỡ của từ (biến thức của thơ) và thời Minh-Thanh sau này có sự phát triển
rực rỡ của tiểu thuyết cổ điển thì thời Mông Nguyên có sự phát triển đạt đến mức hoàng kim của
thể tạp kịch.
Trên văn đàn Trung Quốc thời này cũng có sự phát triển của thơ nhưng thơ chủ yếu là do
quan lại người Trung Quốc làm tay chân cho người Mông Cổ sáng tác. Xét về số lượng thì
nhiều, nhưng về chất lượng thì thơ ca Trung Quốc thời này đi vào sự sáo mòn về câu chữ, nghèo
nàn về nội dung. Nhiều bài thơ chủ yếu đi vào thú vui chơi hoặc ca công tụng đức đối với giai
cấp thống trị và mang nặng tư tưởng nô lệ.
Bên cạnh khuynh hướng văn chương ấy, còn có một khuynh hướng dựa trên văn chương
dân gian để phát triển và tạo được những thành tựu, văn chương mới đáp ứng yêu cầu của thời
đại. Ở khuynh hướng văn chương này có sự phát triển của khúc còn gọi là Nguyên khúc. Khúc
bao gồm tản khúc và tạp kịch.

Thời này có sự phát triển của tản khúc. Ðội ngũ sáng tác tản khúc có tên tuổi gồm 187 tác
gia. Thực chất của tản khúc cũng là thơ. Tản khúc kế thừa những làn điệu dân ca thời Kim
(1115-1234). Tản khúc giống Tống từ ở chỗ dựa vào làn điệu để sáng tác và hòa âm nhạc vào để
hát. So với Tống từ thì tản khúc có nhiều yếu tố được cách tân, đặc biệt là về hình thức. Ngôn
ngữ của Tống từ thường được gọt giũa trau chuốt, còn ngôn ngữ của tản khúc thì lại rất gần gũi
với ngôn ngữ của quảng đại quần chúng nhân dân, rất giản dị và mộc mạc. Về số từ và số tiếng
trong những câu của Tống từ đều được quy định chặt chẽ. Còn số tiếng trong mỗi câu của tản
khúc thì có phần tự do, cởi mở và uyển chuyển hơn. Trong một bài tản khúc có câu dài đến hàng
chục tiếng nhưng có câu chỉ có hai, ba tiếng. Về âm luật thì tản khúc cũng rất thoáng. Nội dung
vẫn chưa thoát khỏi những tình điệu xưa, có những bài tản khúc chỉ là những lời than thở, trách
phận hay thể hiện tình cảm riêng tư. Bên cạnh đó, cũng có những bài tản khúc đã phản ánh
những nét thực tại của đời sống lúc bấy giờ. Như vậy tản khúc thời Mông Nguyên có hai khuynh
hướng. Khuynh hướng hướng nội (nghiêng về bộc lộ tình ảm bên trong) và khuynh hướng hướng
ngoại (nghiêng về phản ánh thực tại bên ngoài). So với nội dung của Tống từ thì tản khúc thiếu
hẳn cái khí vị hào hùng của Tống từ với tên tuổi của Lục Du, Tô Ðông Pha, Tân Khí Tật. Những
tác giả tản khúc nổi tiếng thời này là Trương Dưỡng Hạo, Lưu Thời Trung, Quan Hán Khanh,
Bạch Phác, Mã Trí Viễn, Trương Khả Cửu, Kiều Cát
Nhưng sự phát triển của văn chương thời này không chỉ là sự phát triển của tản khúc mà
chủ yếu là sự phát triển của tạp kịch. Tạp kịch thời này phát triển mạnh mẽ chưa từng có trong
suốt cả tiến trình phát triển văn chương Trung Quốc. Tạp kịch là loại ca vũ kịch của Trung Quốc,
còn gọi là hí khúc. Sự phát triển tạp kịch thời Mông Nguyên dựa trên cơ sở của loại hình sân
khấu đã có trước đó như Ðạp dao nương, Viện bạn và Chư cung điệu thời Tống-Kim. Loại hình
sân khấu dân gian chư cung điệu là loại hình sân khấu sơ khai, diễn viên chỉ có một người vừa
nói, vừa hát và trình diễn bất kì chỗ nào. Tạp kịch là một bước phát triển so với chư cung điệu.
Nó phát triển ở chỗ loại hình sân khấu này có yếu tố gần gũi với sân khấu hiện đại , có nhiều
diễn viên, các diễn viên vừa nói vừa hát, có cả múa nữa. Có sân khấu được trần thiết, diễn viên
được hóa trang có nhạc nền, lời hát của diễn viên tạp kịch lấy từ tản khúc.
Số lượng kịch bản tạp kịch thời này rất nhiều, có trên 700 kịch bản tạp kịch. Ðội ngũ
sáng tác kịch bản tạp kịch thời này cũng khá đông. Các tác gia tạp kịch nổi tiếng thời Nguyên
gồm: Quan Hán Khanh, Bạch Phác, Mã Trí Viễn, Trịnh Quang Tổ. Bốn tác gia tạp kịch này đã

được gọi là Nguyên khúc tứ đại gia
Sở dĩ kịch bản tạp kịch thời này phát triển mạnh là bởi những nguyên nhân sau đây:
Thời Nguyên kinh tế đô thị phát triển chưa từng có trước đó. Nên tầng lớp thị dân cũng
phát triển. Vì vậy, thị hiếu thẩm mỹ của tầng lớp thị dân có sự thay đổi. Lúc này tầng lớp thị
dân ham thích đi xem biểu diễn tạp kịch nên tạp kịch phát triển.
Quan quân Mông Nguyên rất thích xem vũ kịch. Ðây là một điều kiện để tạp kịch phát
triển.
Dưới triều Nguyên chế độ thi cử bị bãi bỏ. Nên tầng lớp nho sĩ, văn nghệ sĩ mất hết
đường sống, họ đã tìm đến con đường sáng tác và biểu diễn tạp kịch, họ lập ra các thư hội và
sáng tác tạp kịch.
Dân tộc Trung Hoa bị áp bức nặng nề. Văn chương nói chung và đặc biệt tạp kịch nói
riêng của Trung Quốc thời này đã trở thành tiếng nói đòi tự do. Trong một dân tộc bị tước
mất tự do xã hội, văn chương là diễn đàn duy nhất mà từ đỉnh cao đó nó buộkc người ta phải
nghe tiếng kêu bất bình và tiếng gào thét của ý thưc mình (Ghecxen).
Lực lượng sáng tác tạp kịch thời này khá đông, các tác gia tạp kịch có tên tuỏi là trên 200
người. Họ bị quan quân Mông Cổ đẩy xuống tận dưới đáy xã hội nên đời sống của họ rất gần gũi
với các tầng lớp bị áp bức, bóc lột nặng nề trong xã hội. Lực lượng này vừa sáng tác cũng vừa
tham gia biểu diễn cùng với các diễn viên tạp kịch. Do đời sống của họ gần gũi với các tầng lớp
bị áp bức nên họ sớm nói được tiếng lòng của quần chúng lao động.
Tư tưởng nhân đạo của các tác gia tạp kịch được biểu hiện trong kịch bản, hoàn toàn
không có sự cách bậc với quần chúng, không có thứ chủ nghĩa nhân đạo kiểu thư phòng (chữ
dùng của Ăngghen).
Tác phẩm tạp kịch thời này tập trung vào 3 đề tài lớn là tình yêu, công án và lịch sử:
Ðề tài tình yêu trong kịch bản tạp kịch chứa đựng tiếng nói đấu tranh đòi quyền tự do yêu
đương (tiêu biểu nhất là Tây Sương Kí của Vương Thực Phủ).
Ðề tài công án thường xuất hiện vai trò của Bao Công, đề cao công lí, ca ngợi
chính nghĩa (tiêu biểu là vở Ðậu Nga oan, Hồ điệp mộng của Quan Hán Khanh).
Ðề tài lịch sử gợi lại những sự kiện lịch sử, kích thích tinh thần đấu tranh của
quần chúng (tiêu biểu là kịch bản Ðơn đao hội của Quan Hán Khanh).
Trong kịch bản của tạp kịch, tiếng nói đấu tranh đòi quyền sống, đòi tự do được thể hiện

rất sâu kín. Tuy vậy, tư tưởng chủ đề ở nhiều kịch bản tạp kịch lại được thể hiện khá rõ. Hầu hết
các kịch bản tạp kịch đều tập trung ca ngợi chính nghĩa, phản đối phi nghĩa, lên án bất công,
cường bạo.
Về hình thức nghệ thuật, nhiều kịch bản tạp kịch đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Ngôn ngữ trong kịch bản tạp kịch gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Lời trong kịch bản
tạp kịch được lấy từ trong tản khúc.
Nhiều tác gia tạp kịch đã kết hợp yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn khi tạo dựng chi
tiết và xây dựng nhân vật. Một số tác gia khi xây dựng nhân vật trong kịch bản tạp kịch đã khắc
họa được chiều sâu nội tâm của nhân vật. Kết cấu của kịch bản tạp kịch là kết cấu theo trình tự
thời gian. Kết thúc một kịch bản tạp kịch thường là kết thúc có hậu- chính nghĩa thắng gian tà.
Nội dung cũng như hình thức nghệ thuật kịch bản tạp kịch rất giàu tính nhân dân.
QUAN HÁN KHANH (1220?-1300?)
VỚI KỊCH BẢN TẠP KỊCH ÐẬU NGA OAN
TOP
I. MẤY NÉT VỀ QUAN HÁN KHANH TOP
Quan Hán Khanh còn có hiệu là Dĩ Trai (Nhất Trai) là kịch tác gia lớn nhất của thời
Mông Nguyên. Ông là người đặt nền tảng cho tạp kịch thời Nguyên và thực sự đã đem lại niềm
vinh quang cho tạp kịch Trung Quốc cũng như văn chương Trung Quốc thời này. Trịnh Chấn
Ðạc- một nhà văn hiện đại Trung Quốc- khi nói về Quan Hán Khanh đã cho rằng: Có thể nói:
thời hoàng kim của tạp kịch Nguyên, nếu không có Quan Hán Khanh, cũng khó mà có được cái
vẻ xán lạn như ta đã thấy trên lịch sử văn chương Trung Quốc. Ông người ở Ðại Ðô (Bắc Kinh).
Ông sinh vào khoảng 1220 và mất vào khoảng 1300. Ông sáng tác nhiều kịch bản tạp kịch. Số
kịch bản tạp kịch Quan Hán Khanh viết có 66 tác phẩm, hiện nay còn lại 18 tác phẩm. Trong số
còn lại có những vở tạp kịch nổi tiếng: Ðậu Nga oan, Vọng giang đình, Bái nguyệt đình, Ðơn
đao hội, Hồ điệp mộng. Thời nhà Kim, ông đã từng làm y quan trong thái y viện. Sau khi nhà
Kim đổ (1234) ông rời bỏ Ðại Ðô và đi xuống Hàng Châu ở phương Nam. Lúc này ông đã già.
Ông vừa sáng tác vừa biểu diễn tạp kịch như là các diễn viên. Ði đây đi đó nhiều, nên ông có vốn
sống phong phú để viết tạp kịch. Ông không chỉ là tác gia tạp kịch số một mà ông còn sáng tác
nhiều tản khúc nữa.
Mặc dù Quan Hán Khanh là một tác gia tạp kịch lớn nhưng tên tuổi và văn nghiệp của

ông vào thời ấy chưa được đánh giá cao. Các nhà nghiên cứu văn chương của Trung Quốc đã
dựa vào Lục quỷ ba của Thiên Nhất Các và nội dung của tác phẩm mà ông đã để lại để tìm hiểu
về ông. Trong bài tản khúc Bất phục lão, Quan Hán Khanh đã bộc lộ tình cảm cũng như bản lĩnh
và tính cách của ông. Ðây là bài tản khúc mang tính tự thuật. Quan Hán Khanh đã xem mình là
người ở chốn ca lâu tửu quán nhưng không hề ham thích tửu sắc tục tằn. Ông bày tỏ niềm vui
sướng của ông là ngắm trăng, làm thơ, ca hát, hướng vào cái đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ tinh
tế và khoáng đạt. Ông nguyện đem sức mình và tài năng của mình để phục vụ cho các diễn viên.
Ông đã tự ví mình như một chú gà rừng lão luyện, tinh thông, luôn phát hiện ra dấu chân của
người đi săn và không bao giờ bị sa vào cạm bẫy. Có lúc ông tự ví mình như là hạt đậu đúc bằng
đồng không sợ nghiền, nấu, hầm, xào. Bằng những hình tượng này, Quan Hán Khanh đã thể
hiện một bản lĩnh kiên cường, rắn rỏi, không chấp nhận mọi sự luồn cúi, xu nịnh. Trong nhiều vở
tạp kịch, Quan Hán Khanh đã làm bật nổi hình tượng nhân vật phụ nữ mang vẻ đẹp của người
phụ nữ Trung Quốc.
*Ở kịch bản Hồ điệp mộng, nhân vật chính là bà Vương - mẹ của Vương Ðại, Vương Nhi
và Vương Tam. Vương Ðại, Vương Nhi là con riêng của ông Vương, còn Vương Tam mới là
con ruột của bà. Ông Vương vô cớ bị Cát Bưu giết chết làm cho ba con tức giận lập mưu giết
chết Cát Bưu. Ba con phải ra tòa và bị Bao Công xử án bắt buộc một trong ba người phải có một
người chịu án tử hình. Vương Ðại, Vương Nhi và Vương Tam đều tự nhận cái chết về mình.
Trước tình hình đó, Bao Công đã giao cho bà Vương quyết định. Cuối cùng bà Vương quyết
định là Vương Tam phải chết thay cho hai anh. Bao Công xúc động trước tấm lòng của bà
Vương nên đã hòan tòan tha bổng Vương Tam.
* Ở kịch bản Vọng giang đình; nhân vật chính là Ðàm Kí Nhi-một phụ nữ có nhan sắc,
can đảm và nhiều mưu trí.Tên quan hung bạo Dương Nha Nội không chiếm được nàng Ðàm Kí
Nhi, bèn lập kế hãm hại người chồng mới cưới của nàng. Tính mạng của chồng và hạnh phúc của
nàng bị đe dọa nghiêm trọng. Ðàm Kí Nhi cải trang làm người bán cá tìm cách đánh tráo được
ngay bên mình của Dương Nha Nội tấm thẻ vàng và thanh gươm mà vua ban cho nó để làm tội
chồng nàng. Nhờ đó, nàng cứu được chồng và kẻ gian bị vạch mặt.
II. KỊCH BẢN TẠP KỊCH ÐẬU NGA OAN, (còn có tên là TUYẾT GIỮA NGÀY
HÈ hay CẢM THIÊN ÐỘNG ÐỊA ÐẬU NGA OAN)
TOP

1. Nguồn gốc cốt kịch: Quan Hán Khanh dựa vào tích truyện đã có trong cuốn Liệt nữ
truyện của Lưu Hướng đời Tây Hán thế kỉ I trước Công Nguyên.
2. Cốt kịch: ở Sở Châu có người đàn bà tên là Ðoan Vân. Ðoan Vân mồ côi mẹ từ nhỏ,
sống với bố là Ðậu Thiên Chương. Ðậu Thiên Chương-một ông đồ nghèo phải vay bạc của bà
Thái. Ðến lúc đi thi, Ðậu Thiên Chương vẫn chưa có bạc trả, nên gán con gái của mình cho bà
Thái. Sau đó, Ðoan Vân tới ở nhà bà Thái. Lớn lên, nàng chính thức làm dâu bà Thái. Nàng lấy
chồng được hai năm thì chồng chết. Nàng ở vậy thờ chồng và nuôi mẹ chồng. Bà Thái sống bằng
nghề cho vay nợ lãi. Thầy lang Trại Lô vay bạc của bà, nhưng ông ta không có tiền để trả. Nên
khi bà Thái tới đòi, thầy lang đã dụ bà ra đồng vắng rồi treo cổ bà lên. Nhân lúc ấy, cha con
Trương Lư đi qua, nên bà được cứu thoát. Cảm động trước công ơn của bố con Trương Lư, bà
Thái đã kể rõ sự tình. Nghe bà Thái kể, Trương Lư đã nói với bố hắn rằng: hắn thì lấy con dâu bà
Thái còn bố hắn thì lấy bà Thái làm vợ. Lúc đầu bà Thái không chấp nhận. Nhưng sau đó, trước
sự dọa dẫm của Trương Lư, bà Thái đã phải ưng thuận. Khi về tới nhà, bà Thái đã khuyên Ðậu
Nga lấy Trương Lư. Nhưng Ðậu Nga một mực cự tuyệt. Trương Lư tìm mọi cách để ép buộc
Ðậu Nga lấy hắn.Trước sự cứng rắn và kiên định của Ðậu Nga, Trương Lư đã lập mưu đánh
thuốc độc để giết bà Thái nhằm đẩy Ðậu Nga vào thế cô độc cho dễ bề ép buộc và mặt khác để
chiếm toàn bộ gia sản của bà Thái. Mưu thâm của Trương Lư không thành. Bố của hắn đã trúng
thuốc độc mà chết. Trương Lư đã dùng cái chết của bố hắn để làm áp lực đối với Ðậu Nga. Ðậu
Nga vẫn một mực từ chối. Sau đó, Ðậu Nga và Trương Lư phải lên hầu kiện. Viên quan huyện
Ðào Ngột đã lôi Ðậu Nga ra đánh, khiến nàng chết đi sống lại nhiều lần, song nàng vẫn không
nhận cái điều mà nàng không hề làm là đánh thuốc độc bố Trương Lư. Bất lực trước sự kiên định
của Ðậu Nga, quan huyện Ðào Ngột đã cho bắt bà Thái tới và đánh đập bà. Khi chứng klến cảnh
mẹ chồng bị đánh đập, hành hạ, Ðậu Nga không thể chịu được. Nàng nghĩ thà mình bị hãm hại,
chứ không thể chấp nhận để cho người mẹ chồng bị hành hạ. Vì thế, nàng đã nhận cái điều mà
nàng không làm. Như vậy là nàng đã nhận bản án tử hình về mình để cho người mẹ chồng được
thoát khỏi sự đau đớn. Trước khi ra pháp trường, nàng đã xin bọn lính giải nàng đi theo một nẻo
đường khác mà không qua cửa nhà nàng bởi nàng sợ nếu mẹ chồng nàng trông thấy cảnh ấy thì
bà sẽ rất đau khổ. Ðậu Nga đã giành trọn tình cảm của mình cho người mẹ chồng, trước khi nàng
bị chết. Khi tới pháp trường, nàng đã xin giám trảm quan trải lên vạt đất chỗ nàng đứng một
chiếc chiếu sạch và nàng đã đưa ra ba điều ước nguyện:

Một là: Nếu nàng chết oan, máu của nàng sẽ không chảy xuống đất mà bắn lên
nhuộm đỏ giải lụa trắng treo trên cái cột cờ cạnh đấy.
Hai là: Nếu nàng chết oan thì tuyết sẽ rơi xuống phủ kín thi thể nàng (mặc dù
đang giữa tiết tháng sáu).
Ba là: Nếu nàng chết oan thì vùng Sở Châu phải chịu hạn hán ba năm liền.
Nàng đã được như nguyện. Vì Sở Châu bị hạn hán ba năm liền, nên triều đình biết có vụ
án xử oan. Triều đình đã phái Ðậu Thiên Chương về Sở Châu để truy xét lại các vụ án. Lúc này
Ðậu Thiên Chương đã làm quan đề hình. Một hôm đang xem lại các hồ sơ của những vụ án đã
xử, Ðậu Thiên Chương xem tới hồ sơ của Ðậu Nga, ông ta đã ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ thiêm
thiếp của Ðậu Thiên Chương, hồn ma của Ðậu Nga đã hiện về kêu khóc. Cuối cùng, nỗi oan của
Ðậu Nga đã được giải tỏa. Vở kịch kết thúc có hậu.
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của kịch bản Ðậu Nga oan:
_ Ðề tài công án
_ Chủ đề: quyền sống của người phụ nữ Trung Quốc bị vùi dập, chà đạp dưới chế
độ Mông Nguyên.
_ Tư tưởng chủ đề: tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Trung
Quốc đồng thời tố cáo sự tàn bạo của chế độ xã hội thời Mông Nguyên.
Ðậu Nga oan: là bản cáo trạng đanh thép đối với bản chất tham lam tàn bạo của
chế độ xã hội thời Mông Nguyên. Trong kịch bản tạp kịch này có bóng dáng của triều đình-cơ
quan trung ương tập trung quyền lực cao nhất của chế độ xã hội Mông Nguyên. Vụ án Ðậu Nga
là vụ án lớn đến mức cảm thiên động địa nhưng triều đình hoàn toàn không hay biết gì. Mãi đến
khi Ðậu Nga bị xử oan, vùng Sở Châu bị hạn hán ba năm liền thì triều đình mới nghi ở vùng Sở
Châu có vụ án xử oan. Ðiều này chứng tỏ triều đình rất quan liêu. Do vậy, quan lại ở các địa
phương tha hồ tung hoành, sát phạt, làm mưa làm gió.
Nhân vật Ðào Ngột trong kịch bản tạp kịch tiêu biểu cho bọn quan lại địa phương. Ðào
Ngột làm quan huyện vùng Sở Châu. Ngay từ phút đầu tiên xuất hiện trong kịch bản và trên sân
khấu, nhân vật này đã tự bộc lộ bản chất của hắn. Ðào Ngột đã nói: Ta làm quan hơn người khác,
đến kiện cáo phải mang vàng bạc đến ta mới xử cho, không thì ta cáo bệnh không ra công đường.
Ðào Ngột là quan huyện trực tiếp xử nhiều vụ án. Công việc xử án đòi hỏi người xét xử phải có
đầy đủ ba yếu tố: một là phải có lương tâm, hai là phải dựa vào công lí, ba là phải dựa vào pháp

luật. Ngôn ngữ của nhân vật Ðào Ngột chứng tỏ Ðào Ngột hoàn toàn không có được ba điều kiện
cần và đủ của người đứng ra xét xử một vụ án. Ðộng lực xử án của nhân vật Ðào Ngột không
còn là lương tâm, là công lí, pháp luật mà đối với hắn chỉ là bạc vàng. Ngôn ngữ tự giới thiệu
của Ðào Ngột cũng đã phản ánh một phần bản chất tham lam và bạo ngược của giai cấp thống trị
thời ấy. Ðó là một thời đại, nén bạc đâm toạc tờ giấy, vàng bạc đã chà đạp lên tất cả, làm khuynh
đảo mọi giá trị. Khi Trương Lư và Ðậu Nga vào hầu kiện, Ðào Ngột đã quỳ xuống lạy hai người
trong sự ngạc nhiên của hai tên lính hầu: Bẩm quan lớn, bọn chúng nó là những kẻ đến hầu kiện
sao quan lớn lại quỳ lạy chúng nó. Không một chút ngần ngại, Ðào Ngột đã trả lời ngay: Mày
không biết những kẻ đến kiện cáo là những kẻ đem cơm áo lại cho ta. Ðộng lực xử kiện của Ðào
Ngột là vàng bạc, vật chất. Nhân vật này hoàn toàn không đếm xỉa đến công lí, đến nhân phẩm.
Nhân vật Ðào Ngột có ý nghĩa khái quát cao bởi mang được bản chất chung của giai cấp thống
trị thời này.
Nhân vật Ðào Ngột còn là một tên quan tàn bạo. Khi Ðậu Nga tới, Ðào Ngột không cần
xét hỏi mà đang tay đánh đập, vùi dập nàng đến mức khiến cho nàng chết đi sống lại.
Ðó là bản chất của giai cấp thống trị từ trên xuống dưới trong xã hội thời Mông Nguyên
thượng bất chính, hạ tác loạn. Triều đình và quan lại như thế thì những kẻ xấu trong dân dễ có
điều kiện để hoành hành. Các nhân vật thầy lang Trại Lô và bố con Trương Lư đã thể hiện một
phần hạ tác loạn. Là một thầy thuốc, nhưng Trại Lô đã trở thành một tên lừa đảo. Trại Lô không
có bạc để trả nợ cho bà Thái ông ta đã lừa bà Thái ra quảng đồng vắng và toan dùng sợi dây
thừng để treo cổ bà lên. Hai nhân vật bố con Trương Lư là những kẻ vừa tham lam vừa tàn bạo
đến táng tận lương tâm. Bà Thái sắp bị thầy lang Trại Lô treo cổ nhằm lúc bố con Trương Lư đi
qua nên bà Thái được cứu một cách ngẫu nhiên. Việc bà Thái được cứu thoát hoàn toàn không
phải là công ơn của bố con Trương Lư. Khi nghe bà Thái kể rõ nguồn cơn Trương Lư đã nói về
bố hắn rằng: bố hắn lấy bà Thái còn hắn lấy Ðậu Nga làm vợ. Trước bản lĩnh rắn rỏi của Ðậu
Nga, Trương Lư vẫn không từ bỏ mọi thủ đoạn nhằm ép buộc Ðậu Nga lấy hắn. Hắn đã toan giết
chết bà Thái để thực hiện hai âm mưu: một là đẩy Ðậu Nga vào thế cô độc để dễ bề ép buộc, hai
là hắn cướp đoạt gia sản của bà Thái. Âm mưu của hắn không thành, hắn đã biến cái chết của bố
hắn làm áp lực đối với Ðậu Nga. Chính hắn đã vu oan giá họa cho Ðậu Nga. Hắn còn tỏ ra rất
ngoan cố chối tội khi Ðậu Thiên Chương hỏi tội hắn.
Với những nhân vật trên, Quan Hán Khanh đã lột trần chân tướng của xã hội thời Mông

Nguyên, phanh phui bản chất tham lam, tàn bạo của giai cấp thống trị. Nên giá trị hiện thực của
kịch bản rất cao.
_ Kịch bản Ðậu Nga Oan là khúc bi ca của tư tưởng nhân đạo: Nhân vật trung tâm của vở
kịch này là một người phụ nữ Trung Quốc. Ðó là nàng Ðậu Nga. Nhân vật Ðậu Nga là hiện thân
của lí tưởng đạo đức và lí tưởng thẩm mĩ của Quan Hán Khanh. Quan Hán Khanh đã tập trung
nhiều vẻ đẹp phẩm chất cho nhân vật này. Ðậu Nga sinh ra trong một gia đình nghèo năm lên
bảy tuổi nàng mồ côi mẹ và sau đấy phải đến ở nhà bà Thái để lớn lên làm con dâu cho nhà bà
theo tục đồng dưỡng tức. Lấy chồng được hai năm thì chồng chết. Ðậu Nga quyết không đi bước
nữa, mà đã ở vậy thờ chồng và nuôi mẹ chồng. Nhân vật Ðậu Nga là hiện thân của sự hiếu thảo
đến mức hiếm có. Ðậu Nga đã giành cả tình cảm của mình cho mẹ chồng. Chứng kiến thấy cảnh
bà Thái bị Ðào Ngột đánh đập, Ðậu Nga thà chịu chết chứ không chịu được cảnh người mẹ
chồng bị hành hạ. Nên nàng đã nhận việc mà nàng không làm. Ðậu Nga đã phải chịu án tử hình.
Ðây là biểu hiện tấm lòng vị tha cao cả của Ðậu Nga. Ðậu Nga giành cả tình cảm của mình cho
người mẹ chồng ngay khi sắp bị xử chém. Nên lúc bọn lính giải Ðậu Nga ra pháp trường, nàng
đã xin chúng giải đi đường khác mà không đi qua cửa nhà nàng. Bởi nàng sợ người mẹ chồng
trông thấy bà sẽ vô cùng đau xót. Ðậu Nga là một người con dâu nhưng tình cảm của nàng đối
với người mẹ chồng thì đã hoàn toàn vượt lên trên những tình cảm bình thường. Quan Hán
Khanh đã xây dựng nhân vật Ðậu Nga bằng phương thức lí tưởng hóa.
Ðậu Nga không chỉ là người con dâu hiếu thảo mà còn là người phụ nữ có bản lĩnh kiên
trinh. Mặc Trương Lư tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để ép buộc nàng lấy hắn, nàng vẫn khư
khư giữ trọn tấm lòng, ý chí của mình. Khi bà Thái chấp thuận lấy bố Trương Lư và khuyên Ðậu
Nga lấy Trương Lư thì nàng vẫn một mực từ chối dù nàng hết sức thương mẹ chồng và luôn
nghe theo lời mẹ chồng. Song nàng vẫn nhận rõ những giải pháp cần thiết để giữ vững bản lĩnh
vốn có của nàng. Ðào Ngột đã đánh đập nàng đến mức khiến cho nàng chết đị sống lại, nàng đã
không nhận cái việc nàng không làm. Phải chăng nhân vật này mang cốt cách của hình tượng hạt
đậu đúc bằng đồng không sợ nghiền, nấu, hầm, xào trong bài tản khúc Bất phục lão?.
Việc nàng nhận án chém không hềì trái với bản lĩnh của nàng. Ðây không phải là một sự
mềm yếu mà đó là giải pháp của tình thương - giải pháp của tấm lòng vị tha. Bản lĩnh của Ðậu
Nga còn thể hiện ở chỗ nàng chọn cho mình một cái chết thật đẹp. Trước khi chết Ðậu Nga đã
xin giám trảm quan trải lên vạt đất chỗ nàng đứng một chiếc chiếu sạch. Hình ảnh chiếc chiếu

sạch mang đầy đủ ý nghĩa tượng trưng cho sự tinh khiết, trong trắng như chính phẩm chất của
nàng. Trước khi bị chết, Ðậu Nga còn chửi trời, chửi đất, chửi những kẻ bạo ngược và nàng đã
đưa ra ba điều ước nguyện.
Ðã chết thì chết thế nào chẳng được, nhưng Ðậu Nga- người phụ nữ Trung Quốc này
không cam chịu chết trong im lặng mà cái chết của nàng tiếp tục thể hiện bản lĩnh và ý chí quật
cường của người phụ nữ kiên trinh. Ba chi tiết trong ba lời ước nguyện của nhân vật có sự kết
hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn, tạo nên nhiều tầng bậc ý nghĩa sâu xa. Ðặc biệt là
chi tiết ở lời ước nguyện một và hai ân chứa ý nghĩa tượng trưng và đậm đà phong vị lãng mạn.
Máu của Ðậu Nga cũng như mọi vật có trọng lượng khác đều phải rơi theo phương trọng lực.
Vậy mà ở đây máu của Ðậu Nga đã phun thẳng lên trời. Chi tiết này thể hiện trọng lực không thể
nào thắng được động lực của nỗi oan chất ngất, khí uất đầy trời. Những giọt máu của Ðậu Nga
phun lên như chính nỗi oan ức của Ðậu Nga bốc lên đến tận trời. Chi tiết trong lời ước nguyện
thứ hai của Ðậu Nga có ý nghĩa tượng trưng cho cả phẩm giá trong trắng của nàng. Thi hài của
nàng không phải được khâm liệm bằng quan tài mà bằng những lớp tuyết tinh khiết trong suốt,
mềm mại. Cái chết của nàng giống như cái chết của một thiên thần. Chi tiết trong lời ước nguyện
thứ ba không có ý nghĩa tượng trưng, phải chăng đã trái với lòng vị tha của Ðậu Nga?. Hoàn toàn
không phải như vậy mà chính là một cách để kêu oan cho thấu tới triều đình. Ðậu Nga chết rồi
nhưng hồn oan của Ðậu Nga đã hiện về trong giấc ngủ của Ðậu Thiên Chương để kêu oan. Ðây
cũng là một chi tiết thể hiện tinh thần bất khuất của nàng. Quan Hán Khanh đã sử dụng nhiều thủ
pháp nghệ thuật mà tiêu biểu nhất là kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn để đề cao
vẻ đẹp phẩm chất của Ðậu Nga, ca ngợi những người phụ nữ Trung Quốc mang tinh thần dân tộc
thật sự có bản lĩnh rắn rỏi, không chịu sống quỳ. Ðề cao vẻ đẹp về phẩm chất của nhân vật Ðậu
Nga, Quan Hán Khanh đã tạo nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm của mình. Không những thế mà
bằng nhiều chi tiết nghệ thuật, Quan Hán Khanh đã làm bật nổi được khát vọng tự do, khát vọng
công lí của những người dân Trung Quốc thời này. Ba chi tiết trong ba lời ước nguyện của nhân
vật Ðậu Nga và kết thúc có hậu đã làm cho kịch bản tạp kịch này trở thành giấc mơ công lí- khát
vọng giải phóng của nhân dân Trung Quốc. Khi tác phẩm thể hiện khát vọng chân chính của con
người như là nhu cầu trần tục của con người trần tục thì tác phẩm ấy sẽ có giá trị nhân đạo rất
cao, như cách luận giải của Vônghin: Chủ nghĩa nhân đạo là một quan điểm đạo đức và chính trị,
không phải xuất phát từ những nguyên tắc nào đấy ở cõi âm-hoang tưởng, ở bên ngoài đời sống

loài người mà xuất phát từ con người trần tục, tồn tại thực tế, với những nhu cầu và năng lực trần
tục, thực tế,đòi hỏi phải được phát triển và thỏa mãn càng rộng và càng đầy đủ càng tốt trong đời
sống trần tục. (Lược khảo lịch sử các tư tưởng xã hội chủ nghĩa, NXB Sự Thật 1979, trang 445).
VƯƠNG THỰC PHỦ
VỚI KỊCH BẢN TẠP KỊCH TÂY SƯƠNG KÍ
I.MẤY NÉT VỀ VƯƠNG THỰC PHỦ TOP
Vương Thực Phủ là tác gia tạp kịch lớn thứ hai ở thời Mông Nguyên. Ông quê ở Ðại Ðô
(Bắc Kinh) sinh sau Quan Hán Khanh ít lâu. Ông còn có tên là Dực Tín. Ông chỉ sáng tác trên 10
kịch bản tạp kịch mà kịch bản tạp kịch xuất sắc nhất của ông là Tây sương ký.
Trước đây có một giai đoạn giới nghiên cứu văn chương ở Trung Quốc không xem
Vương Thực Phủ là tác giả của kịch bản tạp kịch này. Có người cho 16 chương đầu là do Vương
Thực Phủ viết, còn 4 chương sau của kịch bản tạp kịch là do Quan Hán Khanh viết. Muốn xác
định được tác phẩm này do ai viết thì phải căn cứ vào phong cacïh nghệ thuật. Phong cách nghệ
thuật còn gọi là cá tính sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Theo Abơramôvic thì phong cách là: Sự
tổng hòa những đặc trưng nổi bật về nội dung và nghệ thuật thường xuyên xuất hiện trong một
loạt tác phẩm của một nhà văn nhất định. Trong báo cáo đọc tại Ðại hội lần ba của các nhà văn
Việt Nam khai mạc 26-9-1983, nhà văn Nguyễn Ðình Thi đã cho rằng: Phong cách là chất
tổng hợp tạo nên bản lĩnh của nhà văn. Phong cách là dấu ấn sáng tạo độc đáo của nhà văn, nhà
thơ trong từng tác phẩm. Nó là dấu hiệu khiến cho người ta nhận ra nét riêng biệt của cái tôi sáng
tạo của từng nhà văn nhà thơ.
Dựa vào phong cách nghệ thuật, sau này các nhà nghiên cứu văn chương của Trung Quốc
đã khẳng định kịch bản Tây sương ký là của Vương Thực Phủ.
II. KỊCH BẢN TẠP KỊCH TÂY SƯƠNG KÝ TOP
1. Nguồn gốc cốt kịch: cốt truyện đã có từ thời Ðường. Ở thời Ðường, Nguyên Chẩn tức
Nguyên Vi Chi đã có tác phẩm truyền kì Hội chân kí (còn gọi là Oanh Oanh truyện). Ðến thời
nhà Kim, Ðổng Giải Nguyên có kịch bản Tây sương kí chư cung điệu Vương Thực Phủ đã dựa
bào tác phẩm của Ðổng Giải Nguyên để sáng tác nên kịch bản tạp kịch Tây sương kí.
2. Cốt kịch:
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của kịch bản Tây sương kí: kịch bản Tây sương kí viết
về đề tài tình yêu. Vấn đề nổi bật trong kịch bản này là tình yêu và lễ giáo phong kiến. Tư tưởng

chủ đề của kịch bản tạp kịch: ca ngợi tình yêu và tố cáo lễ giáo phong kiến chà đạp lên tình yêu
đôi lứa.
a. Một tình yêu:
* Nhân vật Trương Quân Thụy vốn là một thư sinh. Trong buổi đầu của mối tình
Thôi-Trương, tình cảm của Trương Quân Thụy trong trắng và đẹp. Trương Quân Thụy là người
rất chủ động trong tình yêu, nhưng cái gì quá độ cũng sẽ biến thái. Ở những bước sau của mối
tình, Trương Quân Thụy đã yêu Thôi Oanh Oanh đắm đuối, dẫn đến mù quáng bị động. Tất cả
mọi suy nghĩ và việc làm của chàng nhất nhất đều theo tiếng gọi của tình yêu đôi lứa. Ðối với
Trương Quân Thụy chỉ có Thôi Oanh Oanh. Việc Trương Quân Thụy góp lễ vật để làm chay cho
Thôi Tướng Quốc hoàn toàn không phải là việc làm vì nghĩa mà vì thủ đoạn để có điều kiện gần
gũi Thôi Oanh Oanh. Mặc dù là một thư sinh lẻo khẻo nhưng Trương Quân Thụy đã dám nhận
cứu hai mẹ con Thôi Oanh Oanh. Ðộng lực khiến cho chàng nhận lời cứu hai mẹ con Thôi Oanh
Oanh cũng không phải vì nghĩa mà vì muốn chiếm được Thôi Oanh Oanh. Khi câu chuyện vỡ lỡ
Thôi phu nhân bắt Trương Quân Thụy về kinh dự thi, chàng đã khăn gói lóc cóc lên đường. Việc
làm này của Trương Quân Thụy cũng không phải là để thể hiện chí nam nhi muốn kinh bang tế
thế mà chẳng qua là để chiếm bằng được tình cảm của Thôi Oanh Oanh.
Nhân vật Trương Quân Thụy trong Tây sương kí của Vương Thực Phủ khác với nhân vật
trong Hội chân kí của Nguyên Chấn thời Ðường. Nếu như Trương Quân Thụy trong tác phẩm
truyền kỳ của Nguyên Chấn cuối cùng đã phụ bạc tình yêu của Thôi Oanh Oanh thì nhân vật
Trương Quân Thụy trong Tây sương ký của Vương Thực Phủ lại trọn vẹn chung tình với Thôi
Oanh Oanh.
* Nhân vật Thôi Oanh Oanh: Thôi Oanh Oanh vốn là một cô gái quyền quý.
Trong mối quan hệ với Trương Quân Thụy, nàng rất yêu Trương Quân Thụy. Nhưng nhân vật
này trong kịch bản tạp kịch hoàn toàn rơi vào thế bị động. Trước những khó khăn trắc trở, nhân
vật Thôi Oanh Oanh chỉ biết than khóc. Nếu không có sự giúp đỡ của nhân vật cô Hồng thì Thôi
Oanh Oanh không thể nào cùng với Trương Quân Thụy tới bến bờ của hạnh phúc đôi lứa. Nhân
vật Thôi Oanh Oanh là một thành tựu nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật của Vương Thực
Phủ. Nhân vật này thực sự có chiều sâu nội tâm. Vương Thực Phủ không khắc họa tâm lý nhân
vật Thôi Oanh Oanh bằng một đường thẳng đơn điệu mà tâm lí nhân vật này thực sự có uẩn
khúc, quanh co. Khi đọc lá thư của Trương Quân Thụy do cô Hồng mang về: đáng lẻ ra Thôi

Oanh Oanh thấy được lời như cởi tấm lòng và phải biết ơn người chuyển thư là cô Hồng. Nhưng
ngược lại Thôi Oanh Oanh đã nghiêm sắc mặt trách mắng cô Hồng và bảo cô Hồng từ nay về sau
không được mang những lá thư như thế về nữa. Biểu hiện này khiến cho cô Hồng khó hiểu đối
với Thôi Oanh Oanh. Thôi Oanh Oanh gửi thư cho Trương Quân Thụy hẹn chàng đếm ấy sẽ
sang và Trương Quân Thụy đã vượt tường sang. Nhưng khi thấy Trương Quân Thụy xuất hiện
giữa phòng mình bên cạnh cô Hồng thì Thôi Oanh Oanh lại nghiêm sắc mặt trách mắng Trương
Quân Thụy khiến cho chàng Trương tiến thoái lưỡng nan. Khi cô Hồng bảo với Thôi Oanh Oanh
là cô sẽ đi báo cho bà lớn biết thì Thôi Oanh Oanh đã ngăn cô Hồng lại. Ðây là những biểu hiện
tâm lí khá đa dạng của nhân vật Thôi Oanh Oanh mà Vương Thực Phủ đã khắc họa. Tình yêu
của Thôi Oanh Oanh chỉ là tình yêu vị kỉ.
* Nhân vật cô Hồng: nhân vật cô Hồng không phải là nhân vật trung tâm của kịch bản,
nhưng lại mang lí tưởng thẩm mỹ của Vương Thực Phủ. Nhân vật này vốn là thị tỳ - đầy tớ gái
của Thôi Oanh Oanh. Vương Thực Phủ đã tập trung nhiều vẻ đẹp của phẩm chất nhân dân cho
nhân vật này. Nhân vật cô Hồng trong kịch bản là người chứng kiến là một vị cố vấn, là người
dẫn lối đưa đường cho tình yêu của đôi lứa Thôi-Trương. Mặc dù đây là tình yêu của đôi lứa
Thôi-Trương mà cô Hồng chỉ là người đầy tớ gái, nhưng chính cô Hồng đã trở thành chỗ dựa,
điểm tựa tinh thần khá vững chắc cho tình yêu đôi lứa Thôi -Trương. Nhân vật cô Hồng đã tạo
điều kiện để giúp cho Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy thành đôi, thành lứa. Nhân vật cô
Hồng là người đã bày cho Trương Quân Thụy ngâm thơ đánh đàn để tỏ tình với Thôi Oanh
Oanh. Những lần Thôi Oanh Oanh gặp trắc trở, cô Hồng lại đến để an ủi, động viên Thôi Oanh
Oanh tin tưởng ở tình yêu. Trong quá trình giúp đỡ cho đôi lứa Thôi-Trương, cô Hồng cũng gặp
nhiều khó khăn, trắc trở. Những khó khăn này trước hết là do Thôi Oanh Oanh và Trương Quân
Thụy gây ra. Mặc dù được cô Hồng tận tình giúp đỡ, nhưng Thôi Oanh Oanh đã nhiều lần hù dọa
cô Hồng rằng nàng sẽ mách với bà lớn đánh cô Hồng mất mông.Trương Quân Thụy lại không
thể hiểu được tình cảm cao đẹp của cô Hồng nên có lần chàng đã ngỏ ý trả công cho cô Hồng
bằng vàng bạc. Với tấm lòng vị tha cao cả, cô Hồng đã vượt lên trên mọi khó khăn trắc trở để
giúp đỡ cho đôi lứa Thôi-Trương. Nhân vật cô Hồng không ngần ngại, không từ nan bất kì một
việc gì miễn là công việc ấy thiết thực giúp đỡ cho Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Mặc
cho Thôi Oanh Oanh trách mắng hay hù dọa, nhân vật cô Hồng đã bỏ qua tất cả để giúp đỡ cho
họ mà không hề để bụng, không hề tự ái. Nhân vật này có lòng vị tha rất lớn, không những thế

nhân vật này còn là một phụ nữ thông minh: khi thấy sự thay đổi thái độ của Thôi Oanh Oanh
đối với Trương Quân Thụy đặc biệt là lúc Thôi Oanh Oanh trách mắng Trương Quân Thụy vì
chàng đã vượt tường sang theo lời hẹn của Thôi Oanh Oanh thì nhân vật cô Hồng đã báo cho
Thôi Oanh Oanh là cô đi mách với bà lớn. Nhân vật cô Hồng nói với Thôi Oanh Oanh như vậy là
để thử phản ứng tâm lí của nhân vật Thôi Oanh Oanh. Bằng việc này, cô Hồng đã nhận ra chân
tướng Thôi Oanh Oanh. Sau thời gian Thôi Oanh Oanh bí mật đi lại với Trương Quân Thụy, câu
chuyện bị vỡ lỡ. Nhân vật Thôi phu nhân đã cho gọi cô Hồng tới và chửi mắng cô. Ban đầu cô
Hồng im lặng, tiếp đến cô Hồng từ tốn kể rõ ngọn ngành về mối tình của đôi lứa Thôi-Trương,
rồi cô lên giọng tố cáo Thôi phu nhân đã ngăn trở tình yêu của hai người. Cô Hồng lại hạ giọng
khuyên bà lớn hãy vì việc lớn mà bỏ việc nhỏ để tác thành cho đôi lứa Thôi-Trương. Nhân vật cô
Hồng đã chuyển từ thể bị động sang thể chủ động, từ vị trí của một bị cáo sang vị trí của một
quan tòa. Ðiều này chứng tỏ nhân vật cô Hồng rất thông minh. Nhân vật cô Hồng với Trương
Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh đều luôn hành động theo tiếng gọi của trái tim, nhưng trái tim
của Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh là trái tim vị kỉ chỉ biết tình yêu của hai người, còn
trái tim của cô Hồng là trái tim vị tha cao cả.
b. Một trở lực:
Nhân vật Thôi phu nhân: là một phụ nữ quyền quý, nhân vật này là mẹ của nhân
vật Thôi Oanh Oanh. Là một người mẹ nhưng Thôi phu nhân không hành động theo tiếng gọi
của trái tim người mẹ, mà bà nhất nhất làm theo lễ giáo phong kiến. Nhân vật này xuất hiện
trong kịch bản tạp kịch không nhiều nhưng nhân vật này là một bóng đen là hiện thân của lễ giáo
phong kiến, hiện thân của trở lực ngăn cản tình yêu của đôi lứa Thôi-Trương. Nhân vật Thôi phu
nhân chỉ biết sống với lễ giáo phong kiến nên bà cũng trở thành một kẻ lật lọng, tráo trở, nuốt
lời. Nhân vật Thôi phu nhânhoàn toàn tương phản với ba nhân vật trên. Nếu như Thôi Oanh
Oanh và Trương Quân Thụy chỉ biết sống với tình yêu vị kỷ, nhân vật cô Hồng luôn sống với
tình yêu vị tha thì nhân vậtThôi phu nhân chỉ biết sống với lễ giáo phong kiến.
Thành công lớn nhất của Vương Thực Phủ trong việc xây dựng nhân vật là đã khắc họa
được chiều sâu tâm ly nhân vật trong thế tương phản. Tuy các nhân vật chưa đạt đến mức có
phép biện chứng tâm hồn và chưa có tính cách điển hình nhưng các nhân vật này cũng đã có
được những nét cá tính xác lập.
CHƯƠNG 2 : VĂN CHƯƠNG THỜI MINH - THANH

Giai đoạn văn chương này trải dài trên hai triều đại. Ðó là triều đại nhà Ngô nước Minh (Hán
tộc) và triều đại nhà Thanh (Ngoại tộc). Tuy là hai triều đại khác nhau, nhưng bản chất của
chúng lại có nhiều nét giống nhau.
Giai đoạn văn chương này bắt đầu tính từ 1368 đến1840 là năm nổ ra cuộc chiến tranh
Nha phiến ở Trung Quốc và cũng là năm mà yếu tố tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập sâu vào xã hội
Trung Quốc.
Ðây là giai đoạn mà yếu tố tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh nhất chưa từng có trước đó
trong lịch sử Trung Quốc.
*Về văn chương:
_ Ðây là giai đoạn phát triển cuối cùng của văn chương cổ điển Trung Quốc, có
nhiều yếu tố mới nảy nở, tạo điều kiện cho văn chương thời cận-hiện đại sau này phát triển.
_ Giai đoạn văn chương thời Minh-Thanh có sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết
cổ điển.
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI TOP
Sau thời gian ngót 100 năm liên tục đấu tranh, nhân dân Trung Quốc đã dành được độc
lập bằng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Chu Nguyên Chương lãnh đạo vào năm 1368. Chu
Nguyên Chương đã thiết lập triều đại nhà Ngô và đặt tên nước là nước Minh, tồn tại từ năm 1368
đến năm 1644. Ðây là triều đại đế vương chuyên chế cuối cùng của người Hán. Trong lịch sử
Trung Quốc, Chu Nguyên Chương là vị anh hùng thứ hai xuất thân từ nông dân sau Lưu Bang
(Hán Cao Tổ). Vì vậy buổi đầu của triều Ngô nước Minh, Chu Nguyên Chương đã ban bố một số
sách tiến bộ, kích thích sự phát triển sản xuất nông nghiệp.
Lúc này nhân dân Trung Quốc muốn có một chính quyền trung ương mạnh để thúc đẩy
sự phát triển của sức sản xuất. Nhưng triều đình nhà Ngô nước Minh lại nhanh chóng đi vào con
đường chuyên chế cực đoan, nên nhiều phong trào khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra và lật đổ
triều đại nhà Ngô nước Minh vào năm 1644.
Giai cấp địa chủ nhà Minh đã đầu hàng và đón tiếp quân xâm lược Mãn Thanh. Người
Mãn Thanh ở vùng Ðông Bắc Trung Quốc. Khi họ vào xâm lược Trung Quốc thì dân tộc họ còn
nằm trong tình trạng lạc hậu. Từ đây trong xã hội Trung Quốc có hai mâu thuẫn :đó là mâu thuẫn
dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, nổi bật là mâu thuẫn dân tộc. Nhà Thanh khi vào xâm lược Trung
Quốc đã giữ nguyên những thể chế cũ của nhà Minh. Vì vậy tính chất xã hội không có gì thay

đổi lớn. Tuy là hai triều đại khác nhau nhưng về cơ bản tính chất của nó rất giống nhau.
1. Kinh tế:
a. Nông nghiệp: Nông nghiệp thời Minh có phần phát triển hơn so với
thời Nguyên, đặc biệt là ở buổi đầu của nó. Chu Nguyên Chương đã ban bố một số chủ trương
tiến bộ như quân cấp ruộng đất và phát triển thủy lợi.
Tuy nhiên, đó chỉ là sự phát triển của nông nghiệp đầu đời Minh. Còn ở các thời điểm sau
đó thì nông nghiệp Trung Quốc lại có phần sa sút. Sở dĩ có sự sa sút ấy là bởi yếu tố tư bản
thương nghiệp xâm nhập sâu vào nông thôn, khiến cho nông dân Trung Quốc lâm vào tình
trạng phá sản. Người nông dân phải bỏ ruộng đất để đi tha phương cầu thực. Mặt khác, ruộng đất
của nông dân bị địa chủ người Hán chiếm đoạt. Vì vậy, một số nông dân bị biến thành nông nô
hoặc công nô.
b. Công-Thương nghiệp: Công-thương nghiệp giai đạo này phát triển mạnh hơn
nhiều so với thời Nguyên.Yếu tố tư bản chủ nghĩa không chỉ phát sinh trong lòng xã hội Trung
Quốc mà còn từ các nước Tây Âu xâm nhập vào. Nhiều ngành thủ công nghiệp ở các đô thị lớn
phát triển mạnh như vùng Ðại Ðô (Bắc Kinh). Vì vậy tầng lớp thị dân phát triển mạnh. Ở Trung
Quốc thời này đã xuất hiện nhiều xưởng luyện sắt, làm thủy tinh, làm đồ sứ, nghề dệt tơ lụa, len
dạ, gấm vóc, kỹ nghệ in ấn rất phát triển.
Thương nghiệp Trung Quốc thời này phát triển mạnh. Trung Quốc đã có một đội thương
thuyền lớn, đi lại buôn bán với nhiều nước ở vùng Ðông Nam Châu Á và Châu Phi.Từ 1405 đến
1430, đội thương thuyền này đã đi lại buôn bán với các ở những khu vực nói trên đến bảy lần.
Thời này chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển mạnh rất cần thị trường nên họ đã bắt
đầu dòm ngó Trung Quốc. Bồ Ðào Nha là nước đầu tiên đến Trung Quốc. Kế đó là Tây Ban
Nha, Hà Lan , Anh.
2. Chính trị: Triều đại nhà Minh là triều đại Hán tộc. Ðây là thời kì Trung Quốc giành
được độc lập. Buổi đầu của triều đại nhà Ngô, nước Minh rất phát triển. Nhưng sau đó, Chu
Nguyên Chương đã đi vào con đường chuyên chế cực đoan, thâu tóm toàn bộ quyền lực vào tay
mình. Chu nguyên Chương đã thực hiện chính sách thanh trừng những người không thuộc phe
phái của ông, đồng thời chỉ tin dùng những người trong gia tộc. Vì vậy, mâu thuẫn xã hội ngày
càng trở nên gay gắt nhất là mâu thuẫn giai cấp. Cuối đời Ngô, bọn quan lại lao vào ăn chơi
hưởng lạc, đẩy nhân dân vào tình trạng cùng cực, khốn đốn. Nhiều phong trào khởi nghĩa nông

dân nổ ra ngay từ thời Minh Thành Tổ (1403-1424). Từ 1630-1644 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của
Trương Hiến Trung và Lí Tự Thành, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của triều đại nhà Ngô nước
Minh.
Triều đại nhà Thanh là triều đại ngoại tộc. Người Mãn Thanh lúc này đang sống trong
tình trạng lạc hậu. Nhà Thanh đã duy trì những thể chế cũ của nhà Minh và thực hiện những
chính sách thống trị hà khắc. Thời nhà Thanh, xã hội Trung Quốc có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, đặc biệt nổi lên là mâu thuẫn dân tộc. Nhà Thanh đề ra
khẩu hiệu Mãn -Hán nhất thể (Mãn- Hán là một) để điều hòa mâu thuẫn dân tộc. Nhưng nhiều
phong trào yêu nước đã nổ ra như phong trào Thiên địa hội, Thái Bình thiên quốc. Ðến năm
1911, cách mạng Tân Hợi bùng nổ đã lật đổ hoàn toàn triều đại nhà Thanh.
3. Văn hóa:
Nhà Minh cũng như nhà Thanh đều đề cao lí học (học thuyết về lí của Trình Hạo
và Chu Hy). Ðây là học thuyết có khi là duy tâm chủ quan (lí là tâm) và có khi là duy tâm khách
quan (lí là thiên).Lý học thời Tống là sự biến thái của nho giáo, nên còn được là Tống nho. Nhà
Ngô nước Minh và nhà Thanh đề cao lí học để bảo vệ trật tự xã hội phong kiến của hai triều đại
này.
Trong khi giai cấp thống trị cố đề cao lí học nhằm bảo vệ trật tự và quyền lợi của
họ thì cũng có một số nhà tư tưởng chống lại. Những người có tư tưởng mới chống lại lí học đó
là Vương Dương Minh, Vương Phu Chi, Hoàng Tông Hi, Cố Viêm Võ.
Cả hai triều đại đều đề cao lối văn bát cổ (8 vế): phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập
thủ, tiền cổ, trung cổ, hậu cổ, thái cổ. Lối văn này sử dụng khá phổ biến trong các kì thi. Trong
các kì thi, thí sinh chỉ được dựa vào tứ thư ngũ kinh không được mang chất liệu từ cuộc sống
thực trong hiện tại vào bài làm.
Thời Minh- Thanh có đề ra chủ trương soạn sách. Từ đó đã tập hợp được những trí thức
trong xã hội. Một số công trình văn hóa cũng đã được khởi thảo và hoàn thiện, đáng kể là những
bộ từ điển như bộ Vĩnh Lạc đại điển gồm 22877 do 2000 trí thức soạn nên. Bộ Tứ khố toàn thư
gồm 79339 cuốn được xem là quyển từ điển bách khoa toàn thư và bộ Khang Hi tự điển.
Thời này thường xảy ra hiện tượng ngục văn tự,ï biểu hiện cụ thể của chính sách văn hóa
hà khắc của hai triều đại. Nó nghiêm cấm những nhà thơ, nhà văn sáng tác trái ý của triều đình.
Các nhà văn, nhà thơ sáng tác trái ý thì bị phạt rất nặng, có người còn bị chém đầu, những người

lưu giữ những tác phẩm ấy đều bị liên lụy, những nhà văn, nhà thơ chết rồi thì mồ mả của họ
cũng bị quật lên.
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VĂN CHƯƠNG TOP
1. Dòng văn chương chính thống:
Ở dòng này, có sự phát triển của thơ và cũng ở đây đã diễn ra những đụng độ
giữa phái cũ và phái mới. Trong những người thuộc phái mới, phải kể đến Cố Viêm Võ và Khuất
Ðại Quân. Thể truyền kì cũng phát triển. Truyền kì đời Ðường là tiểu thuyết, còn truyền kì thời
này là kịch bản sân khấu. Thời kì này còn gọi truyền kì là hí khúc-một loại hình sân khấu có
bước phát triển cao. Hí khúc thời Minh-Thanh bắt nguồn từ Nam hí (kí khúc phương Nam).
Trong thể loại truyền kì có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới và nó còn để lại nhiều tác phẩm
có giá trị:
_ Ðào Hoa Phiến (Quạt hoa đào)-Khổng Thượng Nhiệm.
_ Trường Sinh Ðiện (Ðiện Trường Sinh) của Hồng Thăng.
_ Mẫu Ðơn Ðình (Ðình Mẫu Ðơn) của Thang Hiển Tổ.
2. Dòng văn chương mang tư tưởng tiến bộ của nhân dân:
a. Văn chương dân gian phát triển mạnh, đặc biệt là thơ ca. Các nhà nghiên cứu
văn chương của Trung Quốc cho rằng thơ ca dân gian thời này phát triển đến mức bồng bột nhất.
Thơ ca dân gian thời này là những khúc hát sôi nổi của tình yêu, là tiếng thét căm thù đối với
những bất công trong xã hội, là những bài ca ca ngợi anh hùng. Thơ ca dân gian đã chứa đựng
được khát vọng vươn tới một chân trời mới chưa từng có mà không còn bị bó hẹp ở một khoảng
trời, một làng quê nào đó.
Thời kì này có sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết cổ điển. Tiểu thuyết phát triển đến mức
thành thục. Cho tới giai đoạn này, tiểu thuyết Trung Quốc đã có lịch sử trên 1000 năm phát triển.
Thời Tấn (thế kỉ III-IV) Trung Quốc đã xuất hiện loại tiểu thuyết chí quái, đến thời Nam Bắc
Triều xuất hiện loại tiểu thuyết dật sử. Tiểu thuyết thời Minh bắt nguồn từ thoại bản thời Tống.
Trong giai đoạn này đã ra đời nhiều loại bộ tiểu thuyết có giá trị:
_ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung.
_ Thủy Hử của Thi Nại Am.
_ Tây Du Kí của Ngô Thừa Ân.
_ Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc.

_ Truyện Làng Nho (Nho lâm ngoại sự)- Ngô Kính Tử.
_ Kim-Bình-Mai (Tiếu Tiếu Sinh).
_ Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh.
b. Nguyên nhân phát triển của tiểu thuyết:
Do kinh tế đô thị phát triển, tầng lớp thị dân tăng lên, họ có nhu cầu, sự thay đổi về thị
hiếu thẩm mỹ. Văn chương ra đời nhằm đáp ứng cho cái đẹp của laòi người. Vì thời tiết
không thuận lợi, cần có tiểu thuyết đọc ở nhà.
Kĩ nghệ in ấn phát triển nên tạo điều kiện để xuất bản rộng rãi.
* Nếu như ở thời Nguyên Mông văn nghệ sĩ bị khinh rẻ thì thời này được coi trọng
hơn.
Thời này yếu tố tư bản phát triển mạnh, nên người Trung Quốc mở rộng tầm nhìn.
Nhiều nhà văn có khả năng khái quát rộng lớn trong việc xây dựng những bộ tiểu thuyết
trường thiên.
Ðây là giai đoạn đầy biến động của lịch sử Trung Quốc. Những truyện ngắn, những vở tạp
kịch không có khả năng để thâu tóm, khái quát được hiện trạng xã hội, nên tiểu thuyết
Trường thiên đã phát triển để đáp ứng nhu cầu khái quát thực tại xã hội.
Tiểu thuyết thời này phát triển để trở thành diễn đàn tiếng nói đòi tự do của nhân dân
Trung Hoa
c. Nội dung:
Ðề tài: rất phong phú, đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống. Tiểu thuyết thời này thực sự
đi vào đời sống tinh thần của người dân Trung Quốc (người biết chữ thì đọc; người không biết
chữ thì nghe kể. Người kể là Thuyết thoại nhân). Tiểu thuyết thời này góp phần làm mạnh hóa xã
hội, xua đi ám khí của lí học.
Hình tượng nhân vật: một số nhân vật tiểu thuyết giai đoạn này đã đạt tính cách điển
hình.
* Tính cách điển hình: theo Ăng-ghen: Mỗi nhân vật là một điển hình. Nhưng đồng thời
cũng là một cá tính hoàn toàn đích xác, là con người này như ông già Hêghen nói. Khi bàn về
tính cách điển hình, Biêlinxki lại cho rằng: Mỗi nhân vật của nhà văn thực sự có tài năng là một
kiểu người. Và đối với người đọc, mỗi kiểu người là một người lạ đã quen biết
CHƯƠNG 3 : KHÁI QUÁT VĂN CHƯƠNG HIỆN ĐẠI TRUNG QUỐC

(TỪ 1919 ĐẾN NAY)
Văn chương hiện đại Trung Quốc bao gồm các tác giả vàtác phẩm ra đời sau năm 1919 là
năm nổ ra phong trào ngũ tứ (4-5-1919). Từ 1919 đến nay, lịch sử Trung Quốc có nhiều biến
động. Ðảng cộng sản Trung Quốc ra đời 11-7-1921.
I. GIAI ÐOẠN TỪ 1919-1949 TOP
Ðây là một quá trình dân tộc dân chủ ở Trung Quốc. Năm 1930 Tả dực tác gia liên minh
(Liên minh các nhà văn cánh tả) ra đời, gọi tắt là Tả Liên. Tổ chức này do Lỗ Tấn và Cù Thu
bạch sáng lập và lãnh đạo. Tổ chức này đã rộng rãi các nhà văn Trung Quốc trong hoạt
động chống Nhật. Ở giai đoạn này xuất hiện nhiều nhà thơ, tiêu biểu:
* Về văn:
_ Lỗ Tấn: có thể xem Lỗ Tấn là người khai sáng nền văn chương hiện đại Trung Quốc.
_ Mao Thuẫn (Thẩm Nhạn Băng): là tác giả của tiểu thuyết Nửa đêm nằm trong số 108
danh tác của Trung Quốc.
_ Diệp Thanh Ðào: tác phẩm tiêu biểu là ông giáo Chi.
_ Lão Xá: tác giả của cuốn tiểu thuyết Tướng Lạc Ðà.
_ Ba Kim: với tác phẩm Gia đình.
_ Diệp Từ: Ðược mùa.
* Về thơ:
_ Quách Mạc Nhược: tập Nữ thần.
* Về kịch:
_ Tào Ngu: với vở kịch Lôi vũ và Nhật xuất.
Vào giai đoạn giữa và cuối còn có những nhà văn xuất sắc như:
_ Nữ văn sĩ Ðinh Linh với tác phẩm: Mặt trời chiếu trên sông Tang Càn.
_ Lưu Bạch Vũ với Ánh lửa .
II. GIAI ÐOẠN 1949-1966 TOP
Ðây là thời kì Trung Quốc tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn này văn
chương phát triển rất mạnh, đặc biệt là tiểu thuyết. Tiểu thuyết Trung Quốc ở giai đoàn này viết
về nhiều đề tài , tạo nên sự phong phú đa dạng cho nền văn chương hiện đại Trung Quốc.
* Ðề tài công nhân: tiểu thuyết Luyện mãi thành thép- Ngãi Vu.
* Ðề tài nông dân:

_ Khai gió thú và Tam lí loan- Triệu Thụ Lí.
_ Mưa to gió lớn và Bản làng đổi mới- Chu Lập Ba.
_ Buổi sáng trên sông đà- Dương Tường.
* Ðề tài chiến tranh:
_ Tác phẩm Thương Cam Lĩnh của Lục Trụ Quốc.
* Ðề tài trí thức:
_ Bài ca tuổi trẻ- nữ văn sĩ Dương Mạt.
* Ðề tài về truyền thống đấu tranh cách mạng:
_ Rừng thẳm tuyết dày- Thúc Ba.
_ Bảo vệ Diên An- Ðỗ Bằng Trình.
_ Mặt trời đỏ- Ngô Cường.
_ Dưới ngọn cờ hồng- Lương Bân.
* Ðề tài cải tạo hòa bình tư bản tư doanh:
_ Thượng Hải ban mai- Chu Nhi Phục.
* Ðề tài về dân tộc ít người:
_ Ngọn lửa trên thảo nguyên- Mông-Ulan-Badan. Ở giai đoạn này thơ cũng phát triển,
nổi lên là vai trò của Hạ Kính Chi. Về kịch thì có kịch của Lão Xá với Hoa mùa xuân quả mùa
thu và Mở cống Long Tu.
Ở giai đoạn này, bên cạnh các nhà thơ thuộc lớp trước như Quách Mạt Nhược, Ngãi
Thanh, Hồ Phong, Tam Khắc Gia, Phùng Chí, Hà Kì Phương và Ðiền Hán, còn xuất hiện những
nhà thơ trẻ đầy tài năng như Quách Tiểu Xuyên, Hạ Kính Chi, Lí Quý, Văn Tiệp, Lí Anh Trương
Chí Dân, Công Lưu, Nhạn Dực, Lương THượng Tuyền.
Về văn xuôi có các tên tuổi: Mã Phong, Lý Chuẩn, Tuấn Thanh, Vương Mông, Nhữ Chí
Quyên, Lưu Bạch Vũ, Tần Mục, Tào Tĩnh Hoa, Ngô Bá Tiêu
Năm 1957, Trung Quốc phát động chống nhóm Ðinh Linh-Trần Xí Hà.
III. GIAI ÐOẠN TỪ 1966-1976 TOP
Ðây là giai đoạn Trung Quốc tiến hành cuộc cách mạng Ðại Văn hóa Vô Sản. Trung
Quốc lâm vào tình trạng tiêu điều.
IV. GIAI ÐOẠN TỪ 1976 ÐẾN NAY TOP
Hội nhà văn Trung Quốc hiện nay có tới hơn 6000 hội viên. Nếu tính số hội viên của các

hội nhà văn địa phương thì có tới hơn 25000 hội viên.
Giai đoạn văn chương Trung Quốc có sự phát triển đáng kể, có hai khuynh hướng:
khuynh hướng vết thương và biểu hiện.
_ Khuynh hướng vết thương: là khuynh hướng gợi lại nhnữg tổn thất mất mát
trong cuộc cách mạng đại văn hóa Vô sản.
Mối tình cay đắng- Bạch Hoa.
_ Biểu hiện: thái độ của nhà văn bộc lộ đối với xã hội Trung Quốc. Con người
đến tuổi trung niên Thẩm Dung.
Trong giai đoạn này, đã xuất hiện một số nhà văn nổi tiếng như Giả Bình Ao, Lưu Tâm
Vũ, Trương Hiền Lượng.
LỖ TẤN (1881-1936) TOP
Lỗ Tấn là người đặt nền móng cho văn chương hiện đại Trung Quốc. Nói cách khác ông
là người khai sáng cho nền văn chương này. Lỗ Tấn sáng tác 16 tập tạp văn, một số công trình
chuyên khảo và ba tập truyện ngắn: gào thét, Bàng hoàng và Chuyện cũ viết lại gồm 33 truyện
ngắn .
Về truyện ngắn, tuy Lỗ Tấn sáng tác không nhiều, nhưng nhiều truyện đã đạt được những
thành tựu nghệ thuật cao. Ông được giới nghiên cứu văn chương xem là bậc thầy của thể loại
truyện ngắn. Lỗ Tấn đã đóng góp cho nhân loại một tác phẩm bất hủ là AQ chính truyện.
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tên thật là Dự Tài. Lỗ Tấn là bút danh. Ông sinh ngày
25-9-1881 tại huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Giai đoạn của Lỗ Tấn vốn là giai đoạn quan
lại đã sa sút. Ông nội của Lỗ Tấn là Chu Giới Phu làm quan cho triều đình Mãn Thanh. Năm Lỗ
Tấn lên 13 tuổi, ông nội của nhà văn bị tống ngục bởi vụ án khoa trường. Từ ấy gia đình ông trở
nên sa sút. Cha của Lỗ Tấn là Chu Bá Nghi đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan. Ông bị
bệnh phù nên mất sớm. Mệ của tác giả là Lỗ Thụy-người phụ nữ nông thôn, tốt bụng, cần cù, đã
kể cho tác giả nghe nhiều truyện cổ. Bà đã sớm có ảnh hưởng đến tài năng của Lỗ Tấn. Lỗ Tấn là
bút danh lấy từ họ mẹ.
Lỗ Tấn sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh Trung quốc là triều đình Mãn Thanh đầu hàng
đế quốc.
Cuộc đời và sự nghiệp của Lỗ Tấn có thể chia làm 3 giai đoạn:
_Giai đoạn 1:từ 1881-1918

_Giai đoạn 2:từ 1918-1927
_Giai đoạn 3:từ 1927-1936
1. Giai đoạn từ 1881-1918:
Ðây là giai đoạn nhà yêu nước Lỗ Tấn . Lên 6 tuổi Lỗ Tấn học ở trường làng. Ông tỏ ra rất thông
minnh. Tuy còn nhỏ tuổi ông đã đọc hầu hết các thư tịch cổ. Ông ham mê văn chương dân gian,
sân khấu và hội họa. Năm 18 tuổi Lỗ Tấn đến Nam Kinh. Ðầu tiên Lỗ Tấn vào học ở trường thụy
sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng hải). Hai năm sau ông thi vào trường Khoáng lộ
học đường (đòa tạo kỹ sư mỏ địa chất). Cả hai trường này là trường Tây học mà không còn
trường Hán học. Nhiều kiến thức khoa học kỹ thuật của phương Tây, hồi này ông đọc rất nhiều.
Những sách mà ông đọc là những công trình khoa học kỹ thuật hay khoa học tự nhiên. Cung
trong thơig gian này ông được đọc tác phẩm thiên diễn luận của Hóc-xlây. Hóc-xlây đã trình bày
học thuyết tuiến hóa của Darwin trong công trình của mình. Lỗ Tấn đã đọc cuốn sách này một
cách say mê. Nên ông đã sớm chịu ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa. Tuy tiến hóa luận trong
nhận thức của Lỗ Tấn óc phần động hơn chứ không phải tĩnh như trong nguyên lí của nó, nhưng
cách lí giải của Lỗ Tấn chưa có cơ sở sát thực đối với lịch sử xã hội. Lỗ Tấn đã cho rằng sinh
mình của thế hệ trẻ hơn sinh mình của thế hệ già, ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay. Lúc này, Lỗ
Tấn chưa nhận thức được rằngtiến hóa luận chỉ có thể giải thích được qui luật tiến hóa mang tính
tự nhiên của sinh vật. Ðó là qui luật tự nhiên nên không thể dùng qui luật tự nhiên để lí giải qui
luật xã hội. Sự tiến hóa sinh vật là sự tiến hóa tự nhiên. Còn sự tiến hóa của lịch sử xã hội là phải
có động lực thúc đẩy. Thuyết tiến hóa cũng đã ảnh hưởng đến 1 số tác phẩm của Lỗ Tấn trong
thời kì đầu như Nhật kí người điên và Cố hương. Cuối truyện ngắn Nhật kí người điên tác giả đã
cho người điên kêu to hãy cứu lấy các em.
Năm 1902, Lỗ Tấn sang du học ở Nhật. Hồi này trên đất Nhật có nhiều tổ chức của người
Trung Quốc yêu nước ra đời như tổ chức Quang Phục hội, Lỗ Tấn đã chính thức gia nhập tổ
chức này. Lỗ Tấn đã bộc lỗ cái nhiệt huyết yêu nước của mình bằng hoạt động và bằng cả tiếng
lòng tha thiết. Ông đã từng viết Ngã dĩ ngã huyết tiến Hiên Viên (Hiên Viên :thần tổ của người
Trung Quốc, tượng trưng cho Trung Quốc-Trung Hoa) Ta nguyền lấy máu ta để hiến dâng cho
Tổ quốc. Sau hai năm học tiếng Nhật ở Hoàng văn học hiệu, năm 1904 Lỗ Tấn chính thức vào
học ở trường thuốc Tiên Ðài. Sở dĩ Lỗ Tấn xin vào học ở trường thuốc Tiên Ðài là bởi động cơ
của tấm long yêu nước. Nước Nhật thời này là tấm gương trong việc dung ngành y để chấn hưng

và phát triển nền kinh tế và văn hóa xã hội. Vì vậy Lỗ Tấn đã vào học ở trường thuốc để mong
thực hiện được ước mơ của mình là dùng nghề thuốc để cải tạo xã hội Trung Quốc. Mặt khác Lỗ
Tấn muốn học thuốc để cứu những người dân lành bị bệnh như cha của ông.
Năm 1906, một hôm Lỗ Tấn xem bộ phim tài liệu về cuộc đấu tranh Nga-Nhật, trong bộ
phim có cảnh một người Trung Quốc làm mật thám cho Nga bị quân đội Nhật xử tử trước đám
đong quần chúng Trung Quốc. Tước cảnh người đông chủng của mình bị xử tử, công chúng
người Trung Quốc đã tỏ ra vui mừng hoan hỉ, hình ảnh này đã kích mạnh đối với Lỗ Tấn. Ông
cho rằng nghề thuốc chỉ có thể chữa được bệnh về thể xác chứ không chữa được bệnh về tinh
thần, mà chữa bệnh về thể xác lại không quan trọng bằng chữa bệnh về tinh thần. Nên ông đã
quyết định nghỉ học ở trường thuốc và chuyển sang hoạt động văn nghệ. Trong thời gian này ông
đọc rất nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài đặc biệt là các nhà văn lớn ở Châu Âu.Ông đã
dịch một số tác phẩm của nhà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng là Jules Vernes.
Năm 1907,Lỗ Tấn viết bài Sức mạnh của dòng thơ ma-ra (ma-ra trong tiếng Phạn là ma
quỷ). Trong bài viết này,Lỗ Tấn là người đầu tiên giới thiệu những nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc
với độc giả Trung Quốc; đó là những nhà thơ Buyron và Chanhdly: hai nhà thơ lãng mạn lớn của
nước Anh; hai nhà thơ vĩ đại của Nga là Puskin và Lac-mông-tốp; Adam Mic-ki-ê-vích (Ba
Lan); săng-đo-Pêtơphi (Hunggara).
Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình Lỗ Tấn phải trở về Trung Quốc để nuôi mẹ và chăm
sóc em. Về nước Lỗ Tấn dạy ở trường trung học Thiệu Hưng và có dạo làm hiệu trưởng trường
sư phạm Thiệu Hưng. Khi cách mạng Tân Hợi nổ ra, Lỗ Tấn hân hoan chào đón. Những cuộc
cách mạng này đã không đạt được điều Lỗ Tấn mong muốn. Ông nhận thấy ngoài quốc hiệu
Trung Hoa Dân quốc thì cuộc cách mạng này không đem đến sự đổi thay nào cho nhân dân cả.
Vì vậy ông đã phải sống những năm tháng trầm tư.
Năm 1918, ông cho ra mắt bạn đọc một truyện ngắn đầu tay của mình là Nhật kí người
điên lần đầu tiên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5-1918. Các nhà nghiên cứu văn học
đều thống nhất cho rằng truyện ngắn này là phát súng bắn vào dinh lũy chế độ phong kiến.
2. Giai đoạn 1918-1927:
Ðây là giai đoạn Lỗ Tấn đi từ tiến hóa luận đến giai cấp luận. Nó đánh dấu bước
phát triển trong nhận thức tư tưởng và sự sáng tạo của Lỗ Tấn.
Ngày 4-5-1919 đã nổ ra phong trào Ngũ tứ. Ðây là phong trào đấu tranh chịu ảnh

hưởng trực tiếp của cuộc cách mạng tháng 10 Nga. Nó cũng là dấu son chói lọi, là cột mốc đầu
tiên của thời kì hiện đại trong lịch sử Trung Quốc. Lỗ Tấn cũng đã chịu ảnh hưởng của phong
trào đấu tranh này. Trogn giai đoạn này Lỗ Tấn vừa giảng dạy vừa sáng tác.
Từ 1920-1925, Lỗ Tấn làm gia sư của các trường đại học Bắc Kinh, Cao Ðẳng
Sư Phạm Bắc Kinh và đại học nữ Sư Phạm Bắc Kinh. Hồi này Lỗ Tấn đã tổ chức các nhóm
nghiên cứu văn học trong sinh viên. Trong phong trào đấu tranh của sinh viên, Lỗ Tấn đã trở
thành chỗ dựa tinh thần cho họ. Trong phong trào đấu tranh của sinh viên đại học nữ sư phạm
Bắc Kinh vào 1925 chống tên tổng trưởng giáo dục Trương Sĩ Chiêu và chính phủ Ðoàn Kì
Thụy, Lỗ Tấn đã đứng lên bảo vệ họ. Ông có nguy cơ bị khủng bố nên năm 1926 ông xuống Hạ
Môn của tỉnh Phúc Kiến và làm gia sư của trường đại học Hạ Môn. Ðầu năm 1927, Lỗ Tấn đến
Quảng Châu. Lúc này Quảng Châu đang sục sôi không khí cách mạng. Lỗ Tấn đến Quảng Châu
làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa văn của trường đại học Trung Sơn. Lỗ Tấn có
điều kiện gần gũi với nhiều đảng viên cộng sản. Nhà văn đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của họ.
Tháng 4-1927 Tưởng Giới Thạch đã gây ra vụ phản biến. Tận mắt Lỗ Tấnaã chứng kiến cảnh tàn
sát rất dã man. Ðặc biệt ông nhận thấy lực lượng cảnh sát của Tưởng đã giết hại hàng loạt thanh
niên yêu nước. Từ đây, Lỗ Tấn đã bắt đầu có sự thay đổi trong cách nhìn. Ông không còn cho
rằng: sinh mình của thế hệ trẻ hơn sinh mình của thế hệ già.
Tháng 10-1927 Lỗ Tấn đã rời Quảng Châu về Thượng hải và ông ở đây mãi đến lúc mất
(1936).
Trong giai đoạn này, Lỗ Tấn viết nhiều truyện ngắn và tạp văn về truyện ngắn có hai tập:
Gào thét (14 truyện), Bàng hoàng (11 truyện). Một tập thơ bằng văn xuôi Dả thảo (Cỏ dại) và
bảy tập tạp văn.
3. Giai đoạn từ 1928-1936:
Trong giai đoạn này Lỗ Tấn tập trung dịch và giới thiệu nhiều công trình văn nghệ lí luận
Macxít. Nhà văn còn lo tổ chức và xây dựng đội ngũ các nhà văn Trung Quốc.
Năm 1928 ông cho xuất bản tạp chí Bônlưu (Dòng nước xiết). Tháng 5-1930, tổ chức Tả
dực tác gia liên minh gọi tắt là tả liên ra đời. Tổ chức này do ông sáng lập và trực tiếp lãnh đạo
cùng với Cù Thu Bạch. Tổ chức tả Liên đã điều khiển rộng rãi các nhà văn yêu nước. Trong giai
đoạn Lỗ Tấn đã tập trung tâm linh và trí tuệ chống lại những quan điểm phản động để giữ vững
trận địa văn nghệ cách mạng. Giai đoạn này ông viết tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại (8

truyện) và 9 tập tạp văn. Tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại gồm những truyện mang tính huyền
thoại, đánh dấu bước phát triển trong văn nghiệp Lỗ Tấn. Nhà văn đi từ chủ nghĩa hiện thực phê
phán đến chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Do làm việc quá sức nên ngày 19-10-1936 Lỗ
Tấn đã mất tại Thượng Hải. Cái chết của nhà văn là tổn thất lớn của nền văn học hiện đại Trung
Quốc. Ở những vùng Tưởng Giới Thạch kiểm soát bất chấp cảnh sát ngăn chặn, nhân dân đã tiến
hành lễ truy điệu nhà văn rất trọng thể. Lỗ Tấn được xem là của Trung Quốc. Lỗ Tấn là một
nhà văn lớn của Trung Quốc. Ông đã có những cống hiến xuất sắc cho nền văn chương hiện đại
Trung Quốc. Cuộc đời và văn nghiệp của ông gắn liền với từng bước phát triển của nhận thức và
sáng tạo. Ông đã đi từ một con người yêu nước đến nhà văn cộng sản. Sự phát triển này như là
một tất yếu của thiên tài Lỗ Tấn. Trong thư xin gia nhập đảng cộng sản Mỹ của nhà văn lớn Thê-
ô-đo Draiđơ, nhà văn này đã viết: Lôgic của cuộc sống đưa người ta đến chủ nghĩa cộng sản.
Cuộc đời của Lỗ Tấn chỉ có thể được lí giải bằng ý kiến này. Chính lôgic của cuộc sống đã đưa
Lỗ Tấn đến với Chủ nghĩa cộng sản, đến với con đường sáng tạo chân chính để phục vụ nhân
dân.
NHẬT KÝ NGƯỜI ÐIÊN TOP
Nhật ký người điên là truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn, lần đầu tiên được in trên tạp chí Tân
thanh niên số thánh 5/1918. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm này đã gây được tiếng vang lớn
trong dư luận của giới nghiên cứu văn học và độc giả cả nước. Nhiều nhà nghiên cứu văn học

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×