LUẬT NGÂN HÀNG
BÀI TẬP NHÓM: BÌNH LUẬN BẢN ÁN
Tháng 11 – Thành phố Hồ Chí Minh
1
MỤC LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 02/2009/KDTM-GĐT NGÀY..........................7
10-3-2009 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỔNG TÍN DỤNG...................................7
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO........................................7
Ngày 10 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, đã mở phiên toà giám đốc
thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương
sự:.......................................................................................................................................7
Tại Biên bản làm việc ngày 22-01-2007 hai bên thoả thuận:.............................................9
“1. Công ty TTĐN đồng ý bàn giao, Ngân hàng đồng ý nhận lại các tài sản thế chấp theo
danh mục sau để xử lý thu hồi nợ:.....................................................................................9
Các tài sản theo danh mục tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 01 ngày 16-6-2004: nguyên
giá 5.151.256.000 đồng......................................................................................................9
Trại nái 131 con theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 18-10-2004: nguyên giá
828.670.462 đồng...............................................................................................................9
Trạm nghiền thức ăn gia súc theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 3-4-2005: nguyên giá
700.000.000 đồng...............................................................................................................9
Tổng giá trị theo nguyên giá là 6.733.926.462 đồng..........................................................9
Các tài sản trên hiện đang đảm bảo cho khoản nợ vay tại Ngân hàng Hoằng Hoá với số
tiền gốc là 6.133.516.000 đồng”........................................................................................9
Tại biên bản làm việc ngày 10-02-2007, hai bên thông nhất bàn giao tài sản của Công ty
TTĐN theo hợp đồng đảm bảo, riêng đàn lợn theo đúng thực tế tại thời điểm bàn giao và
ấn định ngày bàn giao là ngày 13-02-2007........................................................................9
Ngày 13-02-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá và Công ty TTĐN tiến hành bàn giao toàn bộ
tài sản để xử lý thu hồi nợ. Tại biên bản bàn giao tài sản có nội dung:...........................10
Ngày 22-02-2007, Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá thụ lý vụ án...............................10
Cùng ngày 22-02-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời kê biên, phong toả khu chuồng trại mới xây dựng trên các thửa đất số 50,
51, tờ bản đồ số 8 tại xã Hoằng Quang và trên 1000 con lợn của Công ty TTĐN giao cho
Ngân hàng Hoằng Hoá quản lý, trông coi chăm sóc cho đến khi định giá phát mại tài sản
để thu hồi nợ; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để cấm di chuyển, chuyển nhượng
khối tài sản........................................................................................................................10
Ngày 23-02-2007, Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời phong tỏa 1000 con lợn và khu trang trại trên thửa đất 50, 51, tờ bản
đồ số 8 tại xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá; giao số lợn và khu trang trại cho Ngân
hàng Hoằng Hoá quản lý trông coi...................................................................................10
Ngày 14-6-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối
với khoản nợ của 3 Hợp đồng tín dụng số 09, 12, 04 với số tiền gốc còn nợ là
4.233.516.000 đồng ra khỏi vụ kiện vì khoản nợ gốc này cho vay có bảo đảm bằng tài
sản và ngày 13-02-2007, Công ty TTĐN đã bàn giao tài sản thế chấp cho Ngân hàng
Hoằng Hoá. Còn lại khoản tiền 1.900.000.000 đồng cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản và tiền lãi tính đến ngày 31-5-2007 là 215.013.540 đồng đề nghị Toà án buộc Công
ty TTĐN phải trả cho Ngân hàng Hoằng Hoá..................................................................11
Ngày 15-6-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định thay đổi biện pháp
khẩn cấp tạm thời số 38/2007/QĐ-BPKCTT cho bán số lợn hiện có đang được phong
toả theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2007/QĐ-BPKCTT
ngày 23-02-2007 của Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá; số tiền bán lợn chuyển vào tài
khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Thanh Hoá của Thi hành án dân sự tỉnh Thanh
Hoá để chờ xử lý..............................................................................................................11
1
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Việc mua bán tài sản với Công
ty TTĐN của họ là hợp pháp, tài sản mua bán không phải là tài sản thế chấp hình thành
từ vốn vay, tại thời điểm mua bán không có lệnh cấm và diễn ra trước khi Ngân hàng
khởi kiện: khi có quyết định phong toả tài sản không còn thuộc quyền sở hữu của Công
ty TTĐN, đề nghị Toà án huỷ bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trả
lại tài sản đang bị phong toả cho các ông.........................................................................13
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 06-07-2007, Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu rút
một phần đơn khởi kiện và đề nghị tạm đình chỉ vụ án. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của phía nguyên đơn xin rút một phần đơn khởi kiện (thể hiện tại biên bản phiên toà
sơ thẩm chứ không có quyết định mà chỉ ra Quyết định số 03/2007/QĐST-KDTM ngày
06-7-2007 tạm đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm)....................13
Ngày 10/7/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá kháng nghị; Công
ty TTĐN và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo...........................13
Tại Quyết định số 213/2007/QĐ – PT ngày 05-11-2007, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao tại Hà Nội Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 03 nêu trên để giải quyết
vụ án.................................................................................................................................13
Ngày 26-11-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn bổ sung đơn khởi kiện và ngày 14-122007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện và đề nghị Toà
án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử, buộc Công ty TTĐN thanh toán số dư nợ có bảo đảm
còn lại của các hợp đồng số 09, 12 và 04 là 987.926.264 đồng (sau khi khấu trừ tài sản
cầm cố, thế chấp, bán đấu giá là 3.245.589.736 đồng) và số dư nợ không có bảo đảm là
1.900.000.000 đồng (của Hợp đồng số 16) và tiền lãi; tổng cộng số nợ là 3.685.691.770
đồng (trong đó, tiền gốc là 2.887.926.264 đồng, tiền lãi tính đến ngày 30-11-2007 là
797.656.500 đồng)............................................................................................................13
Ngày 21-12-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số 15/2007/QĐSTKDTM đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm, trả lại đơn khởi kiện
và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho các đương sự; đồng thời, ra Quyết định huỷ bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2007/QĐ-BPKCTT ngày 21-12-2007 với nội dung:
"... Trả lại tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là khu chuồng trại trên thửa
đất 50, 51, tờ bản đồ số 08, xã Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá cho người mua là
ông Lê Khả Thuỷ; giao số tiền bán tài sản phong toả là 619 con lợn theo Quyết định thay
đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời số 38/2007/QĐ-BPKCTT ngày 15-6-2007 của Toà án
nhân dân tỉnh Thanh Hoá là 1.010.915.000 đồng tại tài khoản số 9219.0000.0008 của
Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá cho người có lợn bị phong toả là ông Nguyễn Hữu
Lợi và ông Lê Khả Thuỷ. Việc phân chia số tài sản trên cho mỗi ngưồi do ông Lợi và
ông Thủy tự giải quyết; trả lại toàn bộ tài sản bảo đảm là 700.000.000 đồng tại tài khoản
phong toả được mở tại Ngân hàng NN và PTNT Chi nhánh Hoằng Hoá cho chính Ngân
hàng NN và PTNT Chi nhánh Hoằng Hoá...”..................................................................14
Ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn kháng cáo Quyết định đình chỉ vụ án
số 15/2007/QĐST-KDTM................................................................................................14
Cùng ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn đề nghị Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời..................................14
Tại Quyết định số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tốỉ
cao tại Hà Nội quyết định: “Chấp nhận kháng cáo và đề nghị của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hoằng Hoá, huỷ Quyết định đình
chỉ việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 15/2007/QĐST-KDTM
ngày 21-12-2007 và Quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2007/QĐBPKCTT ngày 21-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá; chuyển hồ sơ vụ án
cho Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá để tiếp tục giải quyết lại vụ án”...........................14
2
Tại Quyết định kháng nghị số 17/KN-VKSTC-V12 ngày 10-11-2008, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại số 71/2008/QĐ-PT ngày
31-3-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng: Hủy
Quyết định số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao tại Hà Nội; giữ nguyên các Quyết định số 15/2007/QĐST-KDTM, Quyết định số
101/2007/QĐ- BPKCTT ngày 21-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá..........15
XÉT THẤY:.....................................................................................................................15
1.Về tư cách tố tụng của nguyên đơn...............................................................................15
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá – Chi nhánh Hoằng Hoá
được thành lập theo Quyết định số 340/QĐ-NHNN-02 ngày 19-6-1998 của Tổng Giám
đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam “về việc thành lập đơn
vị trực thuộc đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn”................................................................................................................15
Theo quy định tại khoản 3,4 và 5 Điều 92 Bộ luật dân sự, thì Ngân hàng Nông Nghiệp
và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá – Chi nhánh Hoằng Hoá là đơn vị phụ thuộc của
pháp nhân chứ không phải là pháp nhân..........................................................................15
Ngày 12-02-2007, ông Phạm Anh Thư – Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thông huyện Hoằng Hoá thực hiện việc khởi kiện vụ án theo uỷ
quyền của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
tại Quyết định số 781/QĐ/NHNN-TKPC ngày 13-6-2006 về việc uỷ quyền tham gia tố
tụng, thi hành án...............................................................................................................15
Theo quy định tại Điều 92 Bộ Luât dân sự; Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự, tiểu mục 1.4
và điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 Phần I của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-52006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự hướng dẫn
việc pháp nhân khởi kiện và uỷ quyền khởi kiện vụ án dân sự, thì trong vụ án này
nguyên đơn phải là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam như Toà
án cấp phúc thẩm đã xác định; do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao cho rằng nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Thanh Hoá – Chi nhánh Hoằng Hoá là không có căn cứ chấp nhận................................16
2. Về điều kiện khởi kiện.................................................................................................16
Tại điều 9 của Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD ngày 0/4/2005 (sau đây gọi tắt là Hợp
đồng số 16/HĐTD ngày 04-4-2005 (sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 16), quy định: “Đến
hạn Công ty không trả được nợ gốc và lãi. Ngân hàng được quyền xử lý tài sản mà đã
thế chấp để thu hồi nợ gốc và lãi”....................................................................................16
Thực tế thì hai bên không xác lập hợp đồng thế chấp tài sản nào để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ tại Hợp đồng số 16 mà chỉ xác lập Giấy thoả thuận đăng ký lại nghĩa vụ được
bảo đảm nợ vay Ngân hàng không đề ngày chỉ ghi tháng 4/2005 về việc dùng tài sản thế
chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng số 16..............................................16
Tuy nhiên, Giấy thoả thuận trên chưa được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo
đúng quy định tại Điều 7 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính
phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; Điều 2 và Điều 19 Nghị định số
08/2000/NĐ-CP ngày 10-3-2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm (quy định
về những trường hợp phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và thủ
tục thay đổi nội dung đã đăng ký giao dịch bảo đảm); điểm b khoản 1 Điều 64 và khoản
3 Điều 153 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành
Luật Đất đai bằng quyền sử dụng đất); đoạn 2 mục 6 phần III Thông tư số 07/2003 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo đảm tiền
3
vay của các tổ chức tín dụng (Mỗi lần cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng một tài sản bảo
đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ, các bên phải lập thành văn bản và đăng ký tại cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm).....................................................................................17
***....................................................................................................................................17
Bản thân Ngân hàng Hoằng Hoá cũng xác định Hợp đồng tín dụng số 16 là hợp đồng
không có bảo đảm; còn Công ty TTĐN thì cho rằng Hợp đồng này là hợp đồng có bảo
đảm theo Giấy thoả thuận nêu trên. Vì vậy, do Giấy thoả thuận đăng ký lại nghĩa vụ
được bảo đảm nợ vay Ngân hàng đề tháng 4/2005 chưa được các bên thực hiện đúng
theo quy định của pháp luật và có tranh chấp nên không có hiệu lực thi hành................17
Tuy tại các Biên bản làm việc ngày 22-01-2007 và ngày 10-02-2007, Ngân hàng Hoằng
Hoá và Công ty TTĐN đã thoả thuận: Ngân hàng Hoằng Hoá nhận bàn giao nguyên
trạng tài sản của Công ty TTĐN theo đúng các danh mục mục tại các hợp đồng đảm bảo
tiền vay đã ký để xử lý thu hồi nợ và ngày 13- 02-2007, hai bên đã tiến hành bàn giao
toàn bộ tài sản bảo đảm tiền vay thuộc sở hữu của Công ty TTĐN cho Ngân hàng Hoằng
Hoá để xử lý thu hồi nợ nhưng đây là sự thoả thuận của các đương sự trong quá trình
thanh toán nợ với nhau, không thể coi mục 5 mục I phần B Thông tư liên tịch số
03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA- BTC-TCĐC ngày 23-4-2001 hướng dẫn việc xử lý
tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng; ngoài ra, các bên không có sự
thoả thuận nào khác. Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật các tổ chức tín
dụng thì không bắt buộc phải xử lý tài sản bảo đảm xong mới có quyền khởi kiện tại Toà
án. Pháp luật hiện hành không có quy định bắt buộc phải xử lý tài sản bảo đảm xong
mới có quyền khởi kiện vụ án tại Toà án. Mặt khác, hợp đồng có bảo đảm hay không có
bảo đảm cũng không ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của đương sự. Hơn nữa, ngày 1302-2007 Công ty TTĐN bàn giao tài sản thế chấp cho Ngân hàng Hoằng Hoá là để xử lý
thu hồi nợ của các hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết và thực hiện chứ không chỉ
để thanh toán cho riêng một hợp đồng tín dụng nào. Mặt khác, tuy nguyên đơn đã rút
một phần yêu cầu khởi kiện ban đầu đối với 03 Hợp đồng tín dụng số 09, 04 và 12, chỉ
yêu cầu giải quyết tranh chấp về Hợp đồng tín dụng số 16; nhưng sau khi Toà án cấp
phúc thẩm (lần 1) hủy quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm,
thì Ngân hàng Hoằng Hoá đã có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Toà án buộc Công ty
TTĐN phải thanh toán số tiền còn thiếu của 4 Hợp đồng 09, 04, 12 và 16 do bán tài sản
thế chấp không bù trừ đủ số nợ gốc. Ngoài ra, Ngân hàng Hoằng Hoá, Công ty TTĐN và
hai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có tranh chấp về tài sản bị đem bán theo
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án. Vì vậy, Toà án phải tiếp tục
giải quyết vụ án mà không thể đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do chưa đủ điều kiện khởi
kiện như Toà án cấp sơ thẩm đã quvết định và kháng nghị nêu......................................18
Tuy nhiên, khi tiến hành giải quyết lại vụ án, Toà án cấp sơ thẩm cần hướng dẫn cho
nguyên đơn làm lại đơn khởi kiện theo đúng quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân
sự và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006. Nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu phản tố thì cũng phải thực hiện theo đúng quy đinh của pháp luật về tố tụng.
..........................................................................................................................................19
Vì vậy, khi Toà án cấp sơ thẩm tiến hành thụ lý, giải quyết lại vụ án thì xem xét việc có
áp dụng hay không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo đúng quy định của pháp
luật....................................................................................................................................20
Vì các lẽ trên, cản cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 2 và.................20
Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;......................................................................................20
QUYẾT ĐỊNH:................................................................................................................20
Huỷ Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối vối quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008 của Toà phúc thẩm
4
Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Quyêt định đình chi giải quyết vụ án kinh doanh
thương mại sơ thẩm số 15/2007/QĐST-KDTM ngày 21-12-2007 của Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hoá;................................................................................................................20
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá giải quyết, xét xử lại theo đúng
quy định của pháp luật......................................................................................................20
2.1.Tóm tắt bản án................................................................................................................21
Phía công ty TTĐN trình bày: Cả 4 hợp đồng tín dụng đều là hợp đồng có bảo đảm và
có tổng số dư nợ gốc 6.133.516.000 đồng thấp hơn trị giá tài sản thế chấp 6.733.926.000
đồng. Ngân hàng đã nhận tài sản thế chấp để xử lý thu hồi nợ nhưng chưa được xử lý
xong đã khởi kiện là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Còn tài sản bị phong toả của Toà án
thì tài sản đã bán cho ông Thuỷ và ông Lợi, đề nghị trả tài sản cho ông Lợi và ông Thuỷ.
..........................................................................................................................................24
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Việc mua bán tài sản với Công
ty TTĐN của họ là hợp pháp, tài sản mua bán không phải là tài sản thế chấp hình thành
từ vốn vay, tại thời điểm mua bán không có lệnh cấm và diễn ra trước khi Ngân hàng
khởi kiện: khi có quyết định phong toả tài sản không còn thuộc quyền sở hữu của Công
ty TTĐN, đề nghị Toà án huỷ bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trả
lại tài sản đang bị phong toả cho các ông.........................................................................24
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 06-07-2007, Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu rút
một phần đơn khởi kiện và đề nghị tạm đình chỉ vụ án. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của phía nguyên đơn xin rút một phần đơn khởi kiện (thể hiện tại biên bản phiên toà
sơ thẩm chứ không có quyết định mà chỉ ra Quyết định số 03/2007/QĐST-KDTM ngày
06-7-2007 tạm đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm)....................24
Ngày 10/7/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá kháng nghị; Công
ty TTĐN và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo...........................24
Tại Quyết định số 213/2007/QĐ – PT ngày 05-11-2007, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao tại Hà Nội Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 03 nêu trên để giải quyết
vụ án.................................................................................................................................24
Ngày 26-11-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn bổ sung đơn khởi kiện và ngày 14-122007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện và đề nghị Toà
án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử, buộc Công ty TTĐN thanh toán số dư nợ có bảo đảm
còn lại của các hợp đồng số 09, 12 và 04 là 987.926.264 đồng (sau khi khấu trừ tài sản
cầm cố, thế chấp, bán đấu giá là 3.245.589.736 đồng) và số dư nợ không có bảo đảm là
1.900.000.000 đồng (của Hợp đồng số 16) và tiền lãi; tổng cộng số nợ là 3.685.691.770
đồng (trong đó, tiền gốc là 2.887.926.264 đồng, tiền lãi tính đến ngày 30-11-2007 là
797.656.500 đồng)............................................................................................................25
Ngày 21-12-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số 15/2007/QĐSTKDTM đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm, trả lại đơn khởi kiện
và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho các đương sự; đồng thời, ra Quyết định huỷ bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2007/QĐ-BPKCTT ngày 21-12-2007 với nội dung:
"... Trả lại tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là khu chuồng trại trên thửa
đất 50, 51, tờ bản đồ số 08, xã Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá cho người mua là
ông Lê Khả Thuỷ; giao số tiền bán tài sản phong toả là 619 con lợn theo Quyết định thay
đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời số 38/2007/QĐ-BPKCTT ngày 15-6-2007 của Toà án
nhân dân tỉnh Thanh Hoá là 1.010.915.000 đồng tại tài khoản số 9219.0000.0008 của
Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá cho người có lợn bị phong toả là ông Nguyễn Hữu
Lợi và ông Lê Khả Thuỷ. Việc phân chia số tài sản trên cho mỗi ngưồi do ông Lợi và
ông Thủy tự giải quyết; trả lại toàn bộ tài sản bảo đảm là 700.000.000 đồng tại tài khoản
phong toả được mở tại Ngân hàng NN và PTNT Chi nhánh Hoằng Hoá cho chính Ngân
hàng NN và PTNT Chi nhánh Hoằng Hoá...”..................................................................25
5
Ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn kháng cáo Quyết định đình chỉ vụ án
số 15/2007/QĐST-KDTM................................................................................................25
Cùng ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn đề nghị Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời..................................25
Tại Quyết định số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tốỉ
cao tại Hà Nội quyết định: “Chấp nhận kháng cáo và đề nghị của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hoằng Hoá, huỷ Quyết định đình
chỉ việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 15/2007/QĐST-KDTM
ngày 21-12-2007 và Quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2007/QĐBPKCTT ngày 21-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá; chuyển hồ sơ vụ án
cho Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá để tiếp tục giải quyết lại vụ án”...........................26
Tại Quyết định kháng nghị số 17/KN-VKSTC-V12 ngày 10-11-2008, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mạii số 71/2008/QĐ-PT ngày
31-3-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng: Hủy
Quyết định số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao tại Hà Nội; giữ nguyên các Quyết định số 15/2007/QĐST-KDTM, Quyết định số
101/2007/QĐ- BPKCTT ngày 21-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá..........26
Trong phần xét thấy của quyết định Giám đốc thẩm có đề cập thì tại Điều 9 của của
Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD ngày 0/4/2005, quy định: “Đến hạn Công ty không trả
được nợ gốc và lãi. Ngân hàng được quyền xử lý tài sản mà đã thế chấp để thu hồi nợ
gốc và lãi”. Tuy nhiên, căn cứ theo các quy định pháp luật tại thời điểm hợp đồng được
giao kết, cụ thể tại Khoản 1 Điều 9 của Nghị định 85/2002, sửa đổi, bổ sung Điều 7
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng đã buộc hợp đồng bảo đảm tiền vay phải thể hiện dưới hình thức
văn bản, phải có sự chứng nhận của Công chứng nhà nước hay chứng thực của Ủy ban
nhân dân các cấp có thẩm quyền và phải đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của
pháp luật. Đây chính là các yếu tố về hình thức của hợp đồng để đảm bảo tính hiệu lực
của hợp đồng. Như vậy rất có thể hợp đồng này sẽ bị tuyên vô hiệu vì không thỏa mãn
dấu hiệu về mặt hình thức theo Điều 139 Bộ luật dân sự 1995........................................27
6
1. Bản án: Quyết định giám đốc thẩm số 02/2009/KDTM-GĐT ngày 10
tháng 3 năm 2009 về vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng của Hội đồng
thẩm phán
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 02/2009/KDTM-GĐT NGÀY
10-3-2009 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỔNG TÍN DỤNG
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngày 10 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, đã mở phiên toà
giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín
dụng giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá Chi nhánh Hoằng Hoá (theo xác định của Toà án cấp sơ thẩm); có trụ sở tại
thị trấn Bút Sơn, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá; do ông Phạm Anh Thư
- Giám đốc Chi nhánh đại diện.
Bị đơn: Công ty cổ phần Thương mại và phát triển gia súc TTĐN; có trụ sở
tại Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá; do ông Nguyễn Hữu
Thơm -Giám đốc Công ty đại diện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:
1. Ông Nguyễn Hữu Lợi; trú tại thôn 7, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng
Hoá, tỉnh Thanh Hoá;
2. Ông Lê Khả Thủy; trú tại thôn Anh Vinh, xã Hoằng Thịnh, huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá.
NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12-02-2007 của nguyên đơn, các lời khai của
đương sự và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thì thấy: Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá - Chi nhánh Hoằng
Hoá (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Hoằng Hoá) và Công ty cổ phần thương mại
và phát triển gia súc TTĐN (sau đây gọi tắt là Công ty TTĐN) có ký kết 04
Hợp đồng tín dụng, cụ thể như sau:
1/ Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24-6-2004 (có Phụ lục Hợp đồng kèm
7
theo) với số tiền vay là 3.500.000.000 đồng; thời hạn cho vay 60 tháng; ngày trả hết
nợ (gốc và lãi) là 24-6-2009. Ngày 16-6-2004, hai bên ký kết Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 01/TC, tài sản thế chấp là quyền
sử dụng 16.970m2 đất và tài sản hình thành từ vốn vay gắn liền với đất, giá trị
tài sản bảo đảm là 5.380.351.000 đồng.
2/ Hợp đồng tín dụng số 12/HĐTD ngày 28-10-2004, với số tiền vay là
600.000.000 đồng; thời hạn cho vay 60 tháng; ngày trả hết nợ (cả gốc và lãi) là
28-10-2009. Cùng ngày, hai bên ký Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản hình
thành từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là 850.000.000
đồng.
3/ Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD ngày 04-4-2005, với số tiền cho vay là
525.000.000 đồng; thời hạn cho vay 60 tháng; ngày trả hết nợ (cả gốc và lãi) là
ngày 04-4-2010. Cùng ngày, hai bên ký kết Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản
hình thành từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là
700.000.000 đồng.
4/ Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD ngày 04-4-2005, với số tiền cho vay là
1.900.000.000 đồng; thời hạn cho vay là 12 tháng; ngày trả hết nợ là ngày 04-42006; tiền vay được bảo đảm theo thoả thuận trong Hợp đồng đảm bảo tiền vay
kèm theo hợp đồng vay; đến hạn Công ty không trả được nợ gốc và lãi, Ngân hàng
được quyền xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ gốc và lãi.
Thực tế thì không có Hợp đồng bảo đảm kèm theo Hợp đồng tín dụng nêu trên
nhưng có Giấy thoả thuận đăng ký lại nghĩa vụ được bảo đảm nợ vay Ngân
hàng do hai bên lập không đề ngày chỉ ghi tháng 4/2005, với nội dung: tài sản thế
chấp chính chủ và tài sản hình thành từ vốn vay là 16.970m 2 đất tại thôn Nguyệt
Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá do Uỷ ban nhân dân
tỉnh Thanh Hoá cấp ngày 03-9-2003 cho Công ty, tài sản gắn liền đất là Văn
phòng làm việc, trang trại chăn nuôi, tài sản khác là xe con điều hành được tiếp
tục sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD
ngày 04-4-2005 thay thế cho nghĩa vụ được bảo đảm của Hợp đồng tín dụng ngày
01-9-2004. Giấy thoả thuận này chưa được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
công chứng, chứng thực và đăng ký theo quy định của pháp luật.
8
Tại Biên bản làm việc ngày 22-01-2007 hai bên thoả thuận:
“1. Công ty TTĐN đồng ý bàn giao, Ngân hàng đồng ý nhận lại các tài sản thế chấp
theo danh mục sau để xử lý thu hồi nợ:
Các tài sản theo danh mục tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 01 ngày 16-6-2004:
nguyên giá 5.151.256.000 đồng.
Trại nái 131 con theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 18-10-2004: nguyên giá
828.670.462 đồng.
Trạm nghiền thức ăn gia súc theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 3-4-2005: nguyên
giá 700.000.000 đồng.
Tổng giá trị theo nguyên giá là 6.733.926.462 đồng.
Các tài sản trên hiện đang đảm bảo cho khoản nợ vay tại Ngân hàng Hoằng Hoá với
số tiền gốc là 6.133.516.000 đồng”.
Tại biên bản làm việc ngày 10-02-2007, hai bên thông nhất bàn giao tài sản của
Công ty TTĐN theo hợp đồng đảm bảo, riêng đàn lợn theo đúng thực tế tại
thời điểm bàn giao và ấn định ngày bàn giao là ngày 13-02-2007.
Cũng trong ngày 10-02-2007, Công ty TTĐN ký Hợp đồng chuyển nhượng tài sản
gắn liền với đất với ông Lê Khả Thuỷ, bao gồm chuồng lợn 800 m2, tường rào bao
quanh, đường giao thông nội khu, hồ sinh thái, bể phốt, tháp nước và hệ thống cấp
nước, san lấp mặt bằng trên diện tích đất 7.746m 2 tại thôn 8 xã Hoằng Quang,
huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá... với giá 110.000.000 đồng và Công ty TTĐN
bán cho ông Lê Khả Thủy 300 con lợn thành tiền là 152.290.000 đồng. Ngày 11 và
13-02-2007, Công ty TTĐN bán cho ông Nguyễn Hữu Lợi 358 con lợn thành tiền
300.341.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12-02-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá yêu cầu Toà án nhân
dân huyện Hoằng Hoá buộc Công ty TTĐN phải thanh toán cho Ngân hàng Hoằng
Hoá số tiền nợ (cả gốc và lãi) của 4 Hợp đồng tín dụng nêu trên tính đến ngày 3101-2007, gồm: nợ gốc là 6.133.516.000 đồng và nợ lãi là 558.411.000 đồng với lý
do: Công ty TTĐN vi phạm hợp đồng, sử dụng vốn vay không đúng mục đích,
không có hiệu quả.
9
Ngày 13-02-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá và Công ty TTĐN tiến hành bàn giao
toàn bộ tài sản để xử lý thu hồi nợ. Tại biên bản bàn giao tài sản có nội dung:
“...bàn giao toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của Công ty TTĐN cho Ngân hàng
Hoằng Hoá để xử lý thu hồi nợ theo quyết định của pháp luật ...
1/ Nguyên tắc bàn giao
- Công ty TTĐN thực hiện bàn giao toàn bộ tài sản bảo đảm tiền vay và
hồ sơ về tài sản cho Ngân hàng...
- Phương thức xử lý tài sản đảm bảo được thực hiện theo điểm 5.2 khoản 5
mục 1 phần B quy định tại Thông tư 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCABTC-TCĐC ngày 23-4-2001...” (Kèm theo là Danh mục tài sản thế chấp bàn
giao tổng giá trị tài sản khi thế chấp là 6.732.229.528 đồng).
Ngày 22-02-2007, Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá thụ lý vụ án.
Cùng ngày 22-02-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn đề nghị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời kê biên, phong toả khu chuồng trại mới xây dựng trên các
thửa đất số 50, 51, tờ bản đồ số 8 tại xã Hoằng Quang và trên 1000 con lợn
của Công ty TTĐN giao cho Ngân hàng Hoằng Hoá quản lý, trông coi chăm
sóc cho đến khi định giá phát mại tài sản để thu hồi nợ; áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời để cấm di chuyển, chuyển nhượng khối tài sản.
Ngày 23-02-2007, Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa 1000 con lợn và khu trang trại trên thửa đất
50, 51, tờ bản đồ số 8 tại xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá; giao số lợn và
khu trang trại cho Ngân hàng Hoằng Hoá quản lý trông coi.
Ngày 26-02-2007, Công ty TTĐN có đơn khiếu nại đề nghị huỷ bỏ quyết định nêu
trên.
Ngày 27-02-2007, Chánh án Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá ra quyết định giải
quyết khiếu nại không chấp nhận đơn khiếu nại của Công ty TTĐN.
Ngày 12-3-2007, Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá chuyển hồ sơ vụ án lên Toà án
nhân dân tỉnh Thanh Hoá để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 20-3-2007, Toà án
nhân dân tỉnh Thanh Hoá thụ lý vụ án.
Ngày 30-3-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định huỷ bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời số 20/2007/QĐ-BPKCTT, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
10
được Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá áp dụng tại Quyết định số 01/2007/QĐBPKCTT ngày 23-02-2007; trả lại toàn bộ tài sản đang bị phong toả gồm 643 con
lợn và khu chuồng trại tại thửa đất 50, 51 tờ bản đồ số 8 xã Hoằng Quang, huyện
Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá cho chủ sở hữu là các ông Nguyễn Hữu Lợi và Lê Khả
Thuỷ.
Ngày 02-4-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá khiếu nại Quyết định số 20/2007/QĐBPKCTT nêu trên.
Ngày 04-4-2007, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra quyết định giải
quyết khiếu nại vối nội dung: giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời số 01/2007/QĐ-BPKCTT ngày 23-02-2007 của Toà án nhân dân huyện
Hoằng Hoá.
Ngày 24-4-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra quyết định huỷ bỏ Quyết định
huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 20 nêu trên.
Ngày 14-6-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện
đối với khoản nợ của 3 Hợp đồng tín dụng số 09, 12, 04 với số tiền gốc còn nợ
là 4.233.516.000 đồng ra khỏi vụ kiện vì khoản nợ gốc này cho vay có bảo
đảm bằng tài sản và ngày 13-02-2007, Công ty TTĐN đã bàn giao tài sản thế
chấp cho Ngân hàng Hoằng Hoá. Còn lại khoản tiền 1.900.000.000 đồng cho
vay không có bảo đảm bằng tài sản và tiền lãi tính đến ngày 31-5-2007 là
215.013.540 đồng đề nghị Toà án buộc Công ty TTĐN phải trả cho Ngân
hàng Hoằng Hoá.
Ngày 15-6-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định thay đổi biện pháp
khẩn cấp tạm thời số 38/2007/QĐ-BPKCTT cho bán số lợn hiện có đang được
phong toả theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
01/2007/QĐ-BPKCTT ngày 23-02-2007 của Toà án nhân dân huyện Hoằng
Hoá; số tiền bán lợn chuyển vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước tỉnh
Thanh Hoá của Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá để chờ xử lý.
Ngày 18-6-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn đề nghị tạm đình chỉ vụ án để có
thời gian bán đàn lợn theo Quyết định số 38 nêu trên của Toà án. Ngày 21-6-2007,
Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá bán đàn lợn theo quyết định của Toà án
11
được 1.022.105.000 đồng, trừ chi phí còn 1.010.915.000 đồng chuyển vào tài khoản
của Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Thanh Hoá.
Phía Ngân hàng trình bày: 03 Hợp đồng tín dụng số 09, 12, 04 với số dư nợ gốc
4.233.516.000 đồng là hợp đồng có đảm bảo, còn Hợp đồng tín dụng số 16 ngày 044-2005 với số tiền vay 1.900.000 đồng là hợp đồng không có đảm bảo. Việc công ty
TTĐN bán tài sản cho các ông Nguyễn Hữu Lợi và Lê Khả Thuỷ là để tẩu tán tài
sản và tài sản đó được hình thành từ vốn vay nên việc mua bán là trái pháp luật.
Phía công ty TTĐN trình bày: Cả 4 hợp đồng tín dụng đều là hợp đồng có bảo
đảm và có tổng số dư nợ gốc 6.133.516.000 đồng thấp hơn trị giá tài sản thế chấp
6.733.926.000 đồng. Ngân hàng đã nhận tài sản thế chấp để xử lý thu hồi nợ nhưng
chưa được xử lý xong đã khởi kiện là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Còn tài sản bị
Toà án phong toả là tài sản đã bán cho ông Thuỷ và ông Lợi, đề nghị trả tài sản cho
ông Lợi và ông Thuỷ.
12
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Việc mua bán tài sản
với Công ty TTĐN của họ là hợp pháp, tài sản mua bán không phải là tài sản
thế chấp hình thành từ vốn vay, tại thời điểm mua bán không có lệnh cấm và
diễn ra trước khi Ngân hàng khởi kiện: khi có quyết định phong toả tài sản
không còn thuộc quyền sở hữu của Công ty TTĐN, đề nghị Toà án huỷ bỏ
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trả lại tài sản đang bị
phong toả cho các ông.
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 06-07-2007, Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu
rút một phần đơn khởi kiện và đề nghị tạm đình chỉ vụ án. Hội đồng xét xử
chấp nhận yêu cầu của phía nguyên đơn xin rút một phần đơn khởi kiện (thể
hiện tại biên bản phiên toà sơ thẩm chứ không có quyết định mà chỉ ra Quyết
định số 03/2007/QĐST-KDTM ngày 06-7-2007 tạm đình chỉ giải quyết vụ án
kinh doanh thương mại sơ thẩm).
Ngày 10/7/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá kháng nghị;
Công ty TTĐN và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo.
Tại Quyết định số 213/2007/QĐ – PT ngày 05-11-2007, Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 03
nêu trên để giải quyết vụ án.
Ngày 26-11-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn bổ sung đơn khởi kiện và ngày
14-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi
kiện và đề nghị Toà án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử, buộc Công ty TTĐN
thanh toán số dư nợ có bảo đảm còn lại của các hợp đồng số 09, 12 và 04 là
987.926.264 đồng (sau khi khấu trừ tài sản cầm cố, thế chấp, bán đấu giá là
3.245.589.736 đồng) và số dư nợ không có bảo đảm là 1.900.000.000 đồng
(của Hợp đồng số 16) và tiền lãi; tổng cộng số nợ là 3.685.691.770 đồng
(trong đó, tiền gốc là 2.887.926.264 đồng, tiền lãi tính đến ngày 30-11-2007 là
797.656.500 đồng).
13
Ngày 21-12-2007, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số
15/2007/QĐST-KDTM đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ
thẩm, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho các đương
sự; đồng thời, ra Quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số
101/2007/QĐ-BPKCTT ngày 21-12-2007 với nội dung: "... Trả lại tài sản bị
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là khu chuồng trại trên thửa đất 50, 51,
tờ bản đồ số 08, xã Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá cho người mua là
ông Lê Khả Thuỷ; giao số tiền bán tài sản phong toả là 619 con lợn theo
Quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời số 38/2007/QĐ-BPKCTT
ngày 15-6-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá là 1.010.915.000 đồng
tại tài khoản số 9219.0000.0008 của Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá cho
người có lợn bị phong toả là ông Nguyễn Hữu Lợi và ông Lê Khả Thuỷ. Việc
phân chia số tài sản trên cho mỗi ngưồi do ông Lợi và ông Thủy tự giải quyết;
trả lại toàn bộ tài sản bảo đảm là 700.000.000 đồng tại tài khoản phong toả
được mở tại Ngân hàng NN và PTNT Chi nhánh Hoằng Hoá cho chính Ngân
hàng NN và PTNT Chi nhánh Hoằng Hoá...”.
Ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn kháng cáo Quyết định đình chỉ vụ
án số 15/2007/QĐST-KDTM.
Cùng ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn đề nghị Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tại Quyết định số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tốỉ cao tại Hà Nội quyết định: “Chấp nhận kháng cáo và đề nghị của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hoằng Hoá,
huỷ Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm
số 15/2007/QĐST-KDTM ngày 21-12-2007 và Quyết định huỷ bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời số 101/2007/QĐ-BPKCTT ngày 21-12-2007 của Toà án
nhân dân tỉnh Thanh Hoá; chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh
Thanh Hoá để tiếp tục giải quyết lại vụ án”.
14
Tại Quyết định kháng nghị số 17/KN-VKSTC-V12 ngày 10-11-2008, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giải quyết việc kháng
cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại số
71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng: Hủy Quyết định số 71/2008/QĐ-PT
ngày 31-3-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giữ
nguyên các Quyết định số 15/2007/QĐST-KDTM, Quyết định số
101/2007/QĐ- BPKCTT ngày 21-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh
Hoá.
XÉT THẤY:
1. Về tư cách tố tụng của nguyên đơn.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá – Chi nhánh Hoằng
Hoá được thành lập theo Quyết định số 340/QĐ-NHNN-02 ngày 19-6-1998
của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam “về việc thành lập đơn vị trực thuộc đơn vị thành viên hạch toán phụ
thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”.
Theo quy định tại khoản 3,4 và 5 Điều 92 Bộ luật dân sự, thì Ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá – Chi nhánh Hoằng Hoá là đơn vị
phụ thuộc của pháp nhân chứ không phải là pháp nhân.
Ngày 12-02-2007, ông Phạm Anh Thư – Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thông huyện Hoằng Hoá thực hiện việc khởi kiện
vụ án theo uỷ quyền của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam tại Quyết định số 781/QĐ/NHNN-TKPC ngày 13-62006 về việc uỷ quyền tham gia tố tụng, thi hành án.
15
Theo quy định tại Điều 92 Bộ Luât dân sự; Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự, tiểu mục
1.4 và điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 Phần I của Nghị quyết số 02/2006/NQHĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp
sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự hướng dẫn việc pháp nhân khởi kiện và
uỷ quyền khởi kiện vụ án dân sự, thì trong vụ án này nguyên đơn phải là Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam như Toà án cấp phúc
thẩm đã xác định; do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao cho rằng nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Thanh Hoá – Chi nhánh Hoằng Hoá là không có căn cứ chấp nhận.
2. Về điều kiện khởi kiện
Tại điều 9 của Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD ngày 0/4/2005 (sau đây gọi tắt là
Hợp đồng số 16/HĐTD ngày 04-4-2005 (sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 16),
quy định: “Đến hạn Công ty không trả được nợ gốc và lãi. Ngân hàng được
quyền xử lý tài sản mà đã thế chấp để thu hồi nợ gốc và lãi”.
Thực tế thì hai bên không xác lập hợp đồng thế chấp tài sản nào để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ tại Hợp đồng số 16 mà chỉ xác lập Giấy thoả thuận đăng ký lại
nghĩa vụ được bảo đảm nợ vay Ngân hàng không đề ngày chỉ ghi tháng
4/2005 về việc dùng tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo Hợp
đồng số 16.
16
Tuy nhiên, Giấy thoả thuận trên chưa được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo
đúng quy định tại Điều 7 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của
Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; Điều 2 và Điều 19
Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10-3-2000 của Chính phủ về đăng ký giao
dịch bảo đảm (quy định về những trường hợp phải được đăng ký tại cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm và thủ tục thay đổi nội dung đã đăng ký giao dịch
bảo đảm); điểm b khoản 1 Điều 64 và khoản 3 Điều 153 Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai
bằng quyền sử dụng đất); đoạn 2 mục 6 phần III Thông tư số 07/2003 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng (Mỗi lần cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
bằng một tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ, các bên phải lập
thành văn bản và đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm).
***
Bản thân Ngân hàng Hoằng Hoá cũng xác định Hợp đồng tín dụng số 16 là hợp
đồng không có bảo đảm; còn Công ty TTĐN thì cho rằng Hợp đồng này là
hợp đồng có bảo đảm theo Giấy thoả thuận nêu trên. Vì vậy, do Giấy thoả
thuận đăng ký lại nghĩa vụ được bảo đảm nợ vay Ngân hàng đề tháng 4/2005
chưa được các bên thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và có tranh
chấp nên không có hiệu lực thi hành.
17
Tuy tại các Biên bản làm việc ngày 22-01-2007 và ngày 10-02-2007, Ngân hàng
Hoằng Hoá và Công ty TTĐN đã thoả thuận: Ngân hàng Hoằng Hoá nhận bàn
giao nguyên trạng tài sản của Công ty TTĐN theo đúng các danh mục mục tại
các hợp đồng đảm bảo tiền vay đã ký để xử lý thu hồi nợ và ngày 13- 022007, hai bên đã tiến hành bàn giao toàn bộ tài sản bảo đảm tiền vay thuộc sở
hữu của Công ty TTĐN cho Ngân hàng Hoằng Hoá để xử lý thu hồi nợ
nhưng đây là sự thoả thuận của các đương sự trong quá trình thanh toán nợ
với nhau, không thể coi mục 5 mục I phần B Thông tư liên tịch số
03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA- BTC-TCĐC ngày 23-4-2001 hướng dẫn
việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng; ngoài
ra, các bên không có sự thoả thuận nào khác. Mặt khác, theo quy định tại
khoản 2 Điều 54 Luật các tổ chức tín dụng thì không bắt buộc phải xử lý
tài sản bảo đảm xong mới có quyền khởi kiện tại Toà án. Pháp luật hiện
hành không có quy định bắt buộc phải xử lý tài sản bảo đảm xong mới có
quyền khởi kiện vụ án tại Toà án. Mặt khác, hợp đồng có bảo đảm hay
không có bảo đảm cũng không ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của đương
sự. Hơn nữa, ngày 13-02-2007 Công ty TTĐN bàn giao tài sản thế chấp
cho Ngân hàng Hoằng Hoá là để xử lý thu hồi nợ của các hợp đồng tín
dụng mà hai bên đã ký kết và thực hiện chứ không chỉ để thanh toán cho
riêng một hợp đồng tín dụng nào. Mặt khác, tuy nguyên đơn đã rút một
phần yêu cầu khởi kiện ban đầu đối với 03 Hợp đồng tín dụng số 09, 04 và
12, chỉ yêu cầu giải quyết tranh chấp về Hợp đồng tín dụng số 16; nhưng
sau khi Toà án cấp phúc thẩm (lần 1) hủy quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm, thì Ngân hàng Hoằng Hoá đã có đơn
khởi kiện bổ sung yêu cầu Toà án buộc Công ty TTĐN phải thanh toán số
tiền còn thiếu của 4 Hợp đồng 09, 04, 12 và 16 do bán tài sản thế chấp
không bù trừ đủ số nợ gốc. Ngoài ra, Ngân hàng Hoằng Hoá, Công ty
TTĐN và hai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có tranh chấp về
tài sản bị đem bán theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
của Toà án. Vì vậy, Toà án phải tiếp tục giải quyết vụ án mà không thể
18
đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện như Toà án
cấp sơ thẩm đã quvết định và kháng nghị nêu.
Tuy nhiên, khi tiến hành giải quyết lại vụ án, Toà án cấp sơ thẩm cần hướng
dẫn cho nguyên đơn làm lại đơn khởi kiện theo đúng quy định tại Điều
164 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006.
Nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu phản tố thì
cũng phải thực hiện theo đúng quy đinh của pháp luật về tố tụng.
3. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Ngày 24-12-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá kháng cáo Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm; đồng thời Ngân hàng Hoằng Hoá cũng có
đơn yêu cầu Toà án cấp Phúc thẩm ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời phong toả tiền và tài sản. Lẽ ra, trong trường hợp này, Toà án cấp phúc
thẩm phải căn cứ vào Điều 261 của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục
13 Nghị quyết số 02/2005/HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hưống dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các
biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự để quyết định áp dụng hay
không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của Ngân hàng Hoằng
Hoá mới đúng pháp luật. Nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại tiến hành giải quyết
đơn theo như thủ tục kháng cáo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bằng Quyết
định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ vụ án kinh doanh
thương mại sơ thẩm số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008 và tuyên huỷ Quyết định
huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2007/QĐ-BPKCTT ngày 21-12-2007
của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá là không đúng pháp luật. Đây là vụ án kinh
doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng theo quy định tại điểm m
khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự “Đầu tư, tài chính, ngân hàng” nên theo
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 và điểm a khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng
dân sự thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là của Toà án nhân dân tỉnh
Thanh Hoá. Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá đã thụ lý vụ án
để giải quyêt là sai thẩm quyền, dẫn đến việc Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2007/QĐ-BPKCTT ngày
19
23-02-2007 cũng là không đúng pháp luật, việc đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao giữ nguyên Quyết định số 101/2007/QĐ-BPKCTT ngày 2112-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá là không đúng pháp luật. Bởi vì,
việc xem xét, giải quyết, áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời được thực hiện theo quy định tại Chương VIII Bộ luật tố tụng dân sự chứ
không xem xét, giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm.
Vì vậy, khi Toà án cấp sơ thẩm tiến hành thụ lý, giải quyết lại vụ án thì xem xét
việc có áp dụng hay không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo đúng
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, cản cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 2 và
Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
Huỷ Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối vối quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 71/2008/QĐ-PT ngày 31-3-2008 của
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Quyêt định đình chi giải
quyết vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 15/2007/QĐST-KDTM ngày
21-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá;
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá giải quyết, xét xử lại theo
đúng quy định của pháp luật.
20
2. BÌNH LUẬN BẢN ÁN.
2.1.
-
Tóm tắt bản án.
Nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh
Hóa.
-
Bị đơn: Công ty cổ phần Thương mại và phát triển gia súc TTĐN; có
trụ sở tại Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá; do ông
Nguyễn Hữu Thơm -Giám đốc Công ty đại diện.
-
Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:
+ Ông Nguyễn Hữu Lợi; trú tại thôn 7, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng
Hoá, tỉnh Thanh Hoá;
+ Ông Lê Khả Thủy; trú tại thôn Anh Vinh, xã Hoằng Thịnh, huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hoá - Chi
nhánh Hoằng Hoá (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Hoằng Hoá) và Công ty cổ
phần thương mại và phát triển gia súc TTĐN (sau đây gọi tắt là Công ty
TTĐN) có ký kết 04 Hợp đồng tín dụng, cụ thể như sau:
1/ Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24-6-2004, với số tiền vay là
3.500.000.000 đồng; thời hạn cho vay 60 tháng; ngày trả hết nợ (gốc và lãi) là 24-62009. Ngày 16-6-2004, hai bên ký kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất số 01/TC, tài sản thế chấp là quyền sử dụng 16.970m 2 đất
và tài sản hình thành từ vốn vay gắn liền với đất, giá trị tài sản bảo đảm là
5.380.351.000 đồng.
2/ Hợp đồng tín dụng số 12/HĐTD ngày 28-10-2004, với số tiền vay là
600.000.000 đồng; thời hạn cho vay 60 tháng; ngày trả hết nợ (cả gốc và lãi) là
28-10-2009. Cùng ngày, hai bên ký Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản hình
thành từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là 850.000.000
đồng.
3/ Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD ngày 04-4-2005, với số tiền cho vay là
525.000.000 đồng; thời hạn cho vay 60 tháng; ngày trả hết nợ (cả gốc và lãi) là
ngày 04-4-2010. Cùng ngày, hai bên ký kết Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản
hình thành từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là
21
700.000.000 đồng.
4/ Hợp đồng tín dụng số 16/HĐTD ngày 04-4-2005, với số tiền cho vay là
1.900.000.000 đồng; thời hạn cho vay là 12 tháng; ngày trả hết nợ là ngày 04-42006; tiền vay được bảo đảm theo thoả thuận trong Hợp đồng đảm bảo tiền vay
kèm theo hợp đồng vay; đến hạn Công ty không trả được nợ gốc và lãi, Ngân hàng
được quyền xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ gốc và lãi.
Cũng trong ngày 10-02-2007, Công ty TTĐN ký Hợp đồng chuyển nhượng tài sản
gắn liền với đất với ông Lê Khả Thuỷ, bao gồm chuồng lợn 800 m2, tường rào bao
quanh, đường giao thông nội khu, hồ sinh thái, bể phốt, tháp nước và hệ thống cấp
nước, san lấp mặt bằng trên diện tích đất 7.746m 2 tại thôn 8 xã Hoằng Quang,
huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá... với giá 110.000.000 đồng và Công ty TTĐN
bán cho ông Lê Khả Thủy 300 con lợn thành tiền là 152.290.000 đồng. Ngày 11
và 13-02-2007, Công ty TTĐN bán cho ông Nguyễn Hữu Lợi 358 con lợn thành
tiền 300.341.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12-02-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá yêu cầu Toà án
nhân dân huyện Hoằng Hoá buộc Công ty TTĐN phải thanh toán cho Ngân hàng
Hoằng Hoá số tiền nợ (cả gốc và lãi) của 4 Hợp đồng tín dụng nêu trên tính đến
ngày 31-01-2007, gồm: nợ gốc là 6.133.516.000 đồng và nợ lãi là 558.411.000
đồng với lý do: Công ty TTĐN vi phạm hợp đồng, sử dụng vốn vay không đúng
mục đích, không có hiệu quả.
Ngày 14-6-2007, Ngân hàng Hoằng Hoá có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi
kiện đối với khoản nợ của 3 Hợp đồng tín dụng số 09, 12, 04 với số tiền gốc còn
nợ là 4.233.516.000 đồng ra khỏi vụ kiện vì khoản nợ gốc này cho vay có bảo đảm
bằng tài sản và ngày 13-02-2007, Công ty TTĐN đã bàn giao tài sản thế chấp cho
Ngân hàng Hoằng Hoá. Còn lại khoản tiền 1.900.000.000 đồng cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản và tiền lãi tính đến ngày 31-5-2007 là 215.013.540 đồng đề
nghị Toà án buộc Công ty TTĐN phải trả cho Ngân hàng Hoằng Hoá.
Phía Ngân hàng trình bày: 03 Hợp đồng tín dụng số 09, 12, 04 với số dư nợ gốc
4.233.516.000 đồng là hợp đồng có đảm bảo, còn Hợp đồng tín dụng số 16 ngày
04-4-2005 với số tiền vay 1.900.000 đồng là hợp đồng không có bảo đảm. Việc
công ty TTĐN bán tài sản cho các ông Nguyễn Hữu Lợi và Lê Khả Thuỷ là để tẩu
22
tán tài sản và tài sản đó được hình thành từ vốn vay nên việc mua bán là trái pháp
luật.
23
Phía công ty TTĐN trình bày: Cả 4 hợp đồng tín dụng đều là hợp đồng có bảo
đảm và có tổng số dư nợ gốc 6.133.516.000 đồng thấp hơn trị giá tài sản thế
chấp 6.733.926.000 đồng. Ngân hàng đã nhận tài sản thế chấp để xử lý thu hồi
nợ nhưng chưa được xử lý xong đã khởi kiện là chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Còn tài sản bị phong toả của Toà án thì tài sản đã bán cho ông Thuỷ và ông
Lợi, đề nghị trả tài sản cho ông Lợi và ông Thuỷ.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Việc mua bán tài sản
với Công ty TTĐN của họ là hợp pháp, tài sản mua bán không phải là tài sản
thế chấp hình thành từ vốn vay, tại thời điểm mua bán không có lệnh cấm và
diễn ra trước khi Ngân hàng khởi kiện: khi có quyết định phong toả tài sản
không còn thuộc quyền sở hữu của Công ty TTĐN, đề nghị Toà án huỷ bỏ
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trả lại tài sản đang bị
phong toả cho các ông.
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 06-07-2007, Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu
rút một phần đơn khởi kiện và đề nghị tạm đình chỉ vụ án. Hội đồng xét xử
chấp nhận yêu cầu của phía nguyên đơn xin rút một phần đơn khởi kiện (thể
hiện tại biên bản phiên toà sơ thẩm chứ không có quyết định mà chỉ ra Quyết
định số 03/2007/QĐST-KDTM ngày 06-7-2007 tạm đình chỉ giải quyết vụ án
kinh doanh thương mại sơ thẩm).
Ngày 10/7/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá kháng nghị;
Công ty TTĐN và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo.
Tại Quyết định số 213/2007/QĐ – PT ngày 05-11-2007, Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 03
nêu trên để giải quyết vụ án.
24