LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH
CHƯƠNG 3 : TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
3.2.tổ chức tài chính doanh nghiệp
3.2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức TCDN
3.2.1.1. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, ở nước ta hiện nay có các loại hình
doanh nghiệp sau đây:
- Doanh nghiệp nhà nước.
- Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty hợp danh.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các loại hình doanh nghiệp khác nhau chi phối đến việc tổ chức, huy động vốn
cũng như việc phân chia lợi nhuận cũng khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà
nước được Ngân sách nhà nước đầu tư vốn toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban
đầu. Ngoài vốn nhà nước đầu tư, doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới các
hình thức phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận góp liên doanh… nhưng không thay
đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế được
thực hiện theo quy định của chính phủ. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn là do
chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra, cũng có thể huy động thêm từ bên ngoài dưới
hình thức đi vay. Loại doanh nghiệp này không được phép phát hành một loại
chứng khoán nào trên thị trường để tăng vốn. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền
sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
thì vốn điều lệ của công ty là do các thành viên đóng góp. Trong quá trình hoạt
động vốn có thể tăng nên nhờ kết nạp thêm thành viên mới, trích từ quỹ dự trữ
hoặc đi vay bên ngoài nhưng không được phép phát hành chứng khoán. Việc phân
chia lợi nhuận sau thuế do các thành viên quyết định, mức lợi nhuận các thành viên
nhận được phụ thuộc vào vốn đóng góp…
3.2.1.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh
Tổ chức tài chính doanh nghiệp còn dựa vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành
kinh doanh. Mỗi ngành kinh doanh có đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật riêng.
Những đặc điểm đó đã ảnh hưởng đến cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp
(ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến vốn cố định chiếm tỷ trọng
khác nhau trong tổng số vốn kinh doanh); ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn
(tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp sản xuất chậm hơn tốc độ luân chuyển
vốn của các doanh nghiệp thương mại dịch vụ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
có tính chất thời vụ khác với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh liên tục…).
3.2.1.3. Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt
động của doanh nghiệp. Do đó, việc tổ chức tài chính doanh nghiệp phải tính đến
tác động của môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh bao gồm: sự ổn định về kinh tế, thị trường, lãi suất, cơ sở
hạ tầng của nền kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chính sách
kinh tế, tài chính của nhà nước… Sự ổn định của nền kinh tế sẽ tạo môi trường
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế biến động có
thể gây nên những rủi ro cho kinh doanh, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản
chi phí đầu tư, ảnh hưởng nhu cầu về vốn, ảnh hưởng tới thu nhập của doanh
nghiệp, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển cũng ảnh hưởng đến tiết kiệm chi
phí trong kinh doanh…
Thị trường, gia cả, lãi suất đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thị trường tài chính, thị trường hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài cũng như mua vật tư, thiết bị bán hàng
hoá của doanh nghiệp được dễ dàng.
Giá cả, lãi suất đều ảnh hưởng tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn
của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả
năng huy động vốn vay.
Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng cải
tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ đảm bảo cho sản phẩm của doanh nghiệp tồn tại
và phát triển, đứng vững trong cạnh tranh. Từ đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn
đầu tư lớn và chọn hướng đầu tư thích hợp…Chính sách kinh tế và tài chính của
nhà nước đối với doanh nghiệp (như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách
thuế, chính sách tín dụng và lãi suất, chính sách ngoại hối, chế độ khấu hao…) phù
hợp với môi trường tài chính vĩ mô sẽ ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
đầu tư phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp tích tụ vốn, sử dụng vốn tiết
kiệm và có hiệu quả.
3.2.2 Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Tổ chức tài chính của doanh nghiệp không những chỉ dựa vào các nhân tố trên mà
còn phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng luật pháp
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều hướng
tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh với bất
cứ giá nào có thể phương hại tới lợi ích quốc gia, đến lợi ích của các doanh nghiệp
khác. Do đó, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường phải có bàn
tay hữu hình của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nước đã sử dụng hàng
loạt các công cụ như luật pháp, chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả… để quản lý vĩ
mô nền kinh tế. Các công cụ đó một mặt tạo điều kiện kích thích mở rộng đầu tư,
tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh doanh rất
chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải
tôn trọng luật pháp. Doanh nghiệp phải hiểu luật để đầu tư đúng hướng – nơi được
nhà nước khuyến khích (như giảm thuế, tài trợ tín dụng…)
Thứ hai: Nguyên tắc hạch toán kinh doanh
Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống còn
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu tối cao của nguyên tắc
này là lấy thu bù chi, có doanh lợi. Nó hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của
cácdoanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa. Do có sự thống nhất
đó nên hạch toán kinh doanh không chỉ là điều kiện để thực hiện mà còn là yêu cầu
bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nếu như không muốn doanh nghiệp bị
phá sản. Thế nhưng hạch toán kinh doanh chỉ có thể được phát huy tác dụng trong
môi trường đích thực là nền kinh tế hàng hoá mà đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị
trường và doanh nghiệp được tự chủ về mặt tài chính, tự chủ trong kinh doanh.
Doanh nhiệp được quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, chủ động
lựa chọn ngành nghề, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư kinh doanh, góp vốn vào các
doanh nghiệp khác; lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, chủ động tìm
kiếm thị trường khách hàng và ký kết hợp đồng; tuyển thuê và sử dụng lao động
theo yêu cầu kinh doanh; chủ động áp dụng phương thức quản lý khoa học hiện đại
để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Mục tiêu hiệu quả kinh tế phải được
coi là mục tiêu bao trùm chi phối hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Thứ ba: Nguyên tắc giữ chữ tín
Giữ chữ tín không chỉ là một tiêu chuẩn đạo đức trong cuộc sống đời thường mà
còn là nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung và trong tổ chức tài
chính doanh nghiệp nói riêng. Trong thực tế kinh doanh cho thấy, kẻ làm mất chữ
tín, chỉ ham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là nguy cơ dẫn đến phá sản.
Do đó trong tổ chức tài chính doanh nghiệp để giữ chữ tín cần tôn trọng nghiêm
ngặt các kỉ luật thanh toán, chi trả các hợp đồng kinh tế, các cam kết về góp vốn
đầu tư, và phân chia lợi nhuận. Mặt khác để giữ chữ tín doanh nghiệp cũng cần
mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật để nâng cao chất lượng sản
phẩm để luôn giữ được giá trị của nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp.
Thứ tư: Nguyên tắc an toàn phòng ngừa rủi ro
Đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc cũng được coi là nguyên tắc quan
trọng trong kinh doanh nói chung và tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng.
Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh có
hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của công tác tổ
chức tài chính doanh nghiệp: an toàn trong việc lựa chọn nguồn vốn, an toàn trong
việc lựa chọn đối tác đầu tư liên doanh, an toàn trong việc sử dụng vốn…An toàn
và mạo hiểm trong kinh doanh là hai thái cực đối lập nhau. Mạo hiểm trong đầu tư
thường phải chấp nhận nhiều rủi ro lớn, nhưng cũng thường thu được lợi nhuận cao
và ngược lại. Điều này đòi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết sách đúng
đắn trong các thời cơ thích hợp để lựa chọn phương án đầu tư vừa đảm bảo an
toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phương án an toàn
trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc
tham gia bảo hiểm. Mặt khác, việc thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu
cũng là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các cổ đông nhằm
tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
3.3. Những nội dung chủ yếu của của hoạt động tài chính doanh nghiệp
3.3.1. Vốn kinh doanh
- Khái niệm Vốn kinh doanh : là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản
hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
- Đặc trưng của Vốn kinh doanh:
+ Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các
bước tiếp theo của quá trình kinh doanh.
+ Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp l à một quỹ tiền tệ đặc biệt vì nó có quá
trình tạo lập, bổ sung, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ và nhằm phục vụ cho sản
xuất kinh doanh tức là mục đích tích lũy.
+ Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có tr ước khi diễn ra hoạt động sản
xuất kinh doanh.
+ Vốn kinh doanh phải đạt tới mục ti êu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái
biểu hiện vừa tồn tại dưới hình thái tiền vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài
sản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.
3.3.2. Nguồn vốn kinh doanh
Vốn đầu tư của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn khác nhau:
nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh
nghiệp.
Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì nguồn vốn chủ sở hữu hình
thành vốn điều lệ do chủ doanh nghiệp, các nh à đầu tư góp vốn, được sử
dụng để đầu tư, mua sắm các loại tài sản của doanh nghiệp. Cách thức huy động
nguồn vốn chủ sở hữu đối với các loại h ình doanh nghiệp khác nhau thì khác
nhau, tùy theo đó là công ty c ổ phần, doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà
nước...
Trong quá trình hoạt động, nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung từ kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vai trò của nguồn vốn chủ sở hữu đối với quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho chủ doanh nghiệp chủ động ho àn toàn
trong sản xuất.
+ Giúp chủ doanh nghiệp có cơ sở để chủ động và kịp thời đưa ra các
quyết sách quyết định trong kinh doanh để đạt đ ược các mục tiêu của doanh
nghiệp mà không phải tìm kiếm và phụ thuộc vào nguồn vốn tài trợ.
- Hạn chế của nguồn vốn chủ sở hữu :
Nguồn vốn chủ sở hữu thường bị hạn chế về quy mô nên không đáp ứng
mọi nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh
Việc sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu không chịu sức ép về chi phí sử
dụng vốn và có thể thiếu sự kiểm tra, giám sát hoặc t ư vấn của các chuyên gia, các
tổ chức như trong sử dụng nguồn vốn đi vay, do đó có thể hiệu quả sử dụng vốn
không cao.
- Các khoản nợ phải trả: là nguồn vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy
động từ các chủ thể khác qua vay nợ, thu ê mua, ứng trước tiền hàng… mà doanh
nghiệp được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian sau đó phải hoàn trả cho
chủ nợ.
Theo tính chất và thời hạn thanh toán gồm có các loại:
+ Nợ ngắn hạn: là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải trả cho chủ nợ
trong một thời hạn ngắn, bao gồm các khoản nh ư: vay ngắn hạn; phải trả cho
người bán, người nhận thầu; người mua trả tiền trước; thuế và các khoản phải nộp
cho Nhà nước; các khoản phải trả, phải nộp khác…
+ Nợ dài hạn: là các khoản vốn mà doanh nghiệp nợ các chủ thể khác
trên một năm mới phải hoàn trả, bao gồm vay dài hạn cho đầu tư phát triển, nợ
thuê mua tài sản cố định, phát hành trái phiếu.
+ Nợ khác: là các khoản phải trả như nhận ký quỹ, ký cược dài hạn, các
khoản chi phí phải trả khác.
- Vai trò của nguồn vốn nợ phải trả trong quá tr ình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp:
+ Việc huy động các nguồn vốn n ày là rất quan trọng đối với doanh
nghiệp để đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn tiết kiệm v à hiệu quả vì nguồn
vốn này phải chịu sức ép về chi phí sử dụng vốn vay, thời hạn hoàn trả.
+ Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tranh thủ chiếm dụng sử dụng các
khoản nợ phải trả trong thời hạn cho phép, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh.
- Hạn chế của nguồn vốn nợ phải trả:
+ Doanh nghiệp phụ thuộc vào nguồn vốn vay, tốn kém về chi phí, về
thời gian.
+ Trong trường hợp không tính toán chính xác v à thận trọng, hiệu quả
kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị ảnh h ưởng bởi lãi suất tiền vay.
3.3.3. Quản lý và bảo toàn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
* Vốn cố định của doanh nghiệp
- Khái niệm : Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn
bộ tài sản cố định (TSCĐ) của doanh nghiệp.
TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng
dài, có chức năng là tư liệu lao động.
- Phân loại TSCĐ : Tài sản cố định của doanh nghiệp chia th ành ba loại:
+ TSCĐ hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà
xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải... trực tiếp hoặc giá n tiếp phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như
chi phí để mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả...
+ TSCĐ thuê tài chính: là những TSCĐ mà doanh nghiệp thuê của các
công ty cho thuê tài chính.
- Đặc điểm TSCĐ :
+ Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ không thay đổi hình thái
hiện vật ban đầu và TSCĐ có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
+ Năng lực sản xuất của TSCĐ bị giảm dần do chún g bị hao mòn. Có hai loại hao
mòn: Hao mòn hữu hình là hao mòn có liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của
TSCĐ và hao mòn vô hình là hao mòn có liên quan tới việc mất giá của TSCĐ.
- Đặc điểm của vốn cố định:
+ Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xu ất sản phẩm và chuyển dần
từng phần vào giá thành sản phẩm tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố
định.
+ Vốn cố định được thu hồi dần từng phần tương ứng với phần hao mòn
của tài sản cố định, đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được thu
hồi về đủ thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
+ Vốn cố định được bù đắp (thu hồi) bằng biện pháp khấu hao, tức l à
trích lại phần giá trị hao mòn của tài sản cố định. Tiền trích lại đó h ình thành nên
quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để duy trì năng lực sản xuất bình thường của
TSCĐ và dùng để tái sản xuất toàn bộ TSCĐ.
- Quản lý và bảo toàn vốn cố định :
+ Quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý h ình thái hiện
vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp hay quản lý vốn cố định bao hàm cả
quản lý về mặt giá trị và quản lý mặt hiện vật của nó.
+ Quản lý mặt giá trị của vốn cố định là quản lý quỹ khấu hao do đó, cần
phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác,
tạo cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn, cần phải lựa chọn
phương pháp khấu hao thích hợp để đảm bảo thu hồi vốn nhanh và bảo toàn được
vốn.
+ Quản lý mặt hiện vật của vốn cố định là quản lý TSCĐ do đó, cần phải
phân loại TSCĐ theo những tiêu thức khác nhau (phân loại theo hình thái biểu
hiện, theo mục đích sử dụng, theo công dụng kinh tế, theo t ình hình sử dụng)
để từ đó xác định trọng tâm của công tác quản lý.
+ Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ giữ nguy ên hình thái
vật chất mà phải duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó.
+ Trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, không
làm mất tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo d ưỡng nhằm duy trì
và nâng cao năng lực họat động của TSCĐ, không để TSCĐ hư hỏng trước thời
hạn quy định.
+ Phải bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị, duy trì được sức mua của vốn
cố định ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu t ư ban đầu bất kể sự
biến động của giá cả, tỷ giá hối đoái, tiến bộ khoa học kỹ thuật.
* Vốn lưu động của doanh nghiệp
- Khái niệm : Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản lưu
động (TSLĐ) của doanh nghiệp phục vụ cho quá tr ình kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Tài sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm:
+ Tài sản lưu động sản xuất (nguyên, nhiên vật liệu; bán thành phẩm; sản
phẩm dở dang...).
+ Tài sản lưu thông (thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn
trong thanh toán...).
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài sản
lưu động lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hóa lẫn nhau, đảm bảo cho
quá trình sản xuất được tiến hành liên tục.
- Đặc điểm của tài sản lưu động:
+ Tài sản lưu động chỉ tham gia vào từng chu kỳ sản xuất của doanh
nghiệp
+ Tài sản lưu động bị tiêu dùng hoàn toàn trong việc chế tạo ra sản
phẩm và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu.
- Đặc điểm của vốn lưu động :
+ Vốn lưu động chuyển một lần toàn bộ giá trị vào giá thành sản phẩm
mới được tạo ra.
+ Vốn lưu động được thu hồi một lần toàn bộ sau khi bán hàng đi thu tiền về và lúc
đó kết thúc vòng tuần hoàn của vốn.
- Quản lý Vốn lưu động :
+ Phải quản lý vốn lưu động trên tất cả các hình thái biểu hiện.
+ Phải tiến hành phân loại vốn lưu động theo các tiêu thức khác nhau:
+ Phân loại theo vai trò của từng loại vốn lưu động trong sản xuất kinh
doanh gồm vốn lưu động ở khâu dự trữ, khâu sản xuất v à khâu lưu thông.
+ Phân loại theo hình thái biểu hiện gồm vốn vật tư hàng hóa và vốn bằng tiền.
+ Phân loại theo quan hệ sở hữu hoặc theo nguồn h ình thành.
Từ đó giúp cho doanh nghiệp xác định đúng trọng điểm và quản lý vốn
hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
3.3.4. Chi phí kinh doanh, giá thành sản phẩm
- Khái niệm Chi phí sản xuất kinh doanh : Chi phí sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về vật chất và lao
động mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
- Vai trò của quản lý chi phí trong doanh nghiệp :
+ Quản lý chặt chẽ chi phí sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí từ đó hạ
giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận.
+ Quản lý chi phí sẽ giúp doanh nghiệp tính đ ược giá thành sản phẩm
một cách chính xác để đưa ra giá bán đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp mà vẫn
có lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
+ Quản lý và sử dụng hiệu quả chi phí sẽ hạn chế và ngăn chặn được
những khoản chi phí không hợp lý, chống l ãng phí và các hiện tượng tiêu cực.
- Khái niệm Giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
là biểu hiểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn
thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại hoặc mội khối lượng sản phẩm nhất định.
-Vai trò của Giá thành sản phẩm trong quản lý các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp :
+ Giá thành là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh.
+ Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức,
kỹ thuật.
+ Giá thành là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính
sách giá cả đối với từng loại sản phẩm.
- Biện pháp hạ giá thành sản phẩm :
+ Áp dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật v à công nghệ
vào sản xuất
+ Tổ chức lao động và sử dụng con người một cách hợp lý
+ Bố trí hợp lý các khâu sản xuất, hạn chế sự l ãng phí nguyên liệu, giảm
thấp tỷ lệ sản phẩm hỏng.
+ Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu, tránh
những tổn thất trong sản xuất...
3.3.5. Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
- Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm:
+ Doanh thu hoạt động kinh doanh là toàn bộ khoản doanh thu về tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Đây là bộ phận chủ yếu trong tổng doanh thu của
doanh nghiệp.
+ Doanh thu từ các hoạt động tài chính bao gồm các khoản thu từ hoạt
động liên doanh, liên kết, tiền lãi cho vay, mua bán chứng khoán và các
nghiệp vụ đầu tư tài chính khác...
+ Doanh thu bất thường là những khoản doanh thu không mang tính chất
thường xuyên, như thu về nhượng bán tài sản cố định, vật tư ứ đọng; các
khoản được bồi thường, các khoản nợ vắng chủ.....
- Vai trò của Doanh thu đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp:
+ Doanh thu là nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các khoản chi phí
sản xuất kinh doanh, đảm bảo thực hiện quá tr ình tái sản xuất giản đơn cũng như
tái sản xuất mở rộng.
+ Doanh thu là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối với Nh à
nước, đối với khách hàng đối với các cổ đông tham gia các hoạt động liên doanh,...
+ Doanh thu là một trong những chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và có những quyết định phù hợp .
- Biện pháp để tăng doanh thu:
+ Quan tâm đến chất lượng sản phẩm vì chất lượng sản phẩm, cần mở
rộng các hoạt động tiếp thị nhằm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận.
+ Xác định một giá bán hợp lý, linh hoạt để tác động v ào cầu, kích thích
tăng cầu của người tiêu dùng để tăng doanh thu tiêu thụ.
+ Đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt các khoản nợ phải thu, xử lý tốt
những khoản nợ nần
+ Trong phân phối lợi nhuận cần giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích
giữa doanh nghiệp, người lao động và Nhà nước và phải dành phần lợi nhuận để lại
thích đáng cho nhu cầu tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp.
- Khái niệm Lợi nhuận : Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền
chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh
thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đ ưa lại.
- Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm : Lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh, Lợi nhuận từ hoạt động khác như hoạt động liên doanh, liên kết, các hoạt
động thuộc các dịch vụ tài chính...
- Vai trò của Lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
+ Lợi nhuận là mục tiêu, là đòn bẩy kinh tế quan trọng đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị tr ường.
+ Lợi nhuận là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
+ Lợi nhuận là nguồn tích lũy cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội.
- Phân phối lợi nhuận:
Lợi nhuận của doanh nghiệp được phân phối theo trình tự sau:
+ Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước.
+ Bù các khoản lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
+ Nộp tiền thu sử dụng vốn NSNN (nếu có). Nay khoản này theo thông
tư số 30/2002 TT-BTC ngày 27/3/2002 Nhà nước không thu mà doanh nghiệp để
lại bổ sung vốn của doanh nghiệp.
+ Trả các khoản tiền bị phạt, bồi thường do vi phạm pháp luật Nhà nước.
+ Trừ các khoản chi phí thực tế đã chi nhưng không được tính vào chi
phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế.
+ Trả lợi tức cổ phần, chia lãi cho các đối tác góp vốn liên doanh (nếu
có).
+ Còn lại trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp như: quỹ dự
phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi.
Sau khi trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo mức quy định nếu
còn thì bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển.
CHƯƠNG 4 : BẢO HIỂM
4.1. Những vấn đề chung về Bảo hiểm
- Khái niệm Bảo hiểm: Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn với quá
trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro, các
biến cố bảo hiểm, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội diễn ra
bình thường.
- Vai trò của Bảo hiểm : Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động bảo hiểm có vai
trò hết sức to lớn. Vai trò đó được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
+ Bảo hiểm góp phần bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời
sống của người tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm đảm bảo nhu cầu an to àn về mặt vật
chất và tài chính trước rủi ro cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, cá nhân
như rủi ro cháy, động đất, trộm cắp,… Đây là tác dụng chính và chủ yếu của hoạt
động bảo hiểm.
+ Bảo hiểm góp phần phòng tránh, hạn chế tổn thất, đảm bảo an to àn
cho sản xuất và đời sống. Các tổ chức và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tổ
chức các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất; tổ chức thực hiện các biện pháp đề
phòng có hiệu quả nhất, nhằm giảm thấp mức tổn thất xảy ra; khuyến khích người
tham gia bảo hiểm làm tốt công tác đề phòng, hạn chế tổn thất bằng cách giảm phí
bảo hiểm.
+ Bảo hiểm góp phần cung ứng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Bảo
hiểm hoạt động với tư cách là các tổ chức tài chính trung gian, một tụ điểm tài
chính quan trọng trong thị trường tài chính để đầu tư (ngắn hạn hoặc dài hạn) cho
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân loại các hình thức Bảo hiểm : có các loại Bảo hiểm sau:
Căn cứ vào mục đích hoạt động của các tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm,
Bảo hiểm bao gồm Bảo hiểm có mục đích kinh doanh và Bảo hiểm không có mục
đích kinh doanh.
+ Bảo hiểm có tính chất kinh doanh : là các tổ chức, công ty bảo hiểm
tiến hành cung cấp dịch vụ bảo hiểm, tìm kiếm lợi ích kinh tế nhất định trên cơ sở
hợp đồng bảo hiểm và đổi lại họ có doanh thu từ phí bảo hiểm do người tham gia
bảo hiểm trả.
+ Bảo hiểm không có mục đích kinh doanh : là loại Bảo hiểm nhằm mục
đích tương hỗ giữa các thành viên tham gia bảo hiểm. Nguyên tắc hoạt động của
các tổ chức bảo hiểm này là cân đối giữa thu và chi, bảo toàn và phát triển vốn góp
của các thành viên.
- Theo phương thức xử lý rủi ro, hoạt động bảo hiểm được chia thành
các hoạt động tự bảo hiểm và hoạt động chuyển giao, phân tán rủi ro.
+ Phương thức tự bảo hiểm: là việc các tổ chức, cá nhân, các doanh
nghiệp thành lập các quỹ dự trữ riêng để bù đắp các tổn thất có thể xảy ra đối với
quá trình sản xuất và đời sống của mình.
+ Phương thức chuyển giao, phân tán rủi ro : là việc người tham gia bảo
hiểm sẽ chuyển giao, phân tán các rủi ro cho các tổ chức bảo hiểm m à bản thân
không muốn hoặc không thể gánh chịu được bằng việc trích nộp một phần thu
nhập của mình cho các tổ chức bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm.
- Theo phương thức (kỹ thuật) quản lý quỹ bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm
được quản lý theo kỹ thuật phân chia hay kỹ thuật tồn tích vốn.
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhau, phục vụ cho các mục
tiêu khác nhau trong quản lý hoạt động bảo hiểm. Theo phương thức (kỹ
thuật) quản lý quỹ bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm được quản lý theo kỹ thuật phân
chia hay kỹ thuật tồn tích vốn. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm người ta phân chia
hoạt động bảo hiểm thành bảo hiểm tài sản và bảo hiểm con người.
Căn cứ vào tính chất rủi ro và ảnh hưởng của nó đối với xã hội thì hoạt động bảo
hiểm lại được chia thành bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện...
- Đặc điểm của Bảo hiểm :
+ Bảo hiểm là một loại dịch vụ tài chính đặc biệt : Sản phẩm của bảo
hiểm là sản phẩm vô hình trên cơ sở các cam kết từ hai phía - nhà bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm, đó là cam kết nộp phí và một bên là cam kết sẽ bồi
thường hay trả tiền bảo hiểm khi có sự cố bảo hiểm xảy ra. Do doanh thu được
thực hiện trước, sau đó mới phát sinh chi phí đã tạo ra tính nhàn rỗi của nguồn vốn
bảo hiểm có thể được sử dụng để tham gia vào thị trường tài chính.
+ Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa mang tính không bồi hoàn : Tùy
thuộc vào khả năng trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực có xảy ra hay
không xảy ra biến cố hay rủi ro bảo hiểm. Khác với các khâu tài chính khác, bồi
hoàn, chi trả của bảo hiểm có tính bất ngờ cả về thời gian, không gian cũng như
quy mô.
- Các nguyên tắc quản lý bảo hiểm :
+ Nguyên tắc sàng lọc rủi ro: Các tổ chức, công ty kinh doanh bảo hiểm
(nhà bảo hiểm) cố gắng sàng lọc những rủi ro trầm trọng, từ đó có những
phương thức tập hợp thông tin có hiệu quả để tránh nhầm lẫn trong tiếp nhận bảo
hiểm.
+ Nguyên tắc định phí bảo hiểm phải trên cơ sở “giá” của các rủi ro: Trên
cơ sở của khoa học thống kê số lớn, nếu một rủi ro có xác suất xảy ra lớn,
thiệt hại nhiều thì người nào muốn tham gia bảo hiểm với những rủi ro đó sẽ phải
trả phí cao và ngược lại.
+ Nguyên tắc thận trọng : trong quản lý bảo hiểm, cần phải thận trọng
ngay từ khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nh ư đánh giá rủi ro bảo hiểm, các điều kiện
chấp nhận bảo hiểm...; thận trọng trong hoạt động đầu t ư...
+ Nguyên tắc lấy số đông bù số ít : Phải huy động sự tham gia của nhiều
người để họ cùng đóng phí với những mức đóng góp có thể chấp nhận được để bù
đắp cho một số ít gặp rủi ro.
CHƯƠNG 6 : THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
6.2. Thị trường tiền tệ
- Khái niệm : Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính
được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng ngắn
hạn.
- Đối tượng của thị trường tiền tệ:
Đối tượng của thị trường tiền tệ: là quyền sử dụng các nguồn tài chính có
thời hạn sử dụng ngắn (thông thường thời hạn dưới 1 năm).
- Công cụ của thị trường tiền tệ:
+ Tín phiếu kho bạc: do kho bạc nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu
hụt tạm thời ngân sách nhà nước. Tín phiếu kho bạc được phát hành với thời gian
thông thường là 3 tháng, 6 tháng, 1 năm.
+ Thương phiếu : là các giấy tờ chứng nhận quyền chủ nợ về số tiền
hàng hoá, dịch vụ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau. Thương phiếu có
thể được chiết khấu ở ngân hàng thương mại để thu hút vốn về cho người sở hữu
thương phiếu trước kì hạn thanh toán.
+ Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng : là công cụ vay nợ do ngân hàng
thương mại phát hành, xác nhận một khoản tiền gửi có kỳ hạn hoặc không có kỳ
hạn của người được cấp chứng chỉ, với lãi suất được quy định cho từng thời hạn
nhất định. Chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn đ ược thanh toán vốn và lãi khi đến hạn.
+ Giấy chấp nhận thanh toán của ngân h àng là lệnh thanh toán một số
tiền vào một ngày trong tương lai cho khách hàng.
+ Các hợp đồng mua lại : là các hợp đồng mà người kinh doanh cam kết
sẽ mua lại với mức giá cao hơn vào thời gian sau, những chứng khoán mà
người đó đã bán cho người mua. Thời hạn của hợp đồng có thể l à 1-2 ngày cho
đến vài tháng.
+ Trái phiếu ngắn hạn của các công ty là giấy nhận nợ ngắn hạn do các
công ty phát hành nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời thiếu hụt của công ty.
+ Tín phiếu ngân hàng: là chứng chỉ vay nợ do ngân hàng trung ương
phát hành bán cho các ngân hàng thương m ại và các tổ chức tín dụng, có thời hạn
ngắn dưới 1 năm nhằm huy động vốn trong những trường hợp đặc biệt.
- Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ :
+ Ngân hàng trung ương: xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, giám
sát hoạt động của các ngân hàng, điều hành vĩ mô thị trường tiền tệ.
+ Các ngân hàng thương mại: là chủ thể trung gian trên thị trường tiền tệ,
vừa là người đi vay vừa là người cho vay ngắn hạn để tạm thời đầu t ư vốn nhàn
rỗi.
+ Kho bạc nhà nước : tham gia thị trường tiền tệ chủ yếu để vay nợ và bù
đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách nh à nước và thực hiện chính sách tiền tệ.
+ Người đầu tư: bao gồm các tổ chức tài chính tín dụng, các tổ chức kinh
tế - xã hội và người đầu tư tư nhân tham gia với mục đích duy trì khả năng thanh
toán, huy động thêm nguồn tài chính, cho vay để kiếm lời hoặc để phân tán rủi ro.
+ Người kinh doanh: tạo ra thị trường cho các công cụ của thị trường tiền
tệ bằng cách báo giá chào mua và thông báo giá với những người khác, với những
người phát hành và người đầu tư. Người kinh doanh mua và bán cho những tài
khoản sở hữu của họ.
+ Người môi giới: Là người cung cấp thông tin cho các chủ thể (ng ười
mua và người bán) một cách nhanh nhất thông qua đ ường dây điện thoại trực tiếp
hoặc màn hình biểu hiện để hưởng hoa hồng.
- Các bộ phận chủ yếu của thị trường tiền tệ
+ Thị trường cho vay ngắn hạn trực tiếp: bao gồm thị trường không chính
thức và thị trường chính thức.
+ Thị trường hối đoái giao dịch các loại ngoại tệ : là nơi mà các doanh
nghiệp, các hộ gia đình, các ngân hàng thương mại và nhà nước có thể mua bán,
trao đổi hoặc vay mượn các nguồn tài chính bằng ngoại tệ.
+ Thị trường liên ngân hàng: là thị trường dành cho các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng trao đổi khả năng thanh toán cho nhau.
+ Thị trường chứng khoán ngắn hạn: là thị trường mua bán các loại
chứng khoán ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng, tín phiếu ngân
hàng, tín phiếu kho bạc.
Ngoài ra, thị trường tiền tệ có thể mua lại các chứng khoán d ài hạn sắp
đến kì hạn thanh toán.
6.3. Thị trường vốn
- Khái niệm: Thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính được
chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng dài
hạn.
- Đối tượng của thị trường vốn :
Là quyền sử dụng các nguồn tài chính dài hạn (thông thường là trên 1
năm nhưng có thể là trên 5 năm, trên 7 năm).
- Công cụ của thị trường vốn: là các chứng khoán trung hạn và dài hạn
như: cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, chứng chỉ đầu tư... Loại chứng khoán dài
hạn chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu.
+ Cổ phiếu: là chứng khoán chứng nhận số vốn đ ã góp vào công ty cổ
phần và quyền lợi của người sở hữu chứng khoán đó đối với công ty cổ
phần..
Cổ phiếu có các loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu mang lại cho người sở hữu nó những
quyền lợi thông thường là:
• Quyền được nhận cổ tức theo kết quả hoạt động của công ty và theo tỷ
lệ phần vốn góp.
• Quyền bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị.
• Quyền bỏ phiếu cho những vấn đề ảnh h ưởng đến toàn bộ hoạt động
của công ty như sát nhập công ty, giải thể…
• Quyền kiểm tra sổ sách của công ty.
• Quyền được chia số tiền do giải thể sau khi đã thanh toán hết các
khoản nợ và các khoản ưu đãi khác.
+ Cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu mang lại cho người sở hữu nó được
hưởng những khoản ưu đãi nhất định so với cổ phiếu thường. Đó là:
• Quyền nhận lợi tức trước các cổ đông có cổ phiếu thường.
• Quyền được chia tài sản do giải thể công ty trước các cổ đông có phiếu
thường.
• Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước mà không phụ thuộc
vào kết quả hoạt động của công ty.
+ Trái phiếu : là một loại chứng khoán nợ chứng nhận khoản vay do
người đi vay phát hành cam kết trả lợi tức và hoàn trả vốn vay theo một thời hạn
nhất định cho người sở hữu chứng khoán. Các loại trái phiếu d ài hạn sử dụng trên
thị trường vốn gồm: Trái phiếu Chính phủ (công trái, trái phiếu công trình, trái
phiếu kho bạc dài hạn,….) Trái phiếu công ty, Trái phiếu của ngân hàng và các tổ
chức tài chính
- Các bộ phận chủ yếu của thị trường vốn:
+ Thị trường cho vay dài hạn: Các chủ thể tham gia trên thị trường chủ
yếu là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, Chính phủ các nước và các tổ
chức tiền tệ quốc tế .
+ Thị trường tín dụng thuê mua hay cho thuê tài chính: người cung nguồn
tài chính là người cho thuê tài sản thiết bị, người cần nguồn tài chính sử dụng tài
sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn đã được thỏa thuận trong hợp
đồng.
+ Thị trường chứng khoán trung hạn và dài hạn: diễn ra hoạt động phát
hành, mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn.
I/Phân biệt thị trường tiền tệ và thị trường vốn:
1: khái niệm:
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai dạng của thị trường tài chính được
phân chia căn cứ vào thời hạn của các công cụ tài chính.
* Thị trường tiền tệ(TTTT) là nơi trao đổi mua bán các công cụ tài chính
ngắn hạn. theo thông lệ, một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán dưới 1 năm
là công cụ của TTTT.(lâu nhất là 12 tháng và ngắn nhất là 1 đêm hay 24 giờ)
Gồm: TTTT liên ngân hàng(diễn ra hoạt động tín dụng giữa các ngân hàng)
và thị trường tiền tệ mở rộng
* Thị trường vốn (TTV) là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài
hạn. một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán trên 1 năm được coi là công cụ
của TTV.
Gồm: thị trường tín dụng trung, dài hạn (vốn được chuyển giao qua các
trung gian tài chính) và thị trường chứng khoán (diễn ra hoạt động trao đổi mua
bán các chứng khoán có thời hạn trên 1 năm thể hiện dưới hình thức trái phiếu, cổ
phiếu và các công cụ chứng khoán phái sinh. Gồm có 3 hình thức tổ chức: sở giao
dịch chứng khoán, thị trường tự do và thị trường OTC)
2: chức năng:
* TTTT: nhìn từ góc độ người đi vay, là nhằm bù đắp chênh lệch giữa cung
và cầu vốn khả dụng. Tài trợ các nhu cầu về vốn lưu động của các doanh nghiệp và
chính phủ (phục vụ cho tái sản xuất giản đơn là chủ yếu).==>trọng tâm là cung cấp
phương tiện giúp cá nhân và doanh nghiệp nhanh chóng điều chỉnh tình hình thanh
khoản thực của họ theo số lượng tiền mong muốn.
* TTV: nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và
chính phủ (phục vụ cho tái sản xuất mở rộng là chủ yếu) ==>trọng tâm cho mục
đích tiết kiệm và đầu tư.
3: đặc điểm của các công cụ tài chính:
* TTTT: do thời hạn ngắn nên những biến động về giá của các công cụ tài
chính do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất thị trường là không đáng kể, các
công cụ của TTTT thường được phát hành theo dạng được chuẩn mực hóa cao và
thị trường thứ cấp của chúng rất phát triển, hơn nữa thông thường các công cụ này
được đảm bảo bằng tài sản hoặc các dạng đảm bảo khác của người đi vay
chúng là những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao và ít rủi ro
lợi nhuận đem lại thấp hơn.
* TTV: ngược lại với TTTT, trong TTV vì thời hạn dài nên những biến động
về giá của các CCTC do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất thị trường là đáng kể,
thị trường thứ cấp của chúng không phát triển
chúng là những công cụ đầu tư có tính thanh khoản rất thấp, có mức rủi ro
cao