Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Hinh thai tu ban.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.81 KB, 2 trang )

Câu hỏi: Kết luận rút ra khi nghiên cứu các hình thái tư bản và các hình thức
biểu hiện của giá trị thặng dư?
Bài làm
Giá trị thặng dư là mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành lợi nhuận công
nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô
tư bản chủ nghĩa.
- Lợi nhuận công nghiệp: Giữa giá trị hàng hóa chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa luôn có khoảng cách chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư
bản thu được số tiền ngang bằng với giá trị thặng dư (m) là lợi nhuận (P). Lợi
nhuận là một hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Lợi nhuận phản ánh
sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, che
giấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
- Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản
chủ nghĩa được tách rời ra và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa. Và lợi
nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong
lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư bản
thương nghiệp để nhà tư bản thương nghệp tiêu thụ hàng hóa cho mình.
 Thực chất, tư bản thương nghiệp cũng gián tiếp bóc lột sức lao động của
công nhân lao động.
- Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sở hữu nó
cho người khác sử dụng trong một thời gian nhằm mục đích nhận lại số tiền
lời nhất định. Số tiền đó được gọi là lợi tức ( Z). Trong tư bản cho vay thì
quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản; tư bản cho vay là hàng
hóa đặc biệt. Công thức vận động của tư bản cho vay T – T’ trong đó
T = T’ + Z. Theo công thức, sự vận động của tư bản cho vay chỉ biểu hiện
mối quan hệ giữa nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay, tiền đẻ ra tiền. Do
đó đã che giấu đi bản chất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Lợi tức cho vay chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi
vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà tư
bản cho vay bỏ ra cho nhà tư bản đi vay sử dụng - Lợi tức cũng là từ giá trị


thặng dư do công nhân làm thuê sáng tạo ra từ linh vực sản xuất.
- Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ làm
môi giới người đi vay – người cho vay; với 2 nghiệp vụ chính là nhận, gửi
và cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi đã
trừ đi những chi phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với thu nhập
khác về kinh doanh tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
Nhờ có ngân hàng các nhà tư bản có điều kiện mở rông sản xuất nhanh
chóng, có điều kiện tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dễ
hơn, giảm chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ quay của đồng tiền.
- Tư bản giả: là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và
mang lại thu nhập cho người sở hữu nó, có thể mua bán được, sự tăng
hay giảm giá mua bán của nó trên thị trường không cần có sự thay đổi
tương ứng của tư bản thật.
- Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu
trừ phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp
phải nộp cho địa chủ.
 Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của Mac không chỉ vạch rõ quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây
dựng các chính sách thuế đối với công nghiệp và các ngành khác có liên
quan đến đất đai có hiệu quả hơn.
Như vậy, khi nghiên cứu các hình thái tư bản chủ nghĩa và các hình thức
biểu hiện của giá trị thặng dư đã làm rõ thêm bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản đối với công nhân và người lao động. Tất cả các hình thái biến tướng
của giá trị thặng dư đều nhằm mục đích che giấu bản chất của chủ nghĩa tư
bản nhưng không bao giờ làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×