MỤC LỤC
1|Page
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể bạn muốn tự xây dựng công việc kinh doanh của mình, bởi vì bạn muốn
tự mình làm chủ? Nhưng bạn có nhất thiết phải bắt đầu từ vạch xuất phát không? Hay
bạn nên mua lại công việc kinh doanh của những ông chủ khác, khi họ đang muốn
sang nhượng lại cơ sở để nghỉ ngơi? Hoặc là, bạn nên mua một đơn vị kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền? Bạn có thể đến bất kỳ một nước nào trên thế giới cũng có
thể một loại gà rán KFC hay một loại bánh Mc Donald như nhau, .... Những nhãn hiệu
nổi tiếng này đã trở thành quen thuộc với người tiêu dùng trên thế giới. Tuy nhiên ít ai
để ý rằng bí quyết thành công của họ là phương thức kinh doanh Franchise.
Franchise-phương thức kinh doanh của tương lai. Franchise khởi nguồn từ Hoa
Kì giữa thế kỉ 19. Hơn 550000 franchise với doanh thu lên tới 1503 tỷ USD, chiếm
40% tổng doanh thu bán lẻ của nước này. Trung bình cứ 12 phút lại có 1 Franchise ra
đời. Ở Anh, Franchise là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền
kinh tế với khoảng 32000 doanh nghiệp nhượng quyền. Doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ
bảng Anh, thu hút 317000 lao động và chiếm 29% thị phần bán lẻ. Điều đó như một
minh chứng cho sức mạnh của franchise-phương thức đầu tư khôn ngoan và chắc chắn
nhất.
Franchise là hình thức kinh doanh mới đã tạo nên bức tranh sống động của nền
kinh tế thế giới. Hình thức này không ngừng mở rộng và phát huy tính hiệu quả trong
kinh doanh.
Trong điều kiện Việt Nam ra nhập WTO, hàng loạt các tập đoàn bán lẻ, đồ ăn
nhanh ồ ạt chạy vào Việt Nam với hình thức franchisie. Thêm vào đó, Franchisie đã
quá thành công ở Mĩ và Châu Âu. Tại sao đó lại không thể là ở Châu Á-tại Việt nam?
Tại sao chúng ta lại không nắm bắt những phương thức kinh doanh được coi là rất
thành công này. Đón đầu để không bị thua thiệt. Phương thức kinh doanh theo mô
hình nhượng quyền thương mại đang dần trở thành xu hướng kinh doanh tất yếu trên
khắp thế giới và Việt Nam được dự đoán là nơi có nhiều tiềm năng phát triển trong
lĩnh vực này.
Hiện nay, hệ thống kinh doanh nhượng quyền đã xuất hiện trên thị trường Việt
Nam cũng từ rất lâu và phát triển rất mạnh. Một số hệ thống nhượng quyền thương
hiệu tiêu biểu và phát triển rất mạnh của Việt Nam trong những năm gần đây như Tập
đoàn thức ăn nhanh McDonald’s, Tập đoàn giáo dục Cleverlearn, Pizza Hut, Inc. , ...
Nổi lên hẳn với sự thu hút của hàng chục ngàn người và giới truyền thông là Tập đoàn
thức ăn nhanh McDonald’s.
McDonald’s là một tập đoàn kinh doanh hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh được
thành lập đầu tiên năm 1940 do anh em Richard và Maurice (“Mick & Mack”)
2|Page
McDonald. Tập đoàn McDonald’s phát triển cho tới nay có khoảng 31.000 nhà hàng
tại 119 quốc gia phục vụ 43 triệu lượt khách mỗi ngày. Sự thành công và phát triển
của McDonald’s hôm nay là do Ray Kroc mua lại của anh em McDonald và phát triển
thành một chuỗi hệ thống thức ăn nhanh với rất nhiều dự án kinh doanh ẩm thực mang
lại nhiều thành công nhất trên thế giới.
Mức doanh thu của tập đoàn vào năm 2008 là khoảng 22,8 tỷ USD, trong đó lợi
nhuận ròng vào khoảng 3,5 tỷ USD.
Cũng trong đà phát triển của nhượng quyền thương hiệu thì cũng đã có một vài
thương hiệu khác cũng đang được phát tán rộng rãi ví dụ như Coca- Cola có doanh thu
rất đều được phân phối trên khắp Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á. Còn tập đoàn thức ăn
nhanh McDonald’s có doanh thu chỉ trong bốn quốc gia là Hoa Kỳ, Đức, Anh và Pháp.
Cửa hàng nhượng quyền đầu tiên tại Việt Nam tại địa chỉ: 2-6 bis Điện Biên Phủ,
Quận 1 (TP.HCM).
Vậy Franchisie là gì? Doanh nghiệp kinh doanh Franchise sẽ được hưởng những
lợi ích gì, làm thế nào để thành công với hình thức kinh doanh mới mẻ này?... Và với
Tập đoàn thức ăn nhanh McDonald’s thì họ áp dụng như thế nào?
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Nguyễn Quang Chương đã hướng dẫn
và gợi ý đề tài cho em!
3|Page
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NHƯỢNG
QUYỀN KINH DOANH
I. Khái niệm và sự ra đời của Franchise
1. Sự ra đời của Franchise
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của lối kinh doanh nhượng
quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu.
Tuy nhiên, hoạt động nhượng quyền kinh doanh (hay nhượng quyền thương
mại) được chính thức thừa nhận khởi nguồn, phát triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ
19, khi mà Nhà máy Singer (sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh
doanh đầu tiên cho đối tác của mình.
Franchise thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Thế Chiến
II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách sạn và các hệ thống
kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương
hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo
phương thức này. Từ những năm 60, franchise trở thành phương thức kinh doanh thịnh
hành, thành công không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như
Anh, Pháp... Sự lớn mạnh của những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số
nước Châu Âu trong lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn-nhà hàng đã góp
phần “truyền bá” và phát triển franchise trên khắp thế giới. Ngày nay, franchise đã có
mặt tại hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng
kinh doanh theo phương thức nhượng quyền.
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều quốc gia đã
có các chính sách khuyến khích phát triển franchise. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên luật
hoá franchise và có các chính sách ưu đãi cho những cá nhân, doanh nghiệp kinh
doanh theo phương thức franchise. Chính phủ các nước phát triển khác như Anh,
Pháp, Đức, Nhật, Ý... cũng noi gương Hoa Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy, phát
triển hoạt động franchise, khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc bán
franchise ra nước ngoài. Nhiều trung tâm học thuật, nghiên cứu chính sách về
4|Page
franchise của các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời, các đại học cũng có riêng chuyên
ngành về franchise để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác động
của franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng và là xu thế tất
yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh tế liên quan
đến franchise đã được nghiên cứu, ứng dụng và khuyến khích phát triển. Năm 1992,
Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh
nhượng quyền (Franchise development program) với mục tiêu gia tăng số lượng doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và phát triển
việc bán franchise ra bên ngoài quốc gia. Singapore, quốc gia láng giềng của Malaysia,
cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt động nhượng quyền
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như đào tạo, y tế, du lịch, khách sạn-nhà hàng... Gần
đây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã có các chính sách
khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại
thị trường nội địa và quốc tế.
Trung Quốc đang trở thành thị trường tiềm năng của các thương hiệu nước ngoài
như: Mc Donald's, KFC, Hard Rock Cafe, Chilli's... đồng thời đây là cứ địa đầu tiên để
các tập đoàn này bán franchise ra khắp Châu Á. Thông qua đó, hoạt động franchise
của Trung Quốc trở nên ngày càng phát triển, Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi thái
độ từ e dè chuyển sang khuyến khích, nhiều thương hiệu đang được “đánh bóng” trên
thị trường quốc tế thông qua các cuộc mua bán, sáp nhập nhằm chuẩn bị cho kế hoạch
đẩy mạnh hoạt động nhượng quyền ra bên ngoài, được xem là một trong những động
thái quan trọng để phát triển nền kinh tế vốn đang rất nóng của Trung Quốc.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển, hỗ trợ và
quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập. Điển hình là Hội đồng Franchise Thế
giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994, có thành viên là các hiệp hội
franchise của nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội
Franchise Quốc tế (International Franchise Association) được thành lập năm 1960, có
khoảng 30.000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp bán, mua franchise. Thông qua
các tổ chức này, nhiều hoạt động có ích cho doanh nghiệp, cho các nền kinh tế quốc
5|Page
gia đã được thực hiện như: Tổ chức các hội chợ franchise quốc tế, xây dựng niên giám
franchise khu vực, và trên toàn thế giới.
Hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành, các website để cung cấp thông tin
cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến franchise...
Tư vấn, hỗ trợ, hợp tác và phát triển phương thức kinh doanh franchise.
2. Khái niệm về Franchise
Với sự phát triển nhanh chóng của nhượng quyền thương mại, nhiều tổ chức,
học giả trên thế giới đã đưa ra nhiều định nghĩa về hoạt động này. Tuy các định nghĩa
được đưa ra bởi những quan điểm khác nhau do có sự khác biệt về môi trường pháp lý,
kinh tế, chính trị ở mỗi quốc gia, nhưng nó đều được xây dựng trên một nền tảng
chung. Dưới góc độ pháp luật Việt Nam thì nhượng quyền thương mại được hiểu là
“hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận
quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện
sau đây:
Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo của bên nhận quyền;
Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho Bên nhận quyền trong
việc điều hành công việc kinh doanh”.
Vậy, nhượng quyền thương mại là một phương thức nhân rộng quy mô sản xuất
kinh doanh trong đó chủ sở hữu quyền thương mại (ở đây gọi là bên nhượng quyền)
chuyển giao cho những doanh nghiệp khác (ở đây gọi là bên nhận quyền) các quyền
thương mại đó để tiến hành hoạt động kinh doanh dựa trên ý tưởng kinh doanh của
bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền sẽ đào tạo, hỗ trợ cho bên nhận quyền phát
triển hoạt động kinh doanh theo cách thức kinh doanh, chiến lược tiếp thị, khuyến mại,
quảng cáo… do bên nhượng quyền đưa ra. Để được như vậy, bên nhận quyền phải trả
phí nhượng quyền ban đầu, phí sử dụng nhãn hiệu, phí quảng cáo và các loại phí khác
cho bên nhượng quyền.
6|Page
Khi mối quan hệ nhượng quyền được thiết lập, bên nhượng quyền sẽ tiến hành
chuyển giao các quyền thương mại cho bên nhận quyền như “quyền tiến hành kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định, đi kèm với
việc được sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo… của bên nhượng quyền” nhằm đảm bảo
tính đồng bộ cho toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Không giống với các phương thức
như chuyển giao công nghệ hoặc li – xăng, nhượng quyền thương mại mang những nét
đặc trưng thể hiện ở mối quan hệ mật thiết giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền.
Mặc dù giữa các bên hướng tới những mục đích khác nhau và hoạt động theo những
nguyên tắc khác nhau nhưng để đạt được mục đích mà các bên mong muốn thì cả hai
bên cần phải có sự hợp tác một cách lâu dài, liên tục và toàn diện. Ngoài việc tuân thủ
theo các quy định về bí quyết kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa,… thì
bên nhận quyền còn phải tuân thủ theo hệ thống và cách thức mà bên nhượng quyền
quy định để đảm bảo được tính thống nhất, toàn diện cho hệ thống nhượng quyền.
Ngay từ đầu, bên nhượng quyền phải truyền đạt những mục tiêu, cách thức kinh
doanh, hình ảnh của hệ thống nhượng quyền cũng như con đường đạt được thành công
đó.
II. Hình thức kinh doanh franchise
1. Theo hình thức hoạt động
Nhượng quyền phân phối sản phẩm (product distribution franchise):bên mua
không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ chủ thương hiệu ngoại trừ được phép sử
dụng tên nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng và khẩu hiệu và phân phối sản phẩm hay
dịch vụ của bên chủ thương hiệu trong một khu vực và thời gian nhất định. Điều này
có nghĩa là bên mua sẽ quản lý cửa hàng của mình khá độc lập, ít bị ràng buộc bởi
những quy định từ phía chủ thương hiệu. Mối quan hệ giữa hai bên là mối quan hệ
giữa nhà cung cấp và nhà phân phối (trạm xăng dầu, đại lý bán ôtô, công ty sản xuất
nước giải khát).
Nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh (business format franchise): hợp
đồng chuyển nhượng bao gồm quyền không chỉ cho phép bên nhận nhượng quyền
được phân phối sản phẩm dưới thương hiệu của người nhượng quyền mà còn chuyển
7|Page
giao kỹ thuật kinh doanh và công thức điều hành quản lý. Các chuẩn mực mô hình
kinh doanh phải tuyệt đối giữ đúng. Mối quan hệ giữa hai bên mua – bán franchise là
liên tục và chặt chẽ, đây là hình thức nhượng quyền phổ biến và hiệu quả hiện nay.
Bên mua trả phí trọn gói hoặc hàng tháng cho bên bán dựa trên doanh số, tùy theo uy
tín của thương hiệu và hợp đồng giữa hai bên.
2. Theo hình thức phát triển hoạt động
Franchise độc quyền (Master franchise): Đây là hình thức nhượng quyền mà
chủ thương hiệu cấp phép cho người mua độc quyền kinh doanh thương hiệu của mình
trong một khu vực nhất định (thành phố, lãnh thổ, quốc gia…) trong một thời gian
nhất định. Trong trường hợp này, người mua master franchise có thể nhượng lại cho
bên thứ ba dưới hình thức franchise phát triển khu vực (Area development franchise)
hay franchise riêng lẻ (single-unit franchise). Lúc này, người mua master franchise sẽ
thay mặt cho chủ thương hiệu ký kết hợp đồng nhượng quyền với bên thứ ba và cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ thương hiệu trong khu vực mà họ được nhượng quyền. Họ cũng
có thể tự mình mở các cửa hàng franchise trong khu vực mà họ đã được nhượng quyền
độc quyền. Chính vì thế, họ phải chịu phí franchise ban đầu khá lớn (lớn hơn phí
franchise của các của hàng lẻ). Ngoài ra, phần phí franchise hàng tháng thu được từ
bên thứ ba sẽ được chia cho chủ thương hiệu và bên mua master franchise với tỷ lệ
thoả thuận, nhưng thường bên mua master franchise sẽ được chi nhiều hơn vì họ tự
làm tất cả các hoạt động nhằm tìm kiếm và phát triển người mua franchise tại khu vực
của họ. Đối với chủ thương hiệu, đây là hình thức nhanh nhất và phổ biến nhất để đưa
thương hiệu xâm nhập ra thị trường nước ngoài. Với hình thức này, chủ thương hiệu
đã chuyển hầu như toàn bộ gánh nặng về phát triểnthương hiệu ở khu vực đó cho bên
mua master franchise.
Franchise vùng (Regional franchise): Đây là hình thức franchise mà người mua
regional franchise sẽ nhận nhượng quyền từ người chủ thương hiệu hoặc người mua
master franchise (đề cập ở trên) để bán lại cho các người mua franchise nhỏ lẻ (singlunit franchise) trong vùng (region) mà mình mua. Hình thức này giống như trung gian
của master franchise và single-unit franchise. Điểm khác biệt của hình thức này với
8|Page
hình thức master franchise là chỉ có thể nhượng quyền lại cho các single-unit franchise
chứ không được mở các cửa hiệu kinhdoanh thương hiệu của mình.
Franchise phát triển khu vực (Area development franchise): Đây cũng là một
hình thức trung gian của master franchise và single-unit franchise như hình thức trên
(franchise vùng). Tuy nhiên, điểm khác biệt của hình thức này là người mua franchise
khu vực sẽ mua franchise từ chủ thương hiệu trong một khu vực nhất định, trong một
khoảng thời gian nhất định nhưng không được bán franchise cho các của hàng lẻ
(single-unit franchise). Người mua loại hình franchise này sẽ phải cam kết mở bao
nhiêu của hàng franchise trong thời gian nhất định. Nếu họ muốn bán franchise lại cho
bên thứ ba thì họ phải mua theo hình thức master franchise. Đối với hình thức này,
người mua franchise phải trả một khoản phí lớn để có thể độc quyền mở các của hiệu
nhượng quyền trong một khu vực và thời gian nhất định.
Franchise riêng lẻ (single-unit franchise): Đây là hình thức franchise phổ biến
nhất khi người mua franchise ký kết một hợp đồng mua franchise trực tiếp với người
bán franchise. Người bán này có thể là chủ thương hiệu hay đại lý độc quyền (master
franchise) hoặc là đại lý franchise vùng (regional franchise). Người mua franchise lẻ
được cấp quyền kinh doanh tại một địa điểm và thời gian nhất định bởi một hợp đồng
nhượng quyền đổi lại họ sẽ phải trả một khoản phí cho bên bán franchise. Sau thời
gian này, hợp đồng có thể được gia hạn và người mua franchise phải trả thêm một
khoản phí. Người mua franchise theo hình thức này không thể nhượng lại (subfranchise) cho bên thứ ba hay tự ý mở thêm cửa hiệu kinh doanh cùng thương hiệu. Vì
thế, người mua nhượng quyền lẻ thường chỉ có thể mua được qua các master franchise
(đối với thương hiệu nổi tiếng) hay các chủ thương hiệu nhỏ. Hiện nay, hầu hết các
thương hiệu nổi tiếng vào Việt Nam như: KFC, Jolibee, Loterria, McDonald’s đều
thông qua con đường master franchise hay Area development franchise. Người mua
franchise của các thương hiệu này đều có tiềm lực tài chính rất mạnh để có thể chịu lỗ
ít nhất vài năm trong thời gian tạo dựng và tìm kiếm khách hàng của mình.
III. Những nhân tố cơ bản khi triển khai theo phương thức Franchise
1. Bản sắc thương hiệu
9|Page
Bản sắc thương hiệu là giá trị cốt lõi và đặc trưng của thương hiệu, là dấu ấn
tồn tại trong tâm trí khách hàng một cách sâu đậm nhất và tạo nên khác biệt so với các
thương hiệu khác.
2. Vị trí
Đối với các cửa hàng kinh doanh nhượng quyền, địa điểm là đòi hỏi khó khăn
nhất trong việc lựa chọn người được nhượng quyền. Một doanh nghiệp có địa điểm tốt
nghĩa là doanh nghiệp đó đãcó 50% cơ hội thành công.
3. Nỗ lực tiếp thị
Các thương hiệu nhượng quyền phần lớn có ngân sách tiếp thị giành riêng cho
mình. Nhiều mô h.nh nhượng quyền đòi hỏi những qui luật tiếp thị khá đặc biệt và có
sự kết hợp giữa người nhượng quyền và người được nhượng quyền. Tùy thuộc vào
loại hình kinh doanh được chọn, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức tiếp thị và
quảng cáo phù hợp nhất.
4. Chiến lược dài hạn
Một đại lí nhượng quyền cũng cần khoảng 2 đến 3 năm trước khi thấy được lợi
nhuận, và nếu không có kế hoạch đầy đủ thì bản thân doanh nghiệp đó sẽ bị nuốt
chửng trước khi có cơ hội thành công.
5. Quản lý con người
Khả năng quản lý con người rất cần thiết trong lĩnh vực kinh doanh nhượng
quyền thương mại bởi nó đòi hỏi sự hợp tác và tin cậy lẫn nhau của các thành viên
tham gia.
IV. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
•
Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại. Việc xác định đấy là một
hoạt động thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định mục đích sinh lợi
của hoạt động này. Xác định luật áp dụng là luật thương mại và xác đinh cơ quan tài
phán trong trương hợp có tranh chấp, trong trường hợp này là tòa kinh tế.
• Nhượng quyền thương mại được thể hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng nhượng
quyền thương mại là văn bản xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia
giao dịch. Hợp đồng sẽ quy định những gì bên nhượng quyền cũng như bên nhận
quyền được phép làm và có nghĩa vụ phải làm. Nhượng quyền thương mại là hoạt
động thương mại đặc trưng mà nội dung của nó bao hàm nhiều vấn đề nêu trong nhiều
10 | P a g e
văn bản pháp lý khác nhau như vấn đề về sở hữu trí tuệ nêu trong luật dân sự, luật sở
hữu trí tuệ, vấn đề về quảng cáo nêu trong pháp lệnh quảng cáo…
• Bên nhượng quyền là bên đang sở hữu hoặc đang kiểm soát một phương thức kinh
doanh và đối tượng của sở hữu trí tuệ liên quan đến việc kinh doanh. Để có thể
nhượng quyền, bên nhượng quyền phải đang sở hữu hoặc kiểm soát một phương thức
kinh doanh có hiệu quả cùng với đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến phương thức
kinh doanh đó.
• Bên nhận quyền là một bên độc lập so với bên nhượng quyền. Đây là một nét đặc
trưng riêng của nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền có quan hệ về sở hữu đối
với bên nhượng quyền. Quan hệ giữa hai bên là quan hệ hợp đồng thương mại và bên
nhận quyền phải trả phí cho những dịch vụ mà bên nhượng quyền cung cấp và bên
nhận quyền tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình.
• Việc nhượng quyền nhằm thực hiện các hoạt động phân phối hàng hóa và dịch vụ,
không điều chỉnh các hoạt động liên quan đến li-xăng công nghiệp.
• Bên cạnh việc chuyển giao cho bên nhận quyền phương thức kinh doanh và quyền sử
dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ ở giai đoạn ban đầu, bên nhượng quyền còn có
quyền và nghĩa vụ kiểm soát và trợ giúp đáng kể, thường xuyên hoạt động kinh doanh
của bên nhận quyền. Đặc trưng này giúp phân biệt nhượng quyền thương mại với
•
chuyển giao công nghệ và li-xăng thông thường khác.
Bên nhận quyền phải trả phí cho việc nhượng quyền,phí nhượng quyền bao gồm phí
ban đầu và phí định kì. Ngoài ra bên nhận quyền còn có nghĩa vụ tài chính khác như
đóng góp tiền quảng cáo, tham gia các hoạt động khuyến mãi chung, trả tiền cho các
dịch vụ khác do bên nhượng quyền cung cấp.
V. Ưu và nhược điểm của Franchise
1. Ưu điểm
a. Đối với bên nhượng quyền-Franchisor
Một là - tiết kiệm nguồn vốn. Vốn luôn là một mối lo ngại lớn nhất khi muốn mở
rộng hoạt động kinh doanh. Trong tình hình đa số các doanh nghiệp Việt Nam là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nếu phân theo chỉ tiêu lao động thì có tới 80% doanh nghiệp
sử dụng dưới 300 lao động, còn theo vốn thì có tới 90% dưới 5 tỷ thì nhượng quyền
thương mại là phương thức phù hợp nhất và mang lại hiệu quả cao. Nhưng trong hệ
thống nhượng quyền thì người bỏ vốn ra để mở rộng hoạt động kinh doanh chính là
bên nhận quyền. Điều này có thể giúp cho bên nhượng quyền mở rộng hoạt động kinh
doanh bằng vốn của ngưới khác và giảm chí phí xâm nhập thị trường.
11 | P a g e
Hai là - mở rộng hoạt động kinh doanh một cách nhanh chóng. Hình thức
nhượng quyền thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh
doanh, xấy dựng sự hiện diện ở khắp mọi nơi một cách nhanh chóng với hàng trăm
cửa hàng ở trong và ngoài nước mà không một hình thức kính doanh nào có thể làm
được. Ví dụ như Mc Donald’s, tính tới thời điểm cuối năm 2007,có tổng số 31000 nhà
hàng tại 119 quốc gia, trong đó có tới 78% số cửa hàng là do nhượng quyền và chỉ có
22% là cửa hàng do công ty lập nên.
Ba là - thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu. Việc mở rộng thương hiệu và sự
xuất hiện ở khắp mọi nơi sẽ đưa ra hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng
một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó vì chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất
nhiều cửa hàng, cho nên chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh sẽ rất nhỏ. Giúp
cho bên nhượng quyền xây dựng được một ngân sách quảng cáo lớn. Đặc biệt tạo
dựng được hình ảnh của thương hiệu đối với khách hàng giúp cho bên nhượng quyền
và nhận quyền ngày càng thu được nhiều lợi nhuận.
Bốn là - tối đa hóa thu nhập. Khi nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả tiền
bản quyền thuê thương hiệu và tiền phí kinh doanh với tên và hệ thống của bên
nhượng quyền, bên nhận quyền còn phải mua sản phẩm và nguyên liệu của bên
nhượng quyền nhờ đó mà bên nhượng quyền có thể tối đa hóa được thu nhập của
mình. Chủ thương hiệu có thể nhận được các khoản tiền sau đấy từ việc bán franchise:
•
Phí chuyển nhượng quyền ban đầu: phí này chỉ được tính một lần. Đấy là khoản phí
hành chính, đào tạo, chuyển giao phương thức kinh doanh cho bên mua franchise
• Phí hàng tháng: là phí mà bên mua franchise phải trả cho việc duy trì nhãn hiệu,
thương hiệu của bên bán franchise và dịch vụ hỗ trợ mang tích chất tiếp diễn liên tục
như việc huấn luyện nhân viên, tiếp thị, quảng bá, nghiên cứu….phí này có thể là
khoản phí cố định theo sự thỏa thuận của hai bên hoặc tính theo phần trăm trên doanh
số của bên mua franchise và thường dao động trung bình từ 3 - 6% tùy vào loại sản
phẩm mô hình và lĩnh vực kinh doanh còn ở Việt Nam từ 2 – 3% mức phí trên tổng
doanh thu của các franchisor Việt Nam : Trung Nguyên 2%, Phở 24 là 3%, Tapiocups
là 2%.
12 | P a g e
•
Tiền bán hàng nguyên liệu đặc thù: Nhiều chủ thương hiệu yêu cầu các đối tác mua
franchise của mình phải mua một số nguyên liệu đặc thù do mình cung cấp, để đảm
bảo tính đồng bộ của sản phẩm và mang lại nguồn thu cho mình. Ví dụ như Mc
Donald’s cung cấp và bán cho các cửa hàng nhượng quyền của mình khoai tây chiên,
pho mát, bánh táo….
Năm là - tận dụng nguồn nhân lực. Bên nhận quyền sẽ là người bỏ vốn ra kinh
doanh điều này tạo động lực cho họ làm việc tốt hơn. Vì khi bên nhận quyền họ là chủ
nên họ sẽ làm việc có trách nhiệm hơn. Vì vậy bên nhượng quyền tận dụng được
nguồn lực từ phía bên nhận quyền và đặc biệt bên nhận quyền có thể tiếp cận những
địa điểm mà bên nhượng quyền không thể tiếp cận được và họ còn nắm vững thông tin
về địa phương hơn bên nhượng quyền.
13 | P a g e
b. Đối với bên nhận quyền-Franchisee
Một là giảm thiểu rủi ro. Mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là giảm
thiểu rủi ro. Việc mở cửa hàng, cở sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỉ lệ thất
bại cao do những người quản lý là những người mới bước vào nghề, không có kinh
nghiệm và phải mất nhiều thời gian để học hỏi các đặc trưng của từng loại hình kinh
doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn luyện,
đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công của loại hình kinh
doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích lũy được từ những lần trải nghiệm trên thị
trường. Bên nhận quyền không phải trải qua giai đoạn xây lắp và phát triển ban đầu,
bên nhượng quyền sẽ hướng dẫn bên nhận quyền những nguyên tắc chung. Theo kết
quả nghiên cứu thì 90% các công ty hoạt động theo mô hình nhượng quyền thương
mại tiêp tục hoạt động sau 10 năm trong khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa, dưới
5% công ty hoạt động theo mô hình nhượng quyền thương mại thất bại trong năm đầu
tiên so với tỷ lệ 38 ở các công ty độc lập.
Hai là được sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền. Muốn tồn tại trên thị
trường thì việc tạo dựng một thương hiệu nổi tiếng được khách hàng tin cậy và nhớ
đến là vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp. Thương hiệu hay uy tín của nhãn hiệu là bộ
mặt của công ty có vai trò quan trọng đối với khách hàng khi họ mua sản phẩm nào.
14 | P a g e
Ba là - tận dụng các nguồn lực. Bên nhận quyền chỉ tập trung vào việc điều hành
hoạt động kinh doanh, phần còn lại như xây dựng chiến lược tiếp thị, quy trình vận
hành chiến lược kinh doanh sẽ do bên nhượng quyền đảm trách và chuyển giao.
Bốn là được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi. Bên nhượng quyền luôn
có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên nhận quyền.
Nâng cao sức cạnh tranh của bên nhận quyền trên thị trường. Nếu thị trường có biến
động lớn như việc khan hiếm nguồn hàng thì bên nhượng quyền sẽ ưu tiên phân phối
cho bên nhận quyền trước, giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào mà bất cứ hình
thức kinh doanh nào cũng không làm được
Năm là dễ vay tiền ngân hàng. Do khả năng thành công cao nên các ngân hàng
thường tin tưởng cho các doanh nghiệp mua nhượng quyền vay tiền đầu tư. Trên thực
tế thì chủ thương hiệu thường đứng vai trò cầu nối giúp người mua franchise mượn
tiền ngân hàng hoặc chính mình đứng ra cho vay, nhằm phát triển và nhân rộng mô
hình kinh doanh nhanh hơn. Điều này chưa xảy ra tại Việt Nam do hình thức kinh
doanh chưa phổ biến và chủ trương cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ của hệ
thống ngân hàng còn nhiều giới hạn.
2. Nhược điểm của Franchise
a. Đối với bên nhượng quyền-Franchisor
•
Mất quyền kiểm soát và quyền năng trong kinh doanh.
•
Sự tranh chấp của các cơ sở kinh doanh.
•
Thiên vị cho một bên nhận nhượng quyền nào đó.
•
Hoạt động không kém của một đơn vị sẽ ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu…
15 | P a g e
b. Đối với bên nhận quyền-Franchisee
•
Không phải là thương hiệu riêng của mình.
•
Chia sẽ rủi ro kinh doanh của bên nhượng quyền.
•
Sự bùng nỗ của các đối thủ cạnh tranh trong cùng hệ thống.
•
Hoạt động kinh doanh theo khuôn khổ được qui định trước.
•
Không phát huy được khả năng sáng tạo trong kinh doanh.
•
Giúp thương hiệu của bên nhượng quyền ngày càng lớn mạnh…
VI. Pháp luật quy định về nhượng quyền thương mại
1. Thế giới:
Dựa trên sự khác nhau trong việc quản lý điều chỉnh các hoạt động nhượng
quyền kinh doanh, có ba quan điểm khác nhau trong việc điều chỉnh hành vi nhượng
quyền thương mại:
•
Nhóm các nước với hệ thống pháp luật bắt buộc (hoặc khuyến khích sự tự nguyện)
công khai chi tiết nội dung của thoả thuận nhượng quyền kinh doanh như: Úc, Trung
Quốc, Pháp, Inđônêxia, Ý, Nhật, Đài Loan, Mỹ... Các nước này dựa trên quan điểm:
Nhượng quyền có ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế, nhượng quyền được xây dựng trên
mối quan hệ không bình đẳng giữa các bên tham gia biểu hiện qua sự không bình đẳng
về thông tin, về quyền lực; chính phủ có xu hướng thúc đẩy sự phát triển của loại hình
•
nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế.
Nhóm các nước điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại trên tinh thần tự
nguyện. Ví dụ như Quy chế Đạo đức của Hiệp hội Nhượng quyền Thương mại châu
Âu được các nước thành viên thông qua và có hiệu lực ràng buộc các bên nhượng
16 | P a g e
quyền là thành viên. Nhóm này cho rằng: Nhượng quyền có ý nghĩa to lớn trong nền
kinh tế, nhượng quyền được xây dựng trên mối quan hệ không bình đẳng giữa các bên
tham gia, tuy nhiên biểu hiện của sự không bình đẳng là không nghiêm trọng và các tổ
chức nghề nghiệp, các quy tắc đạo đức có thể điều chỉnh khá đầy đủ quan hệ này. Sự
can thiệp của pháp luật là không cần thiết, chính phủ có quan tâm đến loại hình
nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế nhưng không có chủ trương điều chỉnh
theo định hướng kinh tế quốc gia.
• Nhóm các nước không điều chỉnh nhượng quyền kinh doanh các nước này cho rằng:
Nhượng quyền thương mại không có ý nghĩa nhiều đối với nền kinh tế; không cần
thiết phải có các quy định về luật pháp để điều chỉnh hành vi này, đây là một quan hệ
dân sự bình thường tr
• Trong xã hội, các bên tham gia tự thoả thuận và sử dụng pháp luật dân sự làm khung
pháp lý.Tuy nhiên, xu hướng điều chỉnh hoạt động nhượng quyền ngày càng gia tăng.
2. Việt Nam
Ở Việt Nam, nhượng quyền thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật. Hiện nay,
việc điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại được quy định chủ yếu tại:
Luật Thương mại 2005 (Chương VI – Mục 8 về nhượng quyền thương mại).
Nghị định 35/2006/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 31/3//2006 để quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
Thông tư 09/2006/TT-BTM do Bộ Thương mại ban hành ngày 25/5/2006 để hướng dẫn
thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.
Ngoài ra, nếu việc nhượng quyền thương mại có liên quan đến việc chuyển giao
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, thì còn phải chịu sự
điều chỉnh bổ sung của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật Chuyển giao công nghệ 2006.
Trước đây, theo pháp luật Việt Nam thì hoạt động Franchise được gọi chính thức
là cấp phép đặc quyền kinh doanh thuộc hoạt động chuyển giao công nghệ có đối
tượng sở hữu công nghiệp. Do đó, hoạt động nhượng quyền này vừa phải đăng ký Hợp
đồng chuyển giao công nghệ. Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng;
các đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp mà
cả 2 loại hợp đồng này đều do cơ quan thuộc Bộ Khoa học công nghệ quản lý.
17 | P a g e
Hiện nay, Luật Thương mại (năm 2005) xác định rõ: Franchise là nhượng quyền
thương mại, là hoạt động thương mại (không phải là chuyển giao công nghệ như trước
đây, điều này phù hợp với tập quán thương mại thế giới). Và trước khi nhượng quyền
thương mại, Bên dự kiến nhượng quyền phải đăng ký với Bộ Thương mại thay cho
việc đăng ký tại Cục Sở hữu Trí tuệ như trước.
18 | P a g e
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI VỚI TẬP ĐOÀN THỨC ĂN NHANH
MC DONALD’S
I.
•
Thực trạng nhượng quyền thương mại trên thế giới
Nhượng quyền thương mại được thế giới nhìn nhận là khởi nguồn tại Mỹ nhưng
thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với hình thức có 2 – 3 điểm bán lẻ cùng
hình thức tại một số địa điểm khác nhau cùng kinh doanh. Năm 1840, các nhà sản xuất
bia của Đức cho phép một vài quán bia quyền bán sản phẩm của họ. Năm 1851, lần
đầu tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ ký cho thực hiện hợp đồng
nhượng quyền kinh doanh. Singer đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành người
tiên phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Năm 1880 bắt đầu nhượng
quyền bán sản phẩm cho các đại lý độc quyền trong lĩnh vực xe hơi, dầu lửa, gas.
Trong thời gian này, phạm vi hoạt động nhượng quyền chỉ là chuyển quyền phân phối
và bán sản phẩm của các nhà sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hình thức này đã
thực sự phát triển rất mạnh mẽ. Sự bùng nổ dân số sau chiến tranh đã kéo theo sự tăng
vọt nhu cầu về các loại sản phẩm và dịch vụ và lúc này, nhượng quyền đã trở thành mô
hình kinh doanh thích hợp để phát triển nhanh chóng trong ngành công nghiệp thức ăn
nhanh và khách sạn. Vào thập niên 60-70, nhượng quyền bùng nổ và phát triển mạnh ở
•
Mỹ, Anh và một số nước khác.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa trên thế giới diễn ra rất nhanh và mạnh trong
tất cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy vai trò của nó trên toàn thế
giới. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút lại có 1 hệ thống nhượng quyền mới ra
đời. Ở Mỹ, 90% công ty kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục
hoạt động sau 10 năm trong khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa và cũng chỉ có 5%
công ty theo hợp đồng thương hiệu thất bại trong năm đầu tiên so với 38% công ty độc
•
lập. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên thế giới là điều tất yếu.
Một số kết quả thực sự ấn tượng của hệ thống này mang lại trên thế giới: Doanh
thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên toàn thế giới năm 2000 đạt 1.000 tỷ
USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác nhau. Nếu so sánh với GDP của Việt
Nam cùng năm thì hệ thống này gấp trên 28 lần và còn có dấu hiệu vượt hơn nữa trong
19 | P a g e
những năm gần đây. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán
lẻ, thu hút được trên 8 triệu người lao động tứ là 1/7 tổng lao động ở Mỹ và có hơn
550.000 cửa hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một cửa hàng nhượng quyền mới
ra đời.
Ở Châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại; với
•
167.500 cửa hàng nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro. Tạo
ra hơn 1.5 triệu việc làm. Ở Anh, nhượng quyền thương mại là một trong những hoạt
động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 DN nhượng quyền,
doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh. Khu vực nhượng quyền thương mại cũng thu hút
một lượng lao động lớn với khoảng 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán
lẻ.
•
IFA cho hay, nhượng quyền kinh doanh thương hiệu riêng ở khu vực châu Á đã
•
tạo doanh thu hơn 50 tỷ USD mỗi năm.
Ở Thái Lan số hợp đồng nhượng quyền đang tăng rất nhanh, trong đó có tới
67% thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, với số vốn ban đầu cho mỗi hợp đồng
20.000-65.000 USD. Bộ thương mại công bố chương trình khuyến khích và quảng bá
thương hiệu nội địa ra thị trường quốc tế qua nhượng quyền thương mại. Được hỗ trợ
đào tạo trung và ngắn hạn về công nghệ nhượng quyền thương mại. Bước đầu: năm
•
2004 đạt 25 triệu Baht, năm 2005 tăng 10% tương tự các năm tiếp theo.
Tại Nhật Bản, nhượng quyền thương mại phát triển mạnh từ năm 1996, đến
năm 2004 đó cú 1.074 hệ thống nhượng quyền thương mại và 220.710 cửa hàng nhận
quyền thương mại, doanh thu từ công nghệ nhượng quyền thương mại là khoảng 150 tỉ
•
USD, tăng trưởng hàng năm 7%.
Từ năm 1980, nhượng quyền thương mại vào Trung Quốc. Đến năm 2004,
nước này đó cú 2.100 hệ thống nhượng quyền (nhiều nhất thế giới), với 120.000 cửa
hàng nhượng quyền trong 60 lĩnh vực khác nhau. Biểu đồ tăng trưởng hoạt động
nhượng quyền của Trung Quốc dựng đứng kể từ khi nước này gia nhập WTO. Từ năm
2000, tại Trung Quốc, bình quân mỗi năm hệ thống nhượng quyền tăng 38% vượt xa
mức tăng trưởng 10%/năm của hàng tiêu dùng, các cửa hàng nhận nhượng quyền tăng
55%. Đặc biệt, hệ thống nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp Trung Quốc
•
cạnh tranh ngang hàng với thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng của nước ngoài.
Ở Malaysia, nhìn thấy lợi ích của nhượng quyền thương mại từ 1992, Chính
phủ thành lập chương trình quốc gia về chuyển nhượng (Franchise Development
20 | P a g e
Programe - FDP) với 2 mục tiêu: Gia tăng số doanh nghiệp bán / mua nhượng quyền
thương mại; Thúc đẩy phát triển những sản phẩm / dịch vụ đặc thù nội địa thông qua
•
nhượng quyền thương mại.
Ở Úc, tổng cửa hàng nhượng quyền thương mại khoảng 54.000, đóng góp 12%
vào GDP và tạo hàng trăm ngàn việc làm cho người lao động.
II. Thực trạng nhượng quyền thương mại với tập đoàn kinh doanh hệ thống nhà
hàng thức ăn nhanh McDonald
1. Nhượng quyền với Việt Nam
a. Vai trò của nhượng quyền thương mại với nền kinh tế Việt Nam
Nhượng quyền thương mại là một công cụ đào tạo của xã hội:
Thông qua hệ thống các cửa hàng franchise, doanh nhân mới vào nghề có cơ hội học
hỏi kinh nghiệm điều hành từ một hệ thống bài bản và đã được chứng minh thành công
của chủ thương hiệu. Sau khi được trang bị kiến thức và kinh nghiệm thực tế, người
mua franchise sẽ tự tin hơn nếu muốn bắt đầu xây dựng riêng cho mình một mô hình
kinh doanh mới. Xã hội và nền kinh tế nói chung sẽ giảm bớt thiệt hại gây ra bởi
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do thiếu kinh nghiệm.
Nhượng quyền thương mại là chất xúc tác giúp nền kinh tế phát triển:
Franchise giúp các doanh nghiệp thành công chuyển giao công nghệ cho nền kinh tế
địa phương. Không một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà không cần đến sự
góp sức năng động của mô hình Franchise. Franchise quảng bá và phát huy đội ngũ
doanh nhân - đội ngũ làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế một cách bền vững.
Nhượng quyền thương mại là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam bước ra
sân chơi quốc tế:
Đây cũng được coi là một giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp Việt Nam cùng
đứng vững trên thương trường và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài sẽ "đổ
bộ" vào Việt Nam trong thời gian tới. nhượng quyền thương mại được coi là một trong
những phương thức đầu tư chắc chắn, nhất là đối với những doanh nghiệp Việt Nam
đang có kế hoạch mở rộng ra thị trường thế giới nhiều tiềm năng như Mỹ, EU hay
Nhật Bản. Hình thức này vừa giúp doanh nghiệp thâm nhập vào những thị trường lớn
với chi phí thấp vừa là cách hữu hiệu để bảo vệ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam
21 | P a g e
tại thị trường nước ngoài. Nhượng quyền thương mại là cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam bước ra sân chơi quốc tế. Dự báo trong thời gian tới, hình thức kinh doanh
này sẽ bùng phát ở Việt Nam, khi nhiều nhãn hiệu nước ngoài nổi tiếng đang ngấp
nghé và một số thương hiệu nội cũng đang ráo riết thực hiện phương thức kinh doanh
mới này.
Giúp các doanh nghiệp học hỏi từ doanh nghiệp quốc tế: qua đó phát triển kinh
doanh cũng như sản phẩm mang thương hiệu Việt, cách phát triển và quảng bá thương
hiệu cũng như phát triển cộng tác.
Đối với tình hình đất nước hiện tại, khi mà khoa học công nghệ còn thua xa các
nước phát triển thì điều này rất quan trọng vì giúp công nghệ cao có thể xâm nhập thị
trường dễ dàng, qua đó mà phát triển các sản phẩm khác. Đồng thời điều này cũng thu
hút vốn đầu tư, phát triển các khu công nghiệp, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, chuyển
giao công nghệ và giải quyết vấn đề việc làm. Qua đó phát triển cơ sở hạ tầng đất
nước.
b. Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Xu thế toàn cầu hoá ngày càng tác động mạnh mẽ lên nhiều lĩnh vực hoạt động
kinh tế xã hội ở Việt Nam. Sự hội nhập nền kinh tế thế giới càng được nhận thấy rõ
qua các chỉ tiêu kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, số lượng công ty, sự phong phú
về hàng hoá, dịch vụ, quảng cáo… Sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền
thương mại bằng cách tận dụng tối ưu những nguồn lực của các nhà nhượng quyền và
nhà nhận quyền tại Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này.
Hình thức kinh doanh nhượng quyền đã có mặt tại Việt Nam từ trước năm 1975
thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu (gas station) của Mỹ như
Mobil, Exxon (Esso), Shell.
Sau đó, nhượng quyền thương mại được xem manh nha xuất hiện trở lại vào giữa
thập niên 90 của thế kỷ 20. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã biết tận dụng hình thức
này để làm “đòn bẩy” phát triển thị trường, nâng cao giá trị thương hiệu của mình.
Thực phẩm là ngành thế mạnh của trong nước vào doanh nghiệp có tốc độ nhượng
quyền lan rất nhanh.
22 | P a g e
Trung Nguyên có thể coi là nhà tiên phong tại Việt Nam áp dụng hình thức kinh
doanh này bằng cách phát triển hệ thống đại lý của mình theo hình thức nhượng
quyền. Cho đến nay, doanh nghiệp này không những đã mở rộng chuỗi cửa hàng của
mình trên khắp cả nước mà còn mở rộng sang một số nước như: Nhật, Thái Lan,
Trung Quốc, Singapore….
Sau Trung Nguyên, Phở 24 cũng là doanh nghiệp biết tận dụng tối đa hình thức
nhượng quyền thương mại và được coi là 1 trong những doanh nghiệp nhượng quyền
thành công nhất tại Việt Nam. Phở 24 mới bắt đầu xuất hiện từ năm 2003, việc xây
dựng hệ thống, tổ chức nhượng quyền được đảm bảo thực hiện theo các nguyên tắc cơ
bản của hoạt động nhượng quyền : nhượng quyền có thời hạn, có thu phí nhượng
quyền, tổ chức kinh doanh đặc thù, có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể. Mặc khác, hoạt
động quảng bá của của Phở 24 được thực hiện khá tốt và bài bản đã khiến cho hệ
thống này phát triển một cách ngoạn mục, chưa đầy 03 năm, Phở 24 đã có trên 20 cửa
hàng phở nhượng quyền trong khắp cả nước. Đặc biệt, trong năm 2006, Phở 24 đã tiến
hành nhượng quyền sang Phillipine và Indonesia. Đến tháng 6 năm 2010, Phở 24 đã
mở được 57 cửa hàng trong nước: tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Vũng
Tàu, Nha Trang, Bình Dương, và 16 cửa hàng ngoài nước như Jakarta (Indonesia),
Manila (Philippines), Seoul (Hàn Quốc), Phnom Penh (Campuchia), Úc, Hồng Kông.
Thời gian tới, Phở 24 dự định mở thêm cửa hàng ở một số thành phố chính của Việt
Nam cũng như nước ngoài, nơi có đông dân cư người châu Á và đặt mục tiêu đạt tổng
số 200 cửa hàng vào năm 2012.
23 | P a g e
Bên cạnh các thương hiệu nói trên, có thể kể đến Kinh Đô bakery, thời trang
Ninomax, Foci, giày dép T&T... Đặc biệt T&T là một trong những doanh nghiệp đầu
tiên được Bộ Công Thương cấp phép nhượng quyền sang Maysia và Úc. Đây cũng là
những tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển non trẻ của lĩnh vực nhượng quyền thương
mại tại Việt Nam. Không chỉ những doanh nghiệp lâu năm, có tên tuổi lớn mới có thể
áp dụng. Với nhiều doanh nghiệp mới thành lập, nhượng quyền thương mại là bước đi
cần thiết để làm lớn thương hiệu của mình. Như trường hợp của Siêu thị Thế giới di
động (Công ty TNHH Thế giới di động), dù mới có mặt trên thị trường 6 tháng đã mở
được nhượng quyền thương mại. Ngoài Hà Nội, TP.HCM hiện doanh nghiệp này đang
tìm cách mở rộng thị trường vào phía Nam và miền Tây thông qua mô hình này.
24 | P a g e
Đại diện Công ty Thế giới di động cho hay, từ khi siêu thị có thông báo mời gọi
đối tác nhượng quyền thương mại , có rất nhiều đối tác liên hệ với công ty để tìm hiểu
hình thức này. Đây là tín hiệu vui cho doanh nghiệp biết ứng dụng mô hình “kinh
doanh lót bạc” để phát triển thị trường.
Trong một hội thảo tổ chức tại TP HCM, ông William Edwards, Giám đốc công
ty CEO, Edwads Global Services (Hoa Kỳ), cho biết, kinh nghiệm các thương hiệu lớn
(chiếm 70% - 80% ở Mỹ) cho thấy, khi thực hiện việc nhượng quyền, họ đã tính đến
mức độ khả quan của thị trường. Hàng trăm thương hiệu đã franchise tồn tại và thành
công ở thị trường Châu Á (thị trường kinh doanh thương hiệu có doanh thu hơn 50 tỷ
USD mỗi năm). Ông Edwards chia sẻ thêm, những doanh nghiệp không có đủ khả
năng, tiềm lực tài chính để mở rộng chuỗi phân phối trên phạm vi rộng thì franchise là
một giải pháp rất hữu hiệu.
Hiện có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn nhượng quyền cho doanh
nghiệp trong nước. Theo họ, thời điểm này rất dễ chọn những địa điểm đẹp tại các
thành phố lớn với giá cả phải chăng (trong franchise, địa điểm là yếu tố quyết định
50% cơ hội thành công). Theo ông Hoành, đây là sự đón đầu của các doanh nghiệp
ngoại. Qua được giai đoạn khủng hoảng tài chính thì thị trường franchise tại Việt Nam
sẽ rất sức sôi động.
Ông Albert Kong, Chủ tịch Công ty Asiawide Franchise, cho rằng, thị trường
franchise tại Việt Nam còn sơ khai, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng mạnh, dân số
đông...Vì vậy tiềm năng của thị trường này vẫn rất lớn. Thời gian tới sẽ có nhiều tập
đoàn lớn trên thế giới đổ bộ vào Việt Nam bằng con đường franchise. Theo ông Kong,
kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn khó khăn nhưng đó cũng là cơ hội, vấn đề nằm
ở chỗ ai là người biết nắm thời cơ và có điều kiện để biến cơ hội thành hiện thực.
Bên cạnh những thành công bước đầu đạt được trong nhượng quyền thương mại ,
phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn như: thiếu vốn,
thiếu trình độ quản lý và kiểm soát, chưa chuẩn hoá được quy trình và thương hiệu,
chưa hoạch định chiến lược và mô hình kinh doanh phù hợp do đó hầu như không thể
thực hiện được mô hình nhượng quyền thương mại toàn diện.
25 | P a g e