Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Đánh giá mức độ thích nghi cây cao su với đất đai trên địa bàn huyện Di Linh, Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.52 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa
bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Đất là
điều kiện chung đối với mọi quá trình sản xuất của ngành kinh tế quốc dân và hoạt động
của con người, là điều kiện vật chất cần thiết để con người tồn tại và tái sản xuất cho các
thế hệ tiếp theo.
Ngày nay, hoạt động của con người ngày càng gia tăng cùng với việc gia tăng
dân số làm cho nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và đất đai ngày càng bị suy thoái
dẫn đến giảm năng suất và không mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nên cần phải đánh
giá lại vấn đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và môi trường để phục vụ cho công tác
quy hoạch đạt hiệu quả lâu dài và ổn định. Trong đó công tác đánh giá đất đai là một
phần quan trọng và là nền tảng trong quy hoạch sử dụng đất đai, cung cấp đầy đủ thông
tin về tính chất đất đai và các kết quả họat động của con người trên từng đơn vị đất đai
đó, từ đó các nhà chuyên môn có thể vận dụng để chọn lọc và đề nghị cho các đánh giá
và đề xuất khác nhau làm cơ sở cho các quyết định và cấp độ quản lý sử dụng đất.
Thuộc khu vực miền núi Tây nguyên, Di Linh có diện tích đất nông nghiệp khá
lớn, tuy nhiên để phát triển được tối đa tiềm năng của đất đai, mang lại hiệu quả kinh tế
cao, ta cần thực hiện việc quy hoạch phân bổ hợp lý tài nguyên đất với loại hình sử dụng
đất lựa chọn.
Trong nông nghiệp, hiệu quả kinh tế từ việc trồng các loại cây công nghiệp dài
ngày khá cao nhờ vào giá trị xuất khẩu của chúng , giúp cuộc sống của người dân cải
thiện được nhiều hơn trong đó phải kể đến cây cao su. Cũng như nhiều địa phương khác
lựa chọn việc trồng và phát triển cao su nhằm đem lại giá trị về kinh tế , huyện Di Linh
đã lựa chọn loại hình sử dụng đất này để quy hoạch, phát triển.
Do đó, để thực hiện tốt công tác quy hoạch cần phải đánh giá khả năng thích nghi
của cây cao su đối với chất lượng đất đai của huyện Di Linh đến từng đơn vị đất đai .Qua
đó phân bố, thành lập bản đồ thích nghi làm căn cứ, cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất.


PHẦN 1: TỔNG QUAN
1.1 Giới thiệu vấn đề nghiên cứu



Đánh giá đất đai là một quá trình điều tra, nghiên cứu đặc điểm và đánh giá
khả năng sử dụng đất đai cho sản xuất nông nghiệp được thực hiện hầu hết ở tất cả
các nước trên thế giới. Quá trình điều tra đánh giá tài nguyên đất đai đều dựa trên
nền tảng căn bản là sức sản xuất của đất thể hiện bằng các chỉ tiêu tính chất tự
nhiên của đất đai, như loại đất, tầng dầy, thành phần cơ giới, độ phì, địahình, địa
mạo, chế độ nước, khí hậu,… Công tác đánh giá đất đai của các nước có sự khác
nhau chủ yếu về việc đánh giá vai trò của các chỉ tiêu kinh tế, như năng suất cây
trồng, hiệu quả kinh tế, mức đầu tư và thu nhập trong đánh giá đất đai. Từ đó,
đánh giá đất đai cho phép phát hiện các tiềm năng đất đai và thiên nhiên chưa
được sử dụng hết hoặc sử dụng chưa hợp lý, để đưa vào sản xuất hoặc để nâng cao
sản lượng cây trồng, vật nuôi và nâng cao hiệu quả kinh tế. Trong quá trình đánh
giá đất đai sẽ phát hiện ra các loại đất mới, đủ phẩm chất sẽ đưa vào sản xuất nông
lâm nghiệp có định hướng. Cũng trong quá trình đánh giá đất đai sẽ chọn ra cho
vùng nghiên cứu một hệ thống sử dụng đất hợp lý bảo đảm cho việc sử dụng đất
đai một cách bền vững và đạt được mục tiêu sử dụng đất hợp lý , tiết kiệm và hiệu
quả.
Ngoài ra, đánh giá đất đai còn có ý nghĩa quan trọng là nghiên cứu các biện
pháp tăng cường độ phì nhiêu theo từng loại ruộng đất, đồng thời phát hiện những
nguyên nhân làm cho năng suất cây trồng thấp kém, dự kiến các phương án khắc
phục và xây dựng các biện pháp kỹ thuật sử dụng đất cho từng vùng đất, phù hợp
với chất lượng đất đai. Và đánh giá đất đai là cơ sở khoa học quan trọng nhất cho
công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý và có hiệu quả.
Trong nông nghiệp, hiệu quả kinh tế từ việc trồng các loại cây công nghiệp dài
ngày khá cao nhờ vào giá trị xuất khẩu của chúng , giúp cuộc sống của người dân cải
thiện được nhiều hơn trong đó phải kể đến cây cao su. Cũng như nhiều địa phương khác
lựa chọn việc trồng và phát triển cao su nhằm đem lại giá trọ về kinh tế , huyện Di Linh
đã lựa chọn loại hình sử dụng đất này để quy hoạch, phát triển. Tuy nhiên đặc điểm tài
nguyên đất đai của mỗi vùng là khác nhau vì vậy trước khi sử dụng đất , chúng ta cần
phải đánh giá khả năng thích nghi của cây trồng để có thể sử dụng một cách hợp lý hay

có những biện pháp khắc phục sao cho cây trồng đạt năng suất cao đem lại những hiệu
quả lớn về kinh tế.

1.2 Tổng quan lịch sử và quan điểm lựa chọn vấn đề nghiên cứu


 Trên thế giới

Từ những thập niên 50 của thế kỷ XX, các nhà khoa học không dừng lại ở việc
nghiên cứu đặc điểm đất đai và thống kê tài nguyên đất mà còn nghiên cứu đánh giá
khả năng thích nghi đất đai để đề xuất sử dụng đất hợp lý. Năm 1970 nhiều quốc gia
ở Châu Âu đã cố gắng tìm cách phát triển các hệ thống đánh giá đất đai riêng cho
quốc gia họ, các nhà khoa học đã quan tâm đặc biệt đến phương pháp đánh giá đất đai
và xem như một trong những chuyên ngành nghiên cứu quan trọng. Các nước như
Mỹ, Anh, Canada, Ấn Độ, Ba Lan, Bungaria, Liên Xô cũ… đã nghiên cứu đánh giá
đất đai, xác định khả năng thích hợp, ít thích hợp và không thích hợp cho sản xuất
nông - lâm nghiệp dựa vào các chỉ tiêu lựa chọn riêng của từng quốc gia.
Qua đánh giá đất đai của các nước trên thế giới, các nhà nghiên cứu thấy rằng cần có
sự thống nhất và tiêu chuẩn hoá việc đánh giá đất đai trên toàn cầu. Vì vậy đã hình
thành hai Uỷ ban nghiên cứu là Hà Lan và FAO (Rome, Ý); kết quả là một dự thảo
đầu tiên ra đời (FAO,1972), sau đó được Brinkman và Smyth soạn lại và in ấn năm
1973.
Năm 1975, hội nghị tại Rome có những ý kiến đóng góp cho bản dự thảo năm 1973
đã được các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của FAO biên soạn lại để hình
thành nội dung phương pháp về đánh giá đất đai đầu tiên của FAO (A Framework for
Land Evaluation) công bố năm 1976, sau đó được bổ sung và chỉnh sửa năm 1983.
Bên cạnh tài liệu tổng quát của FAO, một số hướng dẫn cụ thể khác về đánh giá đất
đai cho từng đối tượng chuyên biệt cũng được FAO ấn hành như:
Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (Land Evaluation for Rainfed
Agriculture, 1983); Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp có tưới (Land Evaluation

for Irrigated Agriculture, 1985); Đánh giá đất đai cho trồng trọt đồng cỏ quảng canh
(Land Evaluation for Extensive Grazing, 1989); Đánh giá đất đai cho mục tiêu phát
triển (Land Evaluation for Development, 1990); Đánh giá đất đai và phân tích hệ
thống canh tác cho việc quy hoạch sử dụng đất (Land Evaluation and Farming System
Analysis for Land Use Planning, 1992).
Hiện nay, công tác đánh giá đất đai đã trở thành một khâu trọng yếu trong các hoạt
động đánh giá tài nguyên hay quy hoạch sử dụng đất (theo FAO, Guidelines for Land
Use Planning, 1994). Song song với sự phát triển công nghệ, công tác đánh giá đất
đai được sự hỗ trợ mạnh mẽ của kỹ thuật máy tính và hệ thống thông tin địa lý (GIS),
trở thành công cụ cần thiết cho việc thẩm định và ước lượng tiềm năng sản xuất của
đất đai cho mục tiêu phát triển bền vững.
 Tại Việt Nam
Từ những năm 1970, Bùi Quang Toản cùng nhiều nhà khoa học của Viện Nông
Hoá Thổ Nhưỡng (Vũ Cao Thái, Nguyễn Văn Thân, Đinh Văn Tỉnh...) đã tiến
hành đánh giá phân hạng đất ở 23 huyện, 286 hợp tác xã và 09 vùng chuyên canh.


Kết quả phục vụ cho công tác tổ chức lại sản xuất và đề ra quy trình kỹ thuật phân
hạng đất cho các hợp tác xã và các vùng chuyên canh. Quy trình gồm 04 bước:
Thu thập tài liệu; Vạch khoanh đất; Đánh giá và phân hạng chất lượng đất; Xây
dựng bản đồ phân hạng đất. Các yếu tố sử dụng trong đánh giá, phân hạng đất
vùng đồng bằng bao gồm: Loại đất, độ dày tầng đất, độ chặt, xốp, hạn, úng, mưa,
mặn, chua... Các yếu tố đó được chia thành 4 mức độ thích hợp là rất tốt, tốt, trung
bình và kém.
Về phân hạng, đất được chia thành 04 hạng từ hạng I đến hạng IV theo thứ tự từ
tốt đến xấu. Quy trình này đã được áp dụng trong một thời gian dài. Tuy nhiên,
vấn đề kinh tế và môi trường thì chưa được nghiên cứu sâu.
Những năm 1980 trở lại đây, các nghiên cứu về đánh giá khả năng sử dụng đất đai
được tiến hành ở Việt Nam, đã có nhiều cơ quan khoa học nghiên cứu và thực hiện
như Viện Thổ nhưỡng - Nông hóa, Viện QH - TKNN, Tổng cục Quản lý ruộng

đất, các trường Đại học Nông nghiệp, Luật thuế sử dụng đất của Nhà nước cũng
dựa trên cơ sở đánh giá phân hạng đất. Một số công trình, đề tài nghiên cứu về
đánh giá, phân hạng đất được triển khai trên toàn quốc với nhiều đối tượng cây
trồng và nhiều vùng chuyên canh. Đánh giá đất đai trở thành qui định bắt buộc
trong công tác quy hoạch sử dụng đất. Một số công trình tiêu biểu như:
+ Đánh giá phân hạng đất khái quát trên toàn quốc (Tôn Thất Chiểu và nhóm
nghiên cứu) thực hiện năm 1984 ở tỷ lệ bản đồ 1/50.000 dựa trên nguyên tắc phân
loại khả năng đất đai của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, chỉ tiêu sử dụng đất là đặc
điểm thổ nhưỡng và địa hình, được phân cấp gồm 07 nhóm đất.
+ Trong nghiên cứu đánh giá và quy hoạch sử dụng đất khai hoang ở Việt Nam
(Bùi Quang Toản và nhóm nghiên cứu) đã tiến hành phân loại khả năng thích hợp
đất đai theo FAO nhưng chỉ đánh giá các điều kiện tự nhiên và hệ thống phân vị
dừng lại ở lớp thích nghi cho từng loại hình sử dụng đất.
+ Trong chương trình 48C, Viện Thổ nhưỡng - Nông hóa do Vũ Cao Thái chủ trì
đã nghiên cứu đánh giá, phân hạng đất Tây Nguyên với cây cao su, chè, cà phê và
dâu tằm. Đề tài vận dụng phương pháp đánh giá khả năng thích nghi đất đai của
FAO theo kiểu định tính, đánh giá khái quát tiềm năng đất đai của vùng, việc phân
cấp được dừng lại ở cấp phân vị là lớp thích nghi với cấp: Rất thích nghi (S1),
Thích nghi trung bình (S2), Ít thích nghi (S3), Không thích nghi (N).
Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được những chỉ tiêu và tiêu chuẩn đánh giá, phân
hạng đất cho từng loại cây trồng, nhưng các chỉ tiêu đó đơn thuần thiên về mặt thổ
nhưỡng, chưa quan tâm đến vấn đề khí hậu, thuỷ văn và các điều kiện kinh tế xã
hội cũng như tác động của môi trường.


+ Ở đồng bằng sông Cửu Long một số nghiên cứu chuyên đề ở khu vực nhỏ đã
bước đầu ứng dụng phương pháp đánh giá đất đai định lượng của FAO (Lê Quang
Trí, 1989; Trần Kim Tính, 1986).
Từ năm 1992, phương pháp đánh giá đất đai của FAO và các hướng dẫn tiếp theo
(1983, 1985, 1987, 1992) đã được các cơ quan nghiên cứu về đất trên phạm vi cả

nước triển khai thực hiện. Hội nghị đánh giá đất đai cho việc quy hoạch sử dụng
đất trên quan điểm sinh thái bền vững, đã được Viện QH - TKNN, Vụ Khoa học
và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Hà Nội (910/01/1995). Hội nghị này cho thấy một số kết quả sau:
- Bảy vùng kinh tế của toàn quốc đã được đánh giá đất đai trên bản đồ tỷ lệ
1/250.000 (Trần An Phong, Phạm Quang Khánh, Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn
Khang, Phạm Dương Ưng và ctg, 1993 - 1994).
- Một số tỉnh đã có bản đồ đánh giá đất đai theo phương pháp của FAO, tỷ lệ
1/50.000 và 1/100.000 như: Bình Định (Trần An Phong, Nguyễn Chiến Thắng,
1994); Gia Lai - Kontum (Nguyễn Ngọc Tuyển, 1994); Bình Phước (Phạm Quang
Khánh và ctg, 1999); Bà Rịa - Vũng Tàu (Phạm Quang Khánh, Phan Xuân Sơn,
2000); Bạc Liêu (Nguyễn Văn Nhân và ctg, 2000); Cà Mau (Phạm Quang Khánh
và ctg, 2001); Đồng Nai (Phân viện QH - TKNN, 2004).
Qua nghiên cứu cho thấy, công tác đánh giá đất đai ở Việt Nam không thể dừng lại
ở mức độ phân hạng chất lượng tự nhiên của đất mà phải chỉ ra được các loại hình
sử dụng đất thích nghi cho từng hệ thống sử dụng đất khác nhau với nhiều đối
tượng cây trồng nông, lâm nghiệp khác nhau. Vì vậy các nhà khoa học đất cùng
với các nhà quy hoạch, quản lý đất đai trong toàn quốc đã nhanh chóng vận dụng
tài liệu đánh giá đất đai của FAO, những kinh nghiệm của các chuyên gia đánh giá
đất quốc tế để ứng dụng vào điều kiện Việt Nam, hàng loạt các dự án nghiên cứu
được tiến hành từ cấp vùng sinh thái đến tỉnh, huyện và tổng hợp thành cấp quốc
gia, mang lại nhiều kết quả khả quan trong đánh giá đất đai, góp phần hoàn thiện
hơn các tư liệu, thông tin về đất đai có giá trị phục vụ cho quy hoạch sử dụng đất
và chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở cấp cơ sở.
 Nhận xét chung về công tác đánh giá đất đai
Trên thế giới có xu thế kết hợp giữa kết quả nghiên cứu đất và đánh giá đất đai,
khai thác triệt để nguồn tài nguyên đất đai, một thiếu sót rất lớn là các chỉ tiêu về
xã hội và môi trường còn ít được quan tâm trong đánh giá đất đai. Vì thế đã đặt ra
nhu cầu cấp bách nhằm đánh giá khả năng và mức độ có thể khai thác được tài
nguyên đất đai sao cho đạt được sự phát triển bền vững về sinh thái, từ đó nhu cầu
đánh giá đất đai cho phát triển bền vững đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối

với các quốc gia. Những công trình nghiên cứu về nội dung phương pháp đánh giá
đất đai ngày càng được hoàn thiện; nghiên cứu tài nguyên đất hiện nay không thể


dừng lại ở thống kê tài nguyên mà còn phải thực hiện đánh giá khả năng thích nghi
và giới hạn của tài nguyên đất đai trong quá trình sử dụng đất.
Từ sau những năm 1990 đến nay, đánh giá đất đai theo FAO đã được áp dụng khá
rộng rãi vào điều kiện thực tiễn Việt Nam; nghiên cứu đánh giá đất theo quan
điểm hệ thống trong mối quan hệ giữa tự nhiên với kinh tế - xã hội có xem xét đến
tác động môi trường. Quy trình đánh giá đất đai theo FAO (1976) đã tổng hợp
được ý tưởng của thế giới về phương pháp đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai
nông thôn tốt nhất, làm tiền đề cho công tác quy hoạch sử dụng đất, làm căn cứ đề
xuất sử dụng đất hợp lý và hiệu quả. Phương pháp đánh giá đất đai theo hướng dẫn
của FAO đã được trắc nghiệm và được chấp nhận ở nhiều quốc gia; bản chất của
đánh giá đất đai chính là sự so sánh hay gắn kết các nhu cầu của mỗi kiểu sử dụng
đất đai tiềm năng với các đặc tính của mỗi loại đất.
Việc nghiên cứu, đánh giá về các loại hình sử dụng đất bền vững, tính hiệu quả
kinh tế của từng hệ thống sử dụng đất hầu như ít được chú trọng. Tình hình biến
động đất đai trong những năm qua khá lớn, nhất là đất sản xuất nông nghiệp, việc
chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra khá phổ biến, một phần do phụ thuộc vào
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, một phần do việc bố trí cây trồng chưa phù hợp
với tính thích nghi của đất đai. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải xác định cụ thể chất
lượng đất đai, xác định tính phù hợp và hạn chế của đất đai với từng loại hình sử
dụng đất; nhất thiết phải xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu tài nguyên đất.
 Quan điểm lựa chọn đề tài

Đánh giá đất đai là nền tảng của quy hoạch sử dụng đất đai trong tương lai. Đánh
giá đất đai là đánh giá khả năng thích nghi của đất đai bao gồm các yếu tố về tự
nhiên và kinh tế - xã hội, các yếu tố đó phát triển theo thời gian cùng với sự phát
triển của đất nước luôn mang theo sự phát triển đó thì các yếu tố về đất đai, cây

trồng, vật nuôi trong nông nghiệp dần dần lạc hậu, điều đó đòi hỏi cần phải đánh
giá lại khả năng thích nghi đất đai đặc biệt là đánh giá khả năng thích nghi định
lượng về kinh tế là điều kiện tối ưu và rất cần thiết để đảm bảo phát triển một nền
nông nghiệp bền vững và lâu dài, theo kịp với sự phát triển của thời đại. Do đó cần
phải làm tốt quy trình đánh giá đất đai để đám bảo cho công tác quy hoạch cũng
như sử dụng đất đai một cách hợp lý , hiệu quả đạt được mục tiêu sử theo chính
sách đất đai của nước ta : “ sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả”
1.2 Khái quát hoạt động nghiên cứu
(1) Thu thập thông tin, đánh giá điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của
huyện Di Linh. Chọn các đặc tính đất đai để phân cấp thích nghi như loại đất, độ
dốc, tầng dày đất và khả năng tưới.


(2) Chồng lớp các bản đồ đơn tính về đặc tính của đất đai, xây dựng bản đồ đơn vị

đất đai và mô tả các đơn vị bản đồ đất đai. Mỗi đơn vị bản đồ đất đai sẽ có những
đặc tính đất đai riêng và khác so với những đơn vị bản đồ đất đai lân cận.
(3) Chuyển đổi những đặc tính đất đai của mỗi đơn vị bản đồ đất đai thành các chất
lượng đất đai mà những chất lượng đất đai này có ảnh hưởng trực tiếp đến loại hình sử
dụng đất cao su .
(4) Xác định yêu cầu về đất đai cho loại hình sử dụng đất đã chọn – cao su.
(5) Đối chiếu giữa yêu cầu sử dụng đất đai của cây cao su diễn tả dưới dạng phân cấp
yếu tố với các chất lượng trong mỗi đơn vị bản đồ đất đai được diễn tả dưới dạng yếu
tố chẩn đoán. Sau đó tổng hợp khả năng thích nghi của chất lượng đất đai đối với cây
cao su bằng phương pháp điều kiện giới hạn ( hạn chế).
Kết quả cho được sự phân hạng khả năng thích nghi đất đai của mỗi đơn vị bản đồ
đất đai với loại hình sử dụng đất đai.
(6) Từ kết pủa phân hạng khả năng thích nghi của mỗi đơn vị bản đồ đất đai ta lập
bản đồ thích nghi đất đai.
(7) Sau khi đánh giá thích nghi đất đai của địa bà nghiên cứu với loại hình sử dụng

đất đã chọn, ta tổng hợp và đưa ra kết luận, kiến nghị, định hướng sử dụng đất một
cách hiệu quả, tiết kiệm và hợp lý.
1.3 Cơ sở lý thuyết, pháp lý và thực tiễn
 Cơ sở lý thuyết
 Đặc tính của đất đai
Đặc tính của đất đai (Land characteristics) là những thuộc tính của đất đai
mà ta có thể đo lường hoặc ước lượng được. Như vậy có một số thuộc tính
tự nhiên ảnh hưởng đến chất lượng đất đai nhưng vì lý do nào đó ta không
đo đếm hay ước lượng được (không định lượng được mà chỉ có định tính)
thì cũng không được chọn để mô tả đặc tính đất đai.
 Loại hình sử dụng đất (Land Use Type - LUT)
Loại hình sử dụng đất hiện tại là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của
một vạt hoặc khoanh đất với những phương thức quản lý, sản xuất trong
điều kiện kinh tế - xã hội và kỹ thuật được xác định. Một loại hình sử dụng
đất có thể là một loại cây trồng hoặc một số loại cây trồng trong một điều
kiện kỹ thuật và kinh tế - xã hội nhất định. Các thuộc tính của loại hình sử
dụng đất bao gồm các thông tin về sản xuất; thị trường tiêu thụ sản phẩm;
đầu tư, lao động, biện pháp kỹ thuật, yêu cầu về cơ sở hạ tầng; mức thu
nhập v.v...
 Yêu cầu sử dụng đất đai ( Land use requirement - LR)
Yêu cầu sử dụng đất đai là những điều kiện đất đai cần thiết và đòi hỏi cho
việc bố trí một loại hình sử dụng đất cụ thể một cách ổn định và có hiệu


quả. Bao gồm các yêu cầu của cây trồng, vật nuôi, yêu cầu về quản trị và
bảo vệ đất đai.
 Yếu tố hạn chế là chất lượng đất đai hoặc đặc tính đất đai có ảnh hưởng
bất lợi đến tiềm năng đất đai đối với loại hình sử dụng đất nhất định; được
dùng làm tiêu chuẩn để phân cấp các mức thích nghi đất đai.
 Đơn vị đất đai (Land Units):

Đơn vị đất đai là thuật ngữ dùng để chỉ một diện tích đất đai với
những điều kiện môi trường đặc trưng. ĐVĐĐ khác nhau được phân biệt
bởi sự sai khác của một hoặc nhiều yếu tố, chỉ tiêu đất đai dẫn đến sự sai
khác trong sử dụng đất. ĐVĐĐ là cơ sở để tiến hành đánh giá, phân hạng
thích nghi đối với từng loại hình sử dụng đất. Có cùng một điều kiện quản
lý đất và cùng một khả năng sản xuất và cải tạo đất, mỗi ĐVĐĐ có chất
lượng (đặc tính và tính chất) riêng và nó thích hợp với một loại hình sử
dụng đất nhất định.
Đơn vị đất đai được hiểu là những vùng đất trên thực tế tương ứng
với các khoanh vi trên bản đồ, có sự đồng nhất tương đối về các chỉ tiêu, đó
là các tính chất, đặc điểm cơ bản của đất thuộc về cả tự nhiên (đất, nước,
khí hậu…) và kinh tế - xã hội. Tập hợp các đơn vị đất đai trong khu vực,
vùng nghiên cứu đánh giá được thể hiện bằng bản đồ đơn vị đất đai.
 Đơn vị bản đồ đất đai (Land Mapping Unit - LMU)

Đơn vị bản đồ đất đai là những vạt đất với những đặc trưng cụ thể, để có
thể nhìn thấy được và có thể xác định được trên khung địa lý. Đơn vị bản
đồ đất đai có thể hiểu là một khoanh đất hay vạt đất được xác định cụ thể
trên bản đồ với những tính chất đất đai riêng biệt thích hợp đồng nhất cho
từng loại hình sử dụng đất nhất định (FAO, 1983). Tập hợp các đơn vị đất
đai trong khu vực đánh giá đất đai được thể hiện bằng bản đồ đơn vị đất đai
(LUM).
 Chất lượng đất đai (LQ)
Chất lượng đất đai (LQ): là một “đặc trưng của đất đai mà những tác động
trong từng tính chất của nó sẽ ảnh hưởng lên tính thích nghi của đất đai cho
một kiểu sử dụng riêng biệt”. Thí dụ chất lượng đất đai như: chế độ nhiệt,
khả năng hữu dụng độ ẩm, khả năng thoát, khả năng cung cấp dinh dưỡng,
điều kiệncho rễ, tiềm năng cho cơ giới hóa, và nguy hại do xói mòn.
Hay có thể hiểu chất lượng đất đai là tính chất phức hợp của
nhiều yếu tố tự nhiên thông thường phản ánh mối quan hệ nội tại củarất

nhiều đặc tính đất đai.
 Phương pháp đánh giá đất của FAO (1976)
Hiện nay công tác đánh giá đất đai được thực hiện trên nhiều quốc gia và
trở thành một khâu trọng yếu trong hoạt động đánh giá tài nguyên đất và


quy hoạch sử dụng đất đai (FAO, 1994). Từ năm 1992 đến nay, đánh giá
đất của FAO đã được Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp tiến hành
nghiên cứu, ứng dụng trên thực tế khá phù hợp nhằm đưa vào quy trình xây
dựng các dự án quy hoạch và phát triển nông nghiệp, quy hoạch tổng thể và
quy hoạch sử dụng đất từ các cấp vùng, tỉnh hoặc huyện trên phạm vi toàn
quốc.
Có thể nói, xuất phát từ những nhu cầu sử dụng và quản lý tài
nguyên đất, vấn đề nghiên cứu đất trên cơ sở đánh giá khả năng sử dụng
thích nghi đất đai ở Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu kinh tế sản
xuất nông lâm nghiệp là cần thiết nhằm điều tra, phân hạng và định hướng
sử dụng, quản lý nguồn tài nguyên đất một cách hữu hiệu gắn với quan
điểm sinh thái bền vững và bảo vệ môi trường.Các kết quả bước đầu của
các hoạt động đánh giá đất đai trong những năm qua với sự hỗ trợ và giúp
đỡ tích cực của các cơ quan Nhà nước và quốc tế đã và đang góp phần hoàn
thiện quy trình đánh giá đất của Việt Nam
Đánh giá đất đai là cơ sở và nền tảng cho quy hoạch sử dụng đất đai,
đánh giá đất đai bên cạnh việc liên quan đến các yếu tố thuận lợi và bất lợi
của môi trường, kết quả này còn cung cấp rất nhiều thông tin liên quan đến
tính chất của đất đai và những tác động của con người trong việc sử dụng
đất đai. Nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý đáp ứng
được nhu cầu thực tế trong sử dụng đất đai kèm theo sự phát triển của xã
hội, hạn chế sự suy thoái về đất đai trong huyện Di Linh thì việc đánh giá
đất đai, xây dựng các chất lượng đất đai, đồng thời đánh giá được khả năng
thích nghi của một số cơ cấu cây trồng, cụ thể là cao su là rất cần thiết cho

định hướng sự phát triển nền nông nghiệp của huyện. Cần xác định lại các
chất lượng đất đai đưa ra yêu cầu sử dụng đất đai cho các kiểu sử dụng đất
đai thích hợp chính trong vùng nghiên cứu. Đồng thời điều tra kiểu sử dụng
đất đai trên các đơn vị đánh giá đất đai đã được phân hạng thích nghi để so
sách sự khác biệt, tìm ra nguyên nhân, tư đó đưa ra hướng khắc phục cho
phù hợp với tình hình thực tế trong vùng nghiên cứu.
Quy trình
Quy trình đánh giá đất đai được áp dụng theo đề cương của FAO - 1976 có
chỉnh sửa năm 1983 và được chỉ dẫn trong các tài liệu hướng dẫn đánh giá
đất đai cụ thể cho:
- Nông nghiệp có mưa (FAO, 1983)
- Đất rừng (FAO, 1984)
- Nông nghiệp có tưới (FAO, 1984)
- Đồng cỏ chăn thả (FAO, 1992)
Quy trình tập trung vào các bước chính sau:


1) Dựa vào mục tiêu và quy mô của từng dự án đánh giá đất đai, thu thập
các tài liệu, thông tin có sẳn về tự nhiên, kinh tế và xã hội của vùng dự án.
2) Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai: mô tả các đơn vị bản đồ đất đai (Land
Mapping unit - LMU) dựa trên kết quả điều tra tài nguyên đất. Mỗi một đơn
vị bản đồ đất đai (LMU) có số lượng các đặc tính như độ dốc, lượng mưa,
phẫu diện đất, thoát nước, thảm thực vật… khác với đơn vị bản đồ đất đai
(LMU) kề bên.
3) Chuyển đổi các đặc tính của mỗi đơn vị bản đồ đất đai (LMU) thành các
tính chất đất đai có tác động trực tiếp đến sự hình thành hệ thống sử dụng
đất (Land Use System - LUS) hay nói cách khác đó là sự kết hợp của loại
hình sử dụng đất (Land Use Type - LUT) được lựa chọn với đơn vị bản đồ
đất đai (LMU).
4) Xác định và mô tả các LUT với các thuộc tính chính liên quan đến:

- Các chính sách và mục tiêu phát triển
- Những hạn chế đặc biệt trong sử dụng đất
- Những nhu cầu và ưu tiên của các chủ sử dụng đất
- Các điều kiện tổng quát về kinh tế - xã hội và sinh thái nông nghiệp trong
vùng đánh giá đất đai.
5) Quyết định các yêu cầu sử dụng đất (chủ yếu về tự nhiên và sinh học)
cho mỗi loại hình sử dụng đất được lựa chọn.
6) Đối chiếu xếp hạng các LUT trên cơ sở so sánh các yêu cầu sử dụng đất
của các LUT với các tính chất đất đai của các LMU nhằm xác định mức độ
phù hợp của các tính chất đất đai của mỗi LMU cho mỗi LUT. Quá trình
đối chiếu này là tiền đề của nội dung phân hạng thich hợp của các LMU
cho từng LUT. Tiến hành phân hạng thích hợp đất đai cho các LUT đã đối
chiếu.
7) Đề xuất các hệ thống sử dụng đất tối ưu và các giải pháp tạo các LUT
thích hợp phục vụ quy hoạch sử dụng đất và tăng cường công tác quản lý,
bảo vệ tài nguyên đất của vùng đánh giá đất.
Như vậy đánh giá đất đai dựa trên cơ sở so sánh các dữ liệu tài nguyên đất
với các yêu cầu sử dụng đất của từng loại hình sử dụng đất. Nó cung cấp
thông tin về sự thích hợp đất đai cho việc sử dụng đất, cũng có nghĩa là nó
cung cấp thông tin về sự thích hợp trong sử dụng đất cho công tác quy
hoạch sử dụng đất.
Quy trình đánh giá đất đai đã dựa vào các ý kiến tham khảo của các chuyên
gia khoa học đất thế giới. Đây không phải là một hệ thống đánh giá đất đai
nguyên bản mà dựa trên cơ sở của các nguyên tắc và khái niệm của “Đề
cương đánh giá đất” của FAO có thể hệ thống hóa và phát triển thêm cho


mỗi quốc gia, mỗi vùng và địa phương. Nguyên nhân cần thiết phải tuân
thủ theo đề cương FAO là:
- Cung cấp một loạt các nguyên tắc, những khái niệm và quy trình đánh giá

đất (Land Evaluation - LE) để sử dụng đất một cách cụ thể và hợp lý cho
sản xuất nông lâm nghiệp và bảo vệ tự nhiên.
- Được áp dụng cho các bản đồ tỷ lệ từ toàn cầu đến địa phương, ở tất cả
các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới.
- Đưa ra được những chú ý thích đáng về đất đai theo nghĩa rộng nhất (cho
tổng thể, cho cá biệt) về yếu tố sinh thái và về các khía cạnh kinh tế - xã hội
- kỹ thuật trong sử dụng đất. Các kết quả đánh giá đất đai đã cung cấp
những thông tin cần thiết cho quy hoạch sử dụng đất.
- Có thể được dùng làm chỉ dẫn để chuẩn hóa cho các hệ thống đánh giá đất
đai hiện tại và ứng dụng các kết quả của hệ thống này.
 Nguyên tắc đánh giá đất đai :
- Đánh giá đất đai phải dựa vào các loại hình sử dụng đất khác nhau. Một
vạt đất cùng lúc có thể thích ứng với nhiều loại hình sử dụng đất. Cũng có
vạt đất thích hợp với loại hình sử dụng đất này nhưng không thích hợp với
một loại hình sử dụng đất khác. Cho nên phải chọn một tập hợp các loại
hình sử dụng đất dùng trong đánh giá đất đai. Nói cách khác là khả năng
thích nghi đất đai phải được đánh giá cho các loại hình sử dụng đất cụ thể,
thể hiện sự so sánh về lợi nhuận và mức đầu tư cần thiết cho từng kiểu sử
dụng đất khác nhau.
- Đánh giá đất đai còn mang tính địa phương, vì mỗi một địa phương có
những yếu tố đánh giá đất khác nhau. Như vậy phải tùy theo điều kiện tự
nhiên của từng vùng mà chọn các yếu tố đánh giá đất đai khác nhau, đánh
giá đất đai còn phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của vùng nghiên
cứu.
- Đánh giá đất đai có tính xã hội cao, phải có sự tham gia của nhiều nhà
chuyên môn như: thổ nhưỡng, nông học, lâm nghiệp, kinh tế - xã hội học,
môi trường… Vai trò của người nông dân trực tiếp tham gia thảo luận trong
quá trình đánh giá đất đai là rất quan trọng. Kết quả cuối cùng của đánh giá
đất đai phải được đa số người nông dân chấp nhận.
- Các chỉ tiêu kinh tế sử dụng trong đánh giá đất đai là rất quan trọng và

không thể thiếu được.
- Khả năng thích nghi đưa vào sử dụng phải xây dựng trên nền tảng sử dụng
đất bền vững, các nhân tố sinh thái trong sử dụng đất phải được dùng để
quyết định.
- Đánh giá đất đai phải đứng trên quan điểm sự ảnh hưởng và liên quan các
yếu tố về môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội đến vùng đang nghiên cứu.


 Cơ sở pháp lý

Đánh giá đất đai là một trong những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai được
thể hiện ở điều 22 Luật Đất đai 2013. Như chúng ta đã khẳng định Đánh giá đất
đai là xác định tiềm năng đất đai phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của con
người, qua đó đánh giá đất đai giữ một vai trò vô cùng quan trọng, để đánh giá
đúng số lượng, chất lượng đất đai phải cần phải tiến hành các biện pháp điều tra,
khảo sát và đánh giá đất .
Điều tra, khảo sát, đo đạc là các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm xác định về số
lượng đất ở từng địa phương và trên cả nước. Đánh giá đất đai nhằm mục đích xác
định tiềm năng đất đai phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của con người, là
tiền đề quan trọng cho công tác lập quy hoạch đất đai cũng như hoạt động xây
dựng thông tin đất đai. Thấy được tầm quan trọng của hoạt động đánh giá đất đai,
Nhà nước đã có những quy định hướng dẫn và thực hiện cũng như giám sát trong
Luật và các văn bản như :
- Luật đất đai 2013 quy định thực hiện hoạt động điều tra, đánh giá đất đai
trong điều 32, 33 tại Mục 2 Chương III .
- Nghị định số 43/NĐ-CP
- Thông tư số 35/2014/TT-BTNMT được Bộ Tài nguyên và Môi trường ban
hành ngày 30 tháng 6 năm 2014 quy định, hướng dẫn thi hành về công tác
điều tra, đánh giá đất đai.
 Dựa vào thực tiễn

Từ hiện trạng sử dụng đất đai hiện nay trên địa bàn nghiên cứu huyện Di Linh tỉnh
Lâm Đồng ta cơ bản xác định được các loại hình sử dụng đất phù hợp theo đặc
điểm, chất lượng đất đai sẵn có của khu vực và đưa ra được những đánh giá sơ bộ
về khả năng thích nghi của cao su với chất lượng đất đai tại huyện Di Linh tỉnh
Lâm Đồng.
1.4 Các phương pháp nghiên cứu đã thực hiện
 Phương pháp phân tích tổng hợp : Từ những thông tin, bản đồ đơn tính về từng

đặc tính của đất đai ta tiến hành phân tích và tổng hợp theo từng đơn vị đất đai để
dễ dàng cho việc thống kê , tính toán. Ở đây ta sử dụng phương pháp phân tích
không gian để khai thác thông tin trên bản đồ thông qua các phân mềm như
MapInfo, ArcGIS,…..
 Phương pháp thống kê mô tả : sau khi phân tích tổng hợp thông tin từ bản đồ, dữ
liệu ta tiến hành thống kê phân loại các đặc tính đất đai theo từng đơn vị bản đồ
đất đai và mô tả, phục vụ cho việc đánh giá, phân cấp khả năng thích nghi của chất
lượng đất đai với loại hình sử dụng đất cao su.
 Phương pháp chuyên gia : Tham giả ý kiến của chuyên gia trong các lĩnh vực đất
đai, kinh tế, xã hội, môi trường và các lĩnh vực có liên quan.


 Phương pháp luận đánh giá thích nghi theo tiêu chuẩn của FAO để xác định thích

nghi cho các yếu tố. Trong nghiên cứu này chúng ta thực hiện phương pháp đánh
giá định tính.

PHẦN 2 : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương 1: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội địa bàn huyện Di Linh, tỉnh Lâm
Đồng
2.1.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
a. Vị trí địa lý

Huyện Di Linh là huyện miền núi nằm về phía Đông Nam của tỉnh Lâm Đồng.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện theo ranh giới “364” là: 162.755 ha chiếm 16,7%
diện tích toàn tỉnh. Trong ranh giới hành chính của Huyện được chia thành 18 xã, thị
trấn (Thị trấn Di Linh, xã Tam Bố, Gia Hiệp, Đinh Lạc, Tân Nghĩa, Tân Châu, Tân
Thượng, Đinh Trang Thượng, Bảo Thuận, Gung Ré, Sơn Điền, Gia Bắc, Liên Đầm,
Đinh Trang Hoà, Hoà Ninh, Hoà Nam, Hoà Bắc, Hoà Trung).
 Ranh giới hành chính:

- Bắc Giáp huyện Lâm Hà và tỉnh Đăk Nông
- Nam giáp tỉnh Bình Thuận.
- Đông giáp huyện Đức Trọng và huyện Lâm Hà.
- Tây giáp huyện Bảo Lâm.
Di Linh nằm ở trung tâm hai trục giao thông quốc lộ 20 từ thành phố Hồ Chí Minh
đi Đà Lạt và quốc lộ 28 từ Phan Thiết đi Buôn Mê Thuột. Cách Thành Phố Đà Lạt 80
km về phía Nam. Do đó Di Linh có vị trí thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế với các
huyện thị trong tỉnh và các vùng kinh tế Tây Nguyên, Duyên Hải, Nam bộ và vùng
trọng điểm phía nam.


b. Địa hình địa mạo
- Với độ cao trung bình từ 800 -1200m nằm ở phía nam cao nguyên Di Linh, phía
đông nam và phía tây là các sườn dốc đổ xuống Bình Thuận với nhiều đỉnh núi cao
trên 1500m về mặt địa hình trên địa bàn huyện khá đa dạng, có thể chia thành ba dạng
địa hình chính.
- Địa hình núi cao nằm ở phía đông nam thuộc các xã Bảo Thuận, Sơn Điền, Gia
Bắc độ cao trên 1200m. Độ dốc phổ biến > 200.


- Địa hình bình nguyên đặc trưng là các dãy đồi thấp đỉnh rộng có độ cao từ 900
-1200m. Độ dốc phổ biến từ 80 - 250.

- Địa hình dốc tụ thung lũng bao gồm các cánh đồng hẹp có độ cao từ 800 – 900m
phân bổ ven sông, suối, độ dốc phổ biến < 8 0.
c. Khí hậu
- Huyện Di Linh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều,
khí hậu ôn hòa quanh năm. Tuy nhiên do diện tích đất rừng giảm nên khí hậu có xu
hướng nóng lên. Trong năm chia làm hai mùa rõ rệt.
Nhiệt độ trung bình năm tương đối thấp 21 0c, độ ẩm không khí 75%. Khí hậu có
nét đặc trưng riêng thích hợp với các loại cây lâu năm như cà phê, chè… cho phép bố
trí cây trồng vật nuôi có nguồn gốc nhiệt đới, ôn đới, cùng với khí hậu ôn hoà thời tiết
quanh năm mát mẻ thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng.
d. Các tài nguyên thiên nhiên
 Tài nguyên nước

Nguồn nước mặt khá phong phú bao gồm hệ thống sông suối phân bổ khá đều.
Trong đó có một số sông suối lớn như Đa Dâng, Dariam, Darioum, Katan, Da Kanan...
với tổng chiều dài dòng chảy xuyên qua huyện 284km, chiếm diện tích mặt nước
644,36 ha có khả năng cung cấp nước tưới trong mùa khô.
Hiện trạng thuỷ lợi đã xây dựng được 16 hồ, 5 đập thuỷ lợi với diện tích mặt nước
1456 ha trong đó công trình thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi phần diện tích lòng hồ
ngập nước trong địa giới huyện Di Linh là: 1066ha.
Nhìn chung, sông suối trên địa bàn phân bố khá đều, nhưng ngắn dốc, nên nước
mưa tập trung về nhanh, đặc biệt là những ngày mưa lớn, đã gây ra tình trạng ngập úng
cục bộ ở một số khu vực thấp trủng ven sông suối, nhưng về mùa khô nhiều sông suối
thường cạn kiệt. Tuy nhiên, trên các sông suối này có nhiều vị trí thuận lợi để xây
dựng hồ chứa, đập dâng phục vụ tưới tiêu và thuỷ điện nhỏ.
 Tài nguyên đất

Theo kết quả Thống kê Kiểm kê đất đai của huyện Di Linh thì tổng diện tích đất tự
nhiên là 158.393,92 ha.
Di Linh là vùng đất đỏ Bazan màu mỡ thuận lợi cho việc trồng các loại cây hoa

màu và cây công nghiệp dài ngày, đất nông nghiệp chiếm diện tích khá lớn trong tổng
diện tích tự nhiên của toàn huyện. Di Linh có thế mạnh về kinh tế lâm sản, có nhiều
loại gỗ quý, đặc biệt và phong phú là thông 2 lá
 Tài nguyên rừng


Nằm trong hệ sinh thái Rừng Tây Nguyên. Rừng ở đây có nguồn lực phong phú trong
quần thể sinh cảnh đa dạng phần lớn phân bố ở phía Bắc và phía Nam huyện (Vùng tụ
thuỷ và đầu nguồn lưu vực) có vai trò lớn đối với phòng hộ, cân bằng môi trường sinh
thái. Đặc biệt là nơi có 11.702,29ha rừng phòng hộ cho hai công trình thuỷ điện lớn của
phía Nam là Trị An và Hàm Thuận - Đa Mi. Rừng Di Linh có trữ lượng gỗ lớn, nhiều
loại gỗ quý hiếm, động vật hoang dã phong phú. Ngành lâm nghiệp chiếm vị trí đáng kể
trong cơ cấu kinh tế của huyện.
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
- Dân số, lao động, việc làm năm 2014
Toàn huyện đến nay có 155.084 người (Theo số liệu thống kê năm 2014). Hộ gia
đình cá nhân sử dụng đất: 33.253 hộ, tổ chức sử dụng đất đóng trên địa bàn: 46 đơn vị.
Năm 2014 tổng số người trong độ tuổi lao động của huyện là: 76.450 người, lao
động nông nghiệp là 48.580 người chiếm 63%, lao động phi nông nghiệp là 30.216
người chiếm 37%.
Có 28 dân tộc anh em sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc ít người chiếm khỏang
36%. Trong những năm qua tình hình di dân tự do từ các tỉnh phía bắc, miền trung và
miền tây nam bộ đến Di Linh định cư và làm ăn sinh sống ngày càng đông, làm cho
dân số tăng nhanh không có định hướng, không quy họach. Có nhiều vấn đề nổi cộm
như tình hình sang nhượng đất đai, chuyển mục đích sử dụng.
Giao Thông
Di Linh nằm trên hai trục giao thông chính, quốc lộ 20 chạy từ tây sang đông dài
40km là trục giao thông huyết mạch nối Di Linh với Bảo Lộc và Đà Lạt. Quốc lộ 28
chạy từ bắc xuống nam dài 91 km nối Di Linh với Bình Thuận, Phan Thiết và Gia
Nghĩa tỉnh Đăk Nông. Di Linh hiện nay có khoảng 600km đường bộ trong đó quốc lộ

131km, đường liên xã 90 km còn lại là đường liên khu liên thôn. Đường tráng nhựa có
khỏang 150 km, còn lại là đường đá cấp phối và đường đất.
-

Thủy lợi
Toàn huyện có 27 hồ đập với diện tích dùng cho thủy lợi khoảng 500ha và có khả
năng tưới cho 3000 ha. Thực trạng các công trình thủy lợi phần lớn bị xuống cấp đa
phần lòng hồ bị bồi lắng, phần mái đập bị xói lở, các tuyến kênh bị hư hỏng, đồng thời
do nạn phá rừng đầu nguồn nên lượng nước đầu nguồn có chiều hướng cạn kiệt dần.
-

Công tác giáo dục đào tạo
Nhìn chung các ngành học cấp học điều phát triển ổn định và có những tiến bộ
đáng kể toàn huyện có 67 trường học, 1277 lớp, 851 phòng học với 1577 giáo viên
-


trực tiếp giảng dạy. tổng số học sinh được huy động đến trường đầu năm là 38.861 học
sinh, nghành học mầm non có 5431 cháu.
Khó khăn hiện nay trên lĩnh vực giáo dục là tình trạng cơ sở vật chất trường
hợp mặc dù đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn còn thiếu một số phòng học, công tác
quản lý chuyên môn ở một số trường còn chưa tốt, đội ngũ giáo viên tuy đã từng bước
được chuyển hóa nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, đời sống nhân dân
còn khó khăn đã ảnh hưởng một phần đến việc duy trì sĩ số và khả năng đóng góp xây
dựng trường lớp ở một số địa phương.
Hoạt động y tế sức khỏe
Hoạt động trên lĩnh vực y tế, y tế dự phòng, đội ngũ cán bộ y tế thôn bản không
ngừng được cũng cố và nâng cao cả về số lượng và chất lượng. đến nay 100% số xã
trên toàn huyện đã có trạm y tế 100% các trạm y tế đều có bác sĩ. Việc thực hiện các
trương trình y tế quốc gia, việc chăm lo sức khỏe cộng đồng trong các khu vực dân cư

được tiến hành bằng sự phối hợp nhiều biện pháp, nhiều lĩnh vực, được triển khai thực
hiện có hiệu quả, cấp thuốc, khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào dân tộc, các đối
tượng chính sách, xã hội. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao lên cả hai tuyến
huyện và cơ sở, đã tạo khả năng tốt hơn cho việc thực hiện nhiệm vụ y tế bảo vệ sức
khỏe trên địa bàn huyện.
-

Khó khăn tồn tại chủ yếu của lĩnh vực y tế là cơ sở vật chất, thiết bị khám phá
chữa bệnh còn nhiều thiếu thốn thất lạc hậu, chất lượng khám chữa bệnh, hiệu quả
hoạt động của mạng lưới cán bộ y tế cơ sở, công tác quản lý nhà nước về hoạt động y
tế trên địa bàn huyện còn nhiều điểm chưa khắc phục được.
Hạn chế trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn ở huyện Di Linh là chậm và
chưa đồng bộ, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, chất lượng
công trình chưa cao, nhất là tuyến giao thông quan trọng, hiệu quả phát huy các công
trình thủy lợi còn hạn chế.

Chương 2 : Đặc điểm tài nguyên đất đai
Huyện Di linh với tổng diện tích tự nhiên là : 158.393,92 ha với 5 nhóm đất là đất
phù sa, đất đỏ , đất xám, đất đen và đất chuyển đổi mới.
a. Nhóm đất phù sa (P, Pg)


Trên địa bàn huyện Di Linh có 8882,010 ha đất phù sa chiếm 0,55% diện tích tự nhiên
gồm 1 đơn vị đất đó là phù sa ngòi suối (Ps) Nhóm đất này được phân dọc sông Đa Dâng,
thuộc các xã Gia hiệp, Đinh Trang Thượng, Đinh Lạc và Tân Thượng .Độ dốc trung bình
từ 0 – 3 độ , tầng dày trên 100 cm. Hiện diện tích này được sử dụng trồng lúa nước, màu
mùa mưa một số khu vực thường ngập nước nên sản xuất không ổn định.
b. Nhóm đất đỏ (Fd)

Có 4.088,66 ha chiếm 2,58 % diện tích tự nhiên của huyện Di Linh, nhóm đất

đỏ phân bố ở diện rộng trên địa bàn huyện, bao gồm các loại sau: Đất nâu đỏ
trên đá bazan Fk , Đất nâu vàng trên đá bazan Fu , Đất đỏ vàng trên đá phiến
sét Fs , Đất đỏ vàng trên đá đa xít và Granite Fa .Nhóm đất này có độ phì cao,
thành phần cơ giới nặng, tầng dày lớn, thích hợp với nhiều loại cây trồng nhất
là cây công nghiệp dài ngày.
c. Nhóm đất xám (X)

Đất xám có diện tích 103464,42 ha chiếm 65,32 % tổng diện tích đất tự nhiên toàn
huyện. Đây là nhóm đất phổ biến nhất , chiếm phần lớn diện tích tài nguyên đất.
Đất xám thường có thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, nghèo mùn đạm, lân
và kali, thường có độ phì không cao nhưng đổi lại đất xám lại thích hợp với nhiều
loại hình sử dụng đất. Trong nông nghiệp các loại hình sử dụng đất phù hợp rất
phong phú từ các cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, chè,…. Đến các
loại cây ăn quả hay các loại cây hằng năm.
d. Nhóm đất đen (R)

Với diện tích 49.681,02 ha đất đen chiếm 31,37 % diện tích đất tự nhiên của
huyện Di Linh. Đất đen ở Di Linh được hình thành trên sản phẩm đá bọt
bazan, có độ dốc chủ yêu từ 0 -15 độ , thành phần cơ giới thịt nặng đến trung
bình , tầng dày từ 50 -100, đất có độ phì cao thích hợp với nhiều loại cây
trồng.
e. Nhóm đất mới biến đổi (CM)

Nhóm đất mới biến đổi được hình thành trong điều kiện rửa trôi, feralit hoá,
glây hoá còn xảy ra ở mức độ thấp. Nhóm đất này có 5 đơn vị đất: đất mới
biến đổi đọng nước tự nhiên, đất mới biến đổi chua, đất mới biến đổi giàu
mùn, đất mới biến đổi có tầng loang lổ đỏ vàng chua, đất mới biến đổi tầng
mỏng đọng nước tự nhiên có diện tích 277,810 ha chiếm 0,18 % tổng diện tích
đất từ nhiên toàn huyện.



Bảng 2.1 Thống kê loại đất trên địa bàn huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng
Tên loại đất
Ký hiệu
Diện tích
Tổng diện tích tự nhiên = 158393.92ha
Hécta
%
Đất phù sa
So1
882.010
0,55
Đất gley
So2
0
0
Đất đỏ
So3
4088.660
2.58
Đất xám
So4
103464.420
65.32
Đất mới biến đổi
So5
277.810
0.18
Đất đen
So6

49681.020
31.37
Di linh là một huyện miền núi ở khu vực Tây nguyên, nằm trên cao nguyên di linh nên
địa hình chủ yếu là đồi núi có độ dốc chủ yếu trên 25 độ với 87796.99 ha chiếm 55,43 %,
độ dốc dưới 30 chiếm diện tích nhỏ nhất với 4366,47 ha tương đương với 2,76% tổng
diện tích đất tự nhiên toàn huyện, độ dốc tù 3 – 8 0 có 5383 ha ứng với 3,4% tổng diện
tích tự nhiên của huyện, từ 8 – 150 có 11381,29 ha tức 7,47%, từ 15 đến 200 có 30671.28
ha tức 19,36% và độ dốc từ 20 – 250 có diện tích là 18344.89 chiếm 11,58% .
Với độ dốc này, phù hợp với việc trồng lâm nghiệp và các công công nghiệp dài ngày, ở
những nơi có độ dốc lớn cần triển khai các phương pháp trồng như làm ruộng bậc thang
để phù hợp với yêu cầu của loại hình sử dụng đất lựa chọn.

Độ dốc ( độ)

Ký hiệu

Diện tích
Tổng diện tích tự nhiên = 158393.92 ha
Hécta
%
0–3
Sl1
4366.470
2.76
3-8
Sl2
5383.000
3.40
8 – 15
Sl3

11381.29
7.47
15-20
Sl4
30671.28
19.36
20-25
Sl5
18344.89
11.58
>25
Sl6
87796.99
55.43
Bảng 2.2 Thống kê diện tích đất theo độ dốc trên địa bàn huyện di Linh, tỉnh Lâm


Đồng

Bảng 2.3 Thống kê diện tích đất phân loại theo tầng dày trên địa bàn huyện DI
Linh, tỉnh Lâm Đồng
Tầng dày( cm)

Ký hiệu

< 30
30-50
50-70
70-100
>100


De1
De2
De3
De4
De5
Tổng diện tích tự nhiên

Diện tích
Hecta
%
671.247
0.42
24747.77 15.62
52839.95 33.08
18874.06 11.92
61710.89 38.96
158393.92 100

Từ bảng số liệu ta thấy , tầng dày đất trên địa huyện Di Linh tương đối lớn chủ yếu
trên 100 cm chiếm 38,96% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện, và ở ngưỡng từ 50
– 70cm chiếm khoảng 33,08 % tổng diện tích đất tụn nhiên của huyện. Tầng dày dưới
30cm có diện tích khá nhỏ là 671,247 ha ứng với 0,42% tổng diện tích tự nhiên của
huyện. Với tầng dày đất như vậy phù hợp với nhiều loại hình sử dụng đất khác nhau ,


rất phong phú cho việc lựa chọn loại hình phù hợp như các cây công nghiệp dài ngày,
cây ăn quả,….
Bảng 2.4 Thống kê diện tích đất theo khả năng tưới trên địa bàn huyện Di Linh


STT

Khả năng tưới

Ký hiệu

1
2
3

Có tưới
Tưới bổ sung
Không tưới

Ir1
Ir2
Ir3

Tổng

Diện tích
Hecta
%
14764,77 9,32
17479,98 11,04
126149,1 79,64
7
158393,92 100

Nguồn nước mặt ở Di Linh khá phong phú và phân bố tương đối đều thuận tiện cho

sinh hoạt và việc tưới tiêu trong nông nghiệp. Tuy nhiên, trữ lượng của các nguồn
nước này không lớn nên còn nhiều vùng không có đủ nước để tưới tiêu chiếm đến
79,64% diện tích đất nông nghiệp không tưới. Có 17479,98 ha diện tích đất có thể
tưới bổ sung chiếm 11,04% tổng diện tích tự nhiên, chỉ có 9,32% tổng diện tích đất có
tưới thường xuyên.

Chương 3 : Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
Bản đồ đơn vị đất đai là một bản đồ chuyên ngành thể hiện sự phân bố không gian
của các đơn vị đất đai. Bản đồ đơn vị đất đai được xây dựng trên cơ sở chồng xếp các
loại bản đồ đơn tính về các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng chất lượng đất đai dựa
vào các yếu tố và chỉ tiêu phân cấp đã lựa chọn theo cùng tỷ lệ và lưới chiếu. Các
khoanh, vạt đất trên LUM sau khi chồng xếp là đơn vị bản đồ đất đai.
Đơn vị bản đồ đất đai (LMU) là một hợp phần của hệ thống sử dụng đất trong
đánh giá đất. Đơn vị bản đồ đất đai là những khoanh/vạt đất được xác định cụ thể trên
bản đồ đơn vị đất đai (LUM) với những đặc tính và tính chất đất đai riêng biệt thích
hợp đồng nhất cho từng loại hình sử dụng đất (LUT), có cùng một điều kiện quản lý
đất, cùng một khả năng sản xuất và cải tạo đất. Mỗi đơn vị đất đai có chất lượng (đặc
tính và tính chất) riêng và nó thích hợp với một loại hình sử dụng đất nhất định (FAO,
1983).
Các đơn vị bản đồ đất đai được thể hiện lên bản đồ là những vùng với những đặc tính
và chất lượng đủ để tạo nên sự khác biệt với các đơn vị đất đai khác. Nhằm bảo đảm sự


thích hợp của chúng với các loại hình sử dụng đất khác nhau. Các đơn vị bản đồ đất đai
có thể được mô tả theo các đặc tính và chất lượng của chúng.
Đơn vị bản đồ đất đai được sử dụng làm cơ sở để đánh giá đất, là thể tổng hợp của
nhiều loại bản đồ được chồng ghép lên nhau như bản đồ đất, bản đồ khí hậu, bản đồ
thủy văn… trong đó bản đồ đất làm nền tảng.
Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai (LUM) cần phải tuân thủ các điều kiện sau:
- Đơn vị bản đồ đất đai cần bảo đảm tính đồng nhất tối đa hoặc các chỉ tiêu phân cấp

phải được xác định rõ. Các đơn vị bản đồ đất đai phải được vẽ lên bản đồ, nếu chúng
không thể hiện được lên bản đồ thì cũng phải được mô tả chi tiết.
- Các đơn vị bản đồ đất đai phải có ý nghĩa thực tiễn cho các loại hình sử dụng đất sẽ
được đề xuất lựa chọn.
- Các đơn vị bản đồ đất đai phải được xác định một cách đơn giản dựa trên những đặc
điểm quan sát trực tiếp trên đồng ruộng hoặc qua sử dụng các kỹ thuật giải đoán ảnh
máy bay, ảnh viễn thám.
- Các đặc tính và tính chất của các đơn vị bản đồ đất đai phải là đặc tính và tính chất
khá ổn định của đất, nước, khí hậu không có sự thay đổi nhanh chóng làm ảnh hưởng
đến sự thay đổi trong thực hành quản lý. Vì chúng sẽ là các nhu cầu sử dụng đất thích
hợp cho các loại hình sử dụng đất trong đánh giá.
Như đã nói ở trên, các đơn vị bản đồ đất đai với các đặc tính và tính chất riêng biệt
có liên quan đặc biệt đến các điều kiện sinh thái và môi trường tự nhiên của mỗi
vùng. Vì vậy, trước khi tiến hành xây dựng bản đồ đơn vị đất đai (LUM) cần phải thu
thập các tài liệu về môi trường, sinh thái, nguồn tài nguyên đất và khả năng sản xuất
của vùng nghiên cứu. Các tài liệu này hoặc đã và đang được các cơ quan nghiên cứu,
điều tra hoàn thiện hoặc chưa hoàn thiện, đòi hỏi các dự án đánh giá đất đai phải tiếp
tục thực hiện. Chúng là dữ liệu thông tin và số liệu kỹ thuật quan trọng để xác định
các chỉ tiêu chất lượng của đơn vị bản đồ đất đai (LMU) cũng như các chỉ tiêu phân
cấp khi xây dựng bản đồ đơn vị đất đai. Đối với bản đồ đơn vị đất đai huyện Di Linh,
tỉnh Lâm Đông được tổng hợp, chồng xếp của bản đồ đất và các bản đồ đơn tính chỉ
tiêu phân cấp như về độ dốc, tầng dày và khả năng tưới.
Nguyên tắc xây dựng bản đồ đơn vị đất đai là chồng xếp các lớp thông tin và các đặc
trưng tự nhiên quyết định chất lượng đất đai. Bao gồm các bước sau:
Bước 1: Khảo sát, thu thập các tư liệu (bản đồ), dữ liệu của vùng nghiên cứu
Để đánh giá đất đai (Land Evaluation - LE) phục vụ cho nông nghiệp, lâm nghiệp,
thủy sản, chăn nuôi cần thiết phải điều tra, khảo sát và thu thập các thông tin sau:
1) Nhóm thông tin về điều kiện tự nhiên
- Thông tin về đất: Bản đồ đất, báo cáo chú giải bản đồ đất, số liệu thống kê diện tích
các loại đất và số liệu phân tích lý hóa học đất…



- Thông tin về địa chất, địa hình, địa mạo: Bản đồ địa hình, bản đồ độ dốc, bản đồ địa
mạo, bản đồ địa chất…
- Thông tin về nước: Bản đồ thủy văn (chế độ ngập lụt, xâm nhập mặn, khả năng tưới
tiêu...) và các báo cáo có liên quan.
2) Nhóm thông tin về sử dụng đất
- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất và báo cáo thuyết minh
- Các báo cáo, số liệu về tình hình sử dụng đất
- Các tài liệu báo cáo về tình hình sử dụng và sản xuất nông, lâm nghiệp… (diện tích,
năng suất, sản lượng, hiệu quả kinh tế, thị trường…)
Bước 2: Xem xét các tư liệu và tổ chức điều tra bổ sung nếu cần thiết
Nghiên cứu kỹ các tài liệu thu thập được. Các tài liệu nào có chất lượng không tốt cần
phải điều tra, chỉnh lý bổ sung. Tuỳ theo chất lượng tài liệu thu được mà quyết định
nội dung và mức độ bổ sung. Bước này cần xem xét kỹ là bản đồ thổ nhưỡng, trong
trường hợp chưa có bản đồ thổ nhưỡng nhất thiết phải điều tra xây dựng bản đồ thổ
nhưỡng; trường hợp có bản đồ thổ nhưỡng nhưng chất lượng không tốt, cần thiết phải
điều tra bổ sung xây dựng bản đồ thổ nhưỡng có chất lượng cao hơn.
Bước 3: Xây dựng các bản đồ đơn tính cùng tỷ lệ với bản đồ định xây dựng
- Bản đồ các đặc trưng về thổ nhưỡng (Bản đồ vùng đất, địa hình…)
- Bản đồ đặc trưng khí hậu (Lượng mưa, thời gian mưa, nhiệt độ…)
- Bản đồ đặc trưng về nước (Ngập lụt, tưới tiêu…)
Các bản đồ về các điều kiện tự nhiên thu thập được thường được xây dựng ở những tỷ
lệ bản đồ rất khác nhau. Cho nên trước hết phải đưa các bản đồ đơn tính này về cùng
một tỷ lệ của bản đồ cần đánh giá đất đai. Các loại bản đồ đơn tính cần xây dựng phụ
thuộc vào các chỉ tiêu đã lựa chọn.
Bước 4: Chồng xếp các bản đồ đơn tính xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
Nguyên tắc chồng xếp là lấy bản đồ các vùng đất (Soil zone) làm nền tảng, chồng xếp
lần lượt các lớp thông tin, theo thứ tự thông tin nào quyết định nhiều đến chất lượng
đất đai thì được ưu tiên trước, các lớp thông tin sau cần được nắn theo các lớp thông

tin trước trong trường hợp các lớp thông tin gần trùng nhau.
Kỹ thuật chồng xếp được thực hiện qua hai phương pháp:
- Phương pháp thủ công, chồng xếp theo thứ tự từng lớp thông tin
- Sử dụng kỹ thuật hệ thống thông tin địa lý (Geographical Information System - GIS)
Cụ thể để xây dựng bản đồ đơn vị đất đai của huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng ta
chồng xếp lần lượt các bản đồ : lấy bản đồ đất nền tảng chồng lần lượt các bản đồ về
độ dốc, tầng dày và khả năng tưới.
Theo quy định, với các bản đồ đơn vị đất đai cấp huyện được xây dựng theo tỷ lệ :
• Tỷ lệ1/25000 với các huyện có diện tích tự nhiên dưới 100000 ha
• Tỷ lệ 1/50000 với các huyện diện tích tự nhiên trên 100000 ha


Huyện Di Linh có tổng diện tích tự nhiên là 158393,92 ha nên ta thành lập bản đồ đơn vị
đất đai của huyện Di Linh ở tỷ lệ 1/50000



×