ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ THU HẰNG
MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ (PPP) TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ THU HẰNG
MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ (PPP) TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ngọc Giao
HÀ NỘI - 2015
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Ngô Thị Thu Hằng
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các hình
1.1.
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ
6
Khái luận về mô hình hợp tác công tư
6
1.1.1. Khái niệm mô hình hợp tác công tư
6
1.1.2. Lý do ra đời của mô hình hợp tác công tư
8
1.1.3. Các hình thức của mô hình hợp tác công tư
12
1.2.
16
Đặc điểm của mô hình hợp tác công tư
1.2.1. Đặc điểm chung
16
1.2.2. Những thuận lợi và hạn chế của PPP
17
1.3.
22
Rủi ro của mô hình hợp tác công tư
1.3.1. Nhận diện rủi ro
22
1.3.2. Phân bổ rủi ro
24
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG
27
TƢ TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.
Thực trạng pháp luật về mô hình hợp tác công tư
27
2.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PPP
27
2.1.2. Hạn chế của pháp luật về mô hình hợp tác công tư
45
2.2.
55
Thực tiễn áp dụng mô hình hợp tác công tư
2.2.1. Thực tiễn áp dụng mô hình hợp tác công tư tại Việt Nam
55
2.2.2. Kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng mô hình hợp tác công tư tại
61
một số quốc gia trên thế giới
4
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUÔN KHỔ THỂ CHẾ VỀ
70
MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ TẠI VIỆT NAM
3.1.
Cơ sở hình thành kiến nghị
70
3.1.1. Các bài học được rút ra từ các nghiên cứu về PPP
70
3.1.2. Các nhân tố chính tác động đến sự thành công của PPP
72
3.1.3. Những tồn tại khi áp dụng PPP và nguyên nhân
77
3.2.
78
Kiến nghị hoàn thiện khuôn khổ thể chế PPP ở Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PPP
79
3.2.2. Tăng cường năng lực của cơ quan nhà nước về PPP
82
3.2.3. Bảo đảm các điều kiện cần thiết để dự án PPP được thực hiện
83
KẾT LUẬN
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86
5
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Tên hình
Trang
hình
1.1
Xu hướng phân bổ rủi ro của các dự án PPP hiện nay
26
2.1
Đầu tư PPP tại các nước đang phát triển (1990 - 2010)
66
2.2
Các nhân tố tác động đến sự thành công của PPP
72
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, rất nhiều nước trên thế giới đã và đang triển khai thành công
mô hình hợp tác công - tư (Public Private Partnership - PPP). Các chuyên gia
khẳng định rằng quan hệ đối tác giữa Nhà nước và tư nhân (Public - Private)
hiện đang là một xu hướng trên thế giới và Việt Nam đang nằm trong xu
hướng đó. Khái niệm mô hình hợp tác công - tư (PPP) tuy mới mẻ và được
triển khai chưa rõ nét ở Việt Nam nhưng đối với các nước khác trên thế giới
mô hình này đã được áp dụng hơn 50 năm.
Với quan điểm chỉ những gì tư nhân không thể làm hoặc không thể
tham gia thì Nhà nước mới làm, theo mô hình PPP, nhà nước khuyến khích để
tư nhân tham gia đầu tư ở hầu hết các lĩnh vực. Mô hình PPP kết hợp được
nhiệm vụ của dịch vụ công với hiệu quả của một hay nhiều doanh nghiệp tư
nhân cho phép các chính quyền địa phương nhanh chóng đạt được những tiêu
chuẩn quốc tế tốt nhất trong các dịch vụ công, tạo thuận lợi cho chuyển giao
công nghệ tiên tiến, hiện đại. Xu hướng đó cũng được Việt Nam tiếp cận dần,
thực hiện trên chủ trương thống nhất của Đảng, Nhà nước tại Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng:
Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết
cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các hình
7
thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước và
nước ngoài, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực cho phát triển [11].
Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình hợp tác công - tư, nhưng
cách phổ biến nhất là nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân cùng ký một hợp
đồng để phân chia lợi ích, rủi ro cũng như trách nhiệm của mỗi bên trong
việc xây dựng một cơ sở hạ tầng hay cung cấp một dịch vụ công nào đó.
Tuy nhiên, không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia đang phát triển
khác luôn có một khoảng cách giữa nhu cầu phát triển các lĩnh vực kinh tế xã
hội như giao thông, môi trường… so với tiềm lực thực tế. Trong các lĩnh vực
quan trọng này, Nhà nước luôn phải "quán xuyến" từ A tới Z dẫn đến sự quá
tải trong nhiều bộ phận hành chính công khiến các dịch vụ công phát triển
chậm, chất lượng thấp. Sự góp mặt bình đẳng của lĩnh vực kinh tế tư nhân
theo mô hình PPP là một giải pháp khả thi trong xu hướng hiện nay.
Do đó, một trong những động lực thúc đẩy mô hình PPP là Nhà nước
phải có một hành lang pháp lý về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các văn bản pháp
luật về lĩnh vực này còn khá khiêm tốn, chưa đủ tạo ra một hành lang pháp lý
vững chắc, chưa thể khiến doanh nghiệp mặn mà với lĩnh vực công qua mô
hình hợp tác này. Cần nghiên cứu kỹ hơn, xây dựng hệ thống văn bản quy định
rõ ràng và tăng tính cạnh tranh bằng việc tăng quyền lợi cho các doanh nghiệp
tư nhân để khuyến khích họ tham gia vào lĩnh vực công theo mô hình PPP từ
thực tiễn và kinh nghiệm có thể tham khảo được từ các nước trên thế giới.
Với cách tiếp cận như vậy, đề tài "Mô hình hợp tác công tư (PPP) tại
Việt Nam" cố gắng đáp ứng được phần nào các yêu cầu mà lý luận và thực
tiễn đang đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mô hình PPP đã xuất hiện khá sớm trên thế giới và thực tiễn áp dụng
cũng vô cùng phong phú. Bởi thế, mô hình PPP đã được các luật gia trên thế
8
giới nghiên cứu và viết khá nhiều song nó chỉ mang tính định hướng mà chưa
có hệ thống bởi đó là sự kết tinh lại từ các thực tiễn khác nhau tại từng quốc
gia. Tại Việt Nam mô hình này còn mới mẻ nên việc nghiên cứu về cơ sở vận
hành và khung pháp lý của nó còn rất ít và chưa có hệ thống. Có thể kể ra một
số bài viết, nghiên cứu như Hợp tác công tư trong đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng giao thông của PGS.TS Nguyễn Hồng Thái; Hiện trạng và các phương
án huy động vốn cho các dự án giao thông vận tải theo mô hình PPP tại Việt
Nam của TS. Hà Khắc Hảo, ngày 24/11/2009; Luận án tiến sĩ: Hình thức hợp
tác công tư (Public Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông đường bộ tại Việt Nam, của Huỳnh Thị Thúy Giang (2012)... Tuy nhiên,
chưa có một đề tài nghiên cứu tổng quát và chuyên sâu về khung pháp lý của
mô hình hợp tác công tư trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam. Ngoài ra, các
bài nghiên cứu và tài liệu về PPP của các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ tiền
tệ Thế giới (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) rất đa dạng, có giá trị khoa học, đặc biệt có thể ứng dụng các bài học rút
ra từ thực tiễn các nước đang phát triển có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.
Đây là một nguồn tư liệu rất quý giá hỗ trợ học viên thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận, dựa trên những chủ trương,
đường lối, chính sách xây dựng kinh tế - xã hội của Việt Nam để nhằm tới
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", luận
văn đặt mục đích nghiên cứu là góp phần tổng hợp có hệ thống các quy phạm
pháp luật về mô hình hợp tác công tư ở Việt Nam, nghiên cứu thực tiễn áp dụng
tại các quốc gia trên thế giới để rút ta bài học áp dụng tại Việt Nam, đồng thời
đóng góp một số kiến nghị cho việc hoàn thiện chế định pháp luật này.
Bởi mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về mô hình hợp tác công tư nhằm làm rõ
các yếu tố chủ yếu của mô hình này, cũng như các yếu tố có tính nguyên tắc
chi phối chúng;
9
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng mô hình hợp tác công tư của
một số quốc gia trên thế giới, các bài học kinh nghiệm cho việc áp dụng mô
hình hợp tác công tư phù hợp cho thực tế tại Việt Nam;
- Nghiên cứu, tổng hợp hệ thống các quy định pháp lý về mô hình hợp
tác công tư tại Việt Nam;
- Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về mô hình hợp tác công tư ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là
phương pháp phân tích - tổng hợp, mô hình hóa, điển hình hóa, phương pháp
lịch sử cụ thể và các phương pháp nghiên cứu riêng của khoa học pháp lý
như: phân tích qui phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật, công thức hóa
qui tắc pháp lý...
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mô hình hợp tác công tư đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở Việt Nam, mô hình này mới chủ yếu được
áp dụng để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Do đó có thể nói, đề tài về
mô hình hợp tác công tư là một đề tài liên quan tới nhiều vấn đề pháp lý ở các
lĩnh vực khác nhau. Nhưng pháp luật dân sự, xây dựng, pháp luật đấu thầu và
đầu tư công là các lĩnh vực có liên quan trực tiếp nhất điều chỉnh việc áp dụng
mô hình này. Tuy nhiên, tại từng lĩnh vực áp dụng mô hình này thì khung
pháp lý điều chỉnh là khác nhau và có những đặc trưng riêng.
Vì "mô hình hợp tác công tư (PPP) tại Việt Nam" là một đề tài có
phạm vi rộng, nên luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu các đặc trưng cơ bản
của PPP, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới đã áp dụng PPP và các
quy định của pháp luật Việt Nam về mô hình PPP để làm rõ các vấn đề có
10
tính nguyên tắc cần thiết nhất cho việc đề xuất các kiến nghị nhỏ trong việc
tiếp tục nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện khung pháp lý về mô hình hợp tác
công tư tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về mô hình hợp tác công tư.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mô hình hợp tác công tư tại Việt
Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện khuôn khổ thể chế về mô hình hợp
tác công tư tại Việt Nam.
11
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ
1.1. KHÁI LUẬN VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ
1.1.1. Khái niệm mô hình hợp tác công tƣ
PPP là viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Public - Private - Partnership"
và dịch sang tiếng Việt là "hợp tác công - tư". Theo Yescombe, tác giả cuốn
Public - Private Partnerships: Principles of Policy and Finance (tạm dịch là
Hợp tác công - tư: các nguyên lý chính sách và tài trợ), xuất bản năm 2007,
thuật ngữ hợp tác công - tư bắt nguồn từ Hoa Kỳ với các chương trình giáo
dục được cả khu vực công và khu vực tư cùng tài trợ trong thập niên 1950.
Sau đó, nó được sử dụng rộng rãi để nói đến các liên doanh giữa các
chính quyền thành phố và các nhà đầu tư tư nhân trong việc cải tạo các công
trình đô thị ở Hoa Kỳ trong thập niên 1960. Kể từ thập niên 1980, thuật ngữ
hợp tác công - tư dần phổ biến ở nhiều nước và được hiểu là sự hợp tác giữa
nhà nước và tư nhân để cùng xây dựng cơ sở hạ tầng hay cung cấp các dịch
vụ công cộng. Trên thực tế, mô hình này đã xuất hiện ở Pháp và Anh từ thế
kỷ XVIII và XIX [10].
Cho đến nay, có rất nhiều nghiên cứu xoay quanh PPP đặt ra nhiều
quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm hướng đến một khía cạnh cần nhấn mạnh
trong các đặc trưng của PPP sẽ được trình bày cụ thể tại mục 1.2 của luận văn
về đặc điểm của mô hình hợp tác công tư.
Có thể liệt kê tại đây một số quan điểm thể hiện rõ đặc trưng của PPP
qua các nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau như HM Treasury (1998) định
nghĩa PPP là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều thực thể, hợp tác hướng đến
mục tiêu chia sẻ quyền hạn và trách nhiệm, rủi ro và lợi ích, kết nối các nguồn
lực đầu tư. Khulumane (2008) lại định nghĩa PPP là một giao kết bằng hợp
đồng giữa một đơn vị nhà nước và một đơn vị tư nhân, theo đó đơn vị tư nhân
12
chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm đầu ra phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật
mà nhà nước yêu cầu, trong một thời gian cụ thể và đổi lấy lợi ích thường
dưới hình thức là khoản tiền thanh toán dịch vụ.
Theo ADB 2006, PPP miêu tả các mối quan hệ giữa nhà nước và tư
nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trong đó chia sẻ công bằng quyền lợi, chi
phí và trách nhiệm. Federal Highway Administration (2009) thì cho rằng PPP
là một thỏa thuận hợp đồng dài hạn giữa khu vực công (ở mọi cấp độ của
chính quyền) và khu vực tư (thường là một nhóm các công ty tư nhân cùng
làm việc với nhau) để cung cấp cơ sở hạ tầng công. Nghiên cứu từ KPMG
(2011) thì PPP là một thỏa thuận hợp đồng dài hạn và chỉ cung cấp chứ không
có quyền sở hữu giữa một bên là Chính phủ và bên kia là thực thể tư nhân mà
trong đó cho phép thực thể tư nhân này được cung cấp cơ sở hạ tầng công.
Một kết luận khái quát hơn từ Ủy ban Châu Âu (European Commission
(2003), Guidelines for Successful Public-Private Partnerships) PPP là hợp
đồng giữa nhà nước và tư nhân, thông qua đó các kỹ năng và tài sản của mỗi
bên được chia sẻ trong việc phân phối dịch vụ cho xã hội.
Qua các nghiên cứu trên có thể hiểu PPP (Public - Private Partnership)
là hợp tác công - tư mà theo đó nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu
tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước. Với mô hình PPP,
Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được
khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ [10].
Như vậy, PPP là tổng hợp của các nhân tố sau:
(i) Là sự cộng tác giữa khu vực công và khu vực tư dựa trên một hợp
đồng dài hạn để cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ;
(ii) Phân bổ hợp lý về lợi ích, chi phí, rủi ro và trách nhiệm giữa hai
khu vực;
(iii) Kết quả mong đợi là hiệu quả về chất lượng hàng hóa/dịch vụ và
sử dụng vốn.
13
(iv) Đối tác tư nhân thực hiện việc thiết kế, xây dựng, tài trợ vốn và
vận hành;
(v) Việc thanh toán thực hiện trong suốt thời gian hợp đồng; và
(vi) Quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về khu vực công và khu vực tư
nhân sẽ chuyển giao tài sản lại cho khu vực công khi kết thúc thời gian hợp đồng.
Với các đặc trưng cơ bản đó, trong hai thập kỷ qua, PPP đã được áp
dụng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới, và được khẳng định là phương
thức hiệu quả để cung cấp cơ sở hạ tầng [22].
1.1.2. Lý do ra đời của mô hình hợp tác công tƣ
Để có thể nắm bắt được các nhân tố cơ bản của mối quan hệ đối tác
nhà nước - tư nhân như đã trình bày sơ lược tại mục 1.1.1, cần có một cái
nhìn sâu sắc về nguồn gốc hình thành và cơ sở lý luận của mối quan hệ này
qua việc xem xét các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Những khó khăn Chính phủ phải đối mặt khi độc lập thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch
vụ công
Theo truyền thống, việc cung cấp cơ sở hạ tầng do khu vực công đảm
nhiệm, tài trợ bằng vốn ngân sách hoặc/và các nguồn hỗ trợ chính thức
(Akintoye và các tác giả, 2003). Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm cho
thấy, ngân sách quốc gia eo hẹp cùng với sự sụt giảm các nguồn hỗ trợ chính
thức (ở các nước đang phát triển) đã hạn chế các Chính phủ thực hiện chức
năng này hiệu quả (ADB, 2000).
Các Chính phủ đối mặt với nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm đủ
nguồn tài chính để phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng theo yêu cầu của sự gia
tăng dân số. Các Chính phủ gặp khó khăn bởi nhu cầu đô thị hóa ngày càng
tăng, nhu cầu tu bổ những cơ sở hạ tầng đã được xây dựng lâu năm, nhu cầu
mở rộng mạng lưới dịch vụ cho dân số mới tăng lên và nhu cầu đem lại dịch
vụ cho những khu vực trước đây chưa được cung cấp hoặc được cung cấp
nhưng chưa đầy đủ.
14
Hơn nữa, các dịch vụ cơ sở hạ tầng thường có doanh thu thấp hơn chi
phí, vì vậy phải bù đắp thông qua trợ cấp và điều đó khiến cho nguồn lực nhà
nước bị hao mòn thêm. Do vậy, sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiếm hoi của
nhà nước là một thách thức lớn đối với các Chính phủ và là một trong những
nguyên nhân chính làm nhiều Chính phủ không hoàn thành được các mục tiêu
đặt ra. Nguyên nhân là do đặc thù của khu vực nhà nước có quá ít hoặc không
có động cơ thiết lập tính hiệu quả trong tổ chức và quy trình hoạt động của
mình và vì thế có vị thế không thuận lợi trong việc xây dựng và điều hành các
cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả.
Thứ hai: Khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm được công việc này không?
Hệ quả là gì?
Trả lời cho câu hỏi này, nghiên cứu của Yescombe (2007) đã chỉ ra
rằng khu vực tư nhân cũng không thể độc lập đảm nhiệm công việc này đồng
thời vẫn tô đậm vai trò quan trọng của Chính phủ trong xây dựng cơ sở hạ
tầng và cung cấp dịch vụ công:
- Khu vực tư nhân không thể tính toán hết những lợi ích kinh tế và
xã hội.
- Nếu Chính phủ không can thiệp, những hàng hóa công cung cấp
miễn phí như đường giao thông, đèn chiếu sáng sẽ hạn chế, không đáp ứng
được nhu cầu xã hội.
- Cung cấp cạnh tranh sẽ không hiệu quả trong khi cung cấp độc quyền
vẫn cần có sự quản lý của nhà nước.
- Ngay cả khi cạnh tranh có thể thực hiện, nhà nước cũng nên cung
cấp những hàng hóa thiết yếu, nếu không sẽ không đáp ứng yêu cầu (ví dụ
như trong lĩnh vực giáo dục, người giàu có thể trả tiền cho các trường tư còn
người nghèo thì không).
- Giá cả bị bóp méo do không có sự quản lý và điều chỉnh từ phía Nhà
nước, hoặc sẽ xảy ra tổn thất xã hội.
15
- Đối với cơ sở hạ tầng chung, vốn đầu tư ban đầu lớn và thời gian thu
hồi vốn dài, khó có thể kêu gọi đầu tư của khu vực tư nhân nếu không có sự
hỗ trợ của nhà nước.
Như vậy, đầu tư tư nhân luôn đi kèm với lợi nhuận, khi thực hiện đầu
tư cơ sở hạ tầng hay cung cấp hàng hóa/dịch vụ công khu vực tư nhân sẽ rất
khó khăn để tạo ra doanh thu bù đắp chi phí, nên khu vực này sẽ không cung
cấp hoặc cung cấp không đầy đủ hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, do lợi
nhuận thương mại của hàng hóa công thường thấp, đó chính là thất bại của
thị trường [21].
Stiglitz (2000) định nghĩa hàng hóa công là hàng hóa mang hai tính
chất: không cạnh tranh và không loại trừ, nghĩa là việc thụ hưởng lợi ích của
cá nhân này không ngăn cản người khác cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích đó,
dẫn đến tình trạng "người hưởng thụ miễn phí" (free rider) - là những người
thụ hưởng hàng hóa nhưng không gánh chịu hoặc gánh chịu mức chi phí thấp
hơn so với lợi ích mà họ được hưởng.
Hậu quả là hàng hóa công được cung cấp dưới mức cần thiết, không
thể đạt được hiệu suất Pareto (Hiệu suất Pareto với 1 nhóm các cá nhân và
nhiều cách phân bổ nguồn lực khác nhau cho mỗi cá nhân trong nhóm đó,
việc chuyển từ một phân bổ này sang một phân bổ khác mà làm ít nhất một cá
nhân có điều kiện tốt hơn nhưng không làm cho bất cứ một cá nhân nào khác
có điều kiện xấu đi được gọi là một sự cải thiện Pareto hay một sự tối ưu hóa
Pareto). Như vậy, nếu việc cung cấp hàng hóa công do thị trường quyết định,
chắc chắn nó sẽ không được sản xuất hoặc sản xuất không đủ.
Thứ ba: Lợi ích được tích lũy từ việc hợp tác giữa Chính phủ và khu
vực tư nhân trong xây dựng cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ công
Động cơ thúc đẩy Chính phủ tham gia vào mối quan hệ đối tác nhà
nước - tư nhân về phát triển cơ sở hạ tầng như đã trình bày ở trên có thể hiểu
cơ bản như sau:
16
- Thu hút vốn đầu tư tư nhân (thường bổ sung cho nguồn vốn nhà
nước hoặc giải phóng cho nguồn vốn nhà nước để sử dụng vào những nhu
cầu khác của nhà nước);
- Tăng năng suất và sử dụng các nguồn lực có sẵn một cách hiệu quả hơn;
- Cải cách các lĩnh vực thông qua việc phân bổ lại vai trò, động cơ và
trách nhiệm giải trình.
Do đó, với thất bại của thị trường do khu vực tư nhân mang lại, Chính
phủ có thể sửa chữa sự thất bại đó của thị trường bằng cách sử dụng một số
lựa chọn sau:
- Sử dụng cơ chế giá kèm theo thuế hoặc trợ cấp.
- Trao quyền cung cấp hàng hóa công cho khu vực tư nhân.
- Trực tiếp cung cấp hàng hóa công.
- Tài trợ công cho khu vực tư để cung cấp hàng hóa công.
Những nghiên cứu đã trình bày tại phần 1.1.2 (ii) ở trên cho thấy, nếu
tư nhân độc lập cung cấp hàng hóa công sẽ gây tổn thất phúc lợi xã hội, đây
chính là thất bại của thị trường. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, phải chăng sự
can thiệp của Chính phủ sửa chữa được những thất bại đó? Liệu Chính phủ có
đủ khả năng độc lập cung cấp hàng hóa công hiệu quả mà không làm giảm
các phúc lợi xã hội?
Chính phủ với hạn chế cơ bản về tài chính và chất lượng cùng những
áp lực kể trên (đã được trình bày tại mục 1.1.2.i ở trên) dẫn tới mong muốn
huy động vốn, công nghệ từ khu vực tư nhân vào đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, tiện ích và dịch vụ công.
Như vậy, có thể hiểu đơn giản lợi ích được tích lũy từ việc hợp tác
giữa Chính phủ và khu vực tư nhân là khi được cơ cấu một cách phù hợp, mối
quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân có thể huy động các nguồn lực trước đây
chưa được khai thác của khu vực tư nhân tại địa bàn sở tại, trong khu vực
hoặc trên phạm vi quốc tế đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Thông qua PPP,
một số lợi ích được tích lũy gồm: (i) tiếp cận nguồn vốn tư nhân [23]; (ii) tăng
17
giá trị đồng tiền, hoàn thành dự án đúng tiến độ [31]; (iii) cải thiện chất lượng
dịch vụ [25]. Bên cạnh đó, áp lực phải phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
hiện đại đáp ứng sự gia tăng mạnh mẽ của dân số và nhu cầu vận chuyển đã
thôi thúc các nước tìm kiếm kênh cung cấp mới phù hợp hơn, và hình thức
hợp tác công - tư (public private partnership - PPP) ra đời [19]. Bởi vậy,
không một Chính phủ nào có thể độc lập cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng, dịch
vụ công mà không cần phải hợp tác với khu vực tư nhân. Đó được coi như là
một sự kết hợp không thể tốt hơn.
1.1.3. Các hình thức của mô hình hợp tác công tƣ
1.1.3.1. Các hình thức PPP phổ biến trên thế giới hiện nay
Thứ nhất, nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo
đó cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao cho tư nhân
vận hành và khai thác (thường là thông qua đấu giá).
Thứ hai, mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành DBFO (DesignBuild - Finance - Operate), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và
vận hành công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.
Thứ ba, xây dựng - vận hành - chuyển giao BOT (Build - Operate Transfer) là mô hình mà ở đó công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và
vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ
cho nhà nước. Mô hình này khá phổ biến ở Việt Nam.
Thứ tư, khác biệt một chút với mô hình BOT, trong mô hình BTO xây
dựng - chuyển giao - vận hành (Build - Transfer - Operate), quyền sở hữu cơ
sở hạ tầng được chuyển giao ngay cho nhà nước sau khi xây dựng xong
nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình.
Thứ năm, là phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành BOO (Build Own - Operate). Ở mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng
công trình, sở hữu và vận hành nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà
máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới [14].
18
1.1.3.2. Các dạng hợp đồng theo hình thức hợp tác công tư
Có thể thấy, hợp đồng PPP được cấu trúc đặc biệt, các thỏa thuận giữa
Nhà nước và tư nhân được thực hiện thông qua một doanh nghiệp dự án (SPV).
Chức năng của SPV: (i) thiết kế và xây dựng cơ sở hạ tầng; (ii) cho thuê hay
nhượng quyền; (iii) ký hợp đồng dài hạn để vận hành và quản lý dự án. Một
hợp đồng của dự án PPP thể hiện rõ được tất cả thỏa thuận của các Bên tham
gia, điều chỉnh việc thực hiện các chức năng trên của doanh nghiệp dự án.
Các dạng hợp đồng của đầu tư theo PPP đã được quy định cụ thể tại
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Tại
đó, có 07 dạng hợp đồng để áp dụng khi đầu tư theo PPP, tùy vào dạng hợp
đồng thì ngay từ chính tên gọi của nó đã thể hiện các bước chính và trình tự
các bước trong việc hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân tại dự án đó, cụ thể:
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng
BOT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu
tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn,
nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng
BTO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà
đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh
doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT) là hợp đồng
được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện dự án khác theo
các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 14 và Khoản 3 Điều 43 Nghị định này.
Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BOO)
là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
19
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư
sở hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (gọi tắt là hợp đồng
BTL) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà
đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung
cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn
nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho
nhà đầu tư theo các điều kiện quy định.
Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng
BLT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà
đầu tư được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình
đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch
vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định; hết thời hạn
cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (gọi tắt là hợp đồng O&M) là hợp
đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để kinh
doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.
Hình thức đầu tư PPP cuối cùng phải thể hiện dưới dạng hợp đồng
PPP. Trên nền tảng điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật dân sự về thỏa
thuận của Khu vực Nhà nước và Khu vực Tư nhân tại hợp đồng dự án. Tuy
nhiên, có thể thấy, hợp đồng PPP có năm điểm khác biệt lớn so với hợp đồng
dân sự, thương mại thông thường, cụ thể:
Thứ nhất: Đối tượng của hợp đồng. Liên quan đến hoạt động cung cấp
hàng hóa công cộng đặc biệt (dịch vụ công) cho công chúng như cung cấp
điện, nước, dịch vụ y tế, nhà tù, thậm chí dịch vụ liên quan an ninh quốc
20
phòng. Đặc trưng này phân biệt với hoạt động mua sắm công thuần túy như
mua máy tính của cơ quan nhà nước.
Thứ hai: Điều kiện áp dụng. PPP được áp dụng khi không thể hoặc
khó áp dụng phương pháp cổ phần hóa và vì một lý do nào đó Nhà nước không
thể tham gia trực tiếp. Việc cổ phần hóa cũng kéo theo sự bắt tay giữa Nhà nước
và tư nhân, nhưng hoạt động này chịu sự điều chỉnh chung của luật về doanh
nghiệp và Nhà nước tham gia quan hệ với tư cách là một "con buôn" giống
như các cổ đông khác, mà không có địa vị pháp lý đặc thù của Nhà nước.
Thứ ba: Phương thức xác lập. PPP được xác lập thông qua các thỏa
thuận ad-hoc (không dự tính trước, không theo thể thức) giữa Nhà nước và tư
nhân. Đặc trưng này giúp phân biệt PPP với các quyết định hành chính hay
hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư: Sự hợp tác. PPP khác với các hợp đồng mua đứt bán đoạn ở chỗ
các dự án thường có thời gian dài, có sự phối hợp giữa hai bên trong suốt thời
gian thực thi dự án. Chính điều này dẫn tới các dự án PPP thường gánh chịu rất
nhiều rủi ro pháp lý và phần thiệt thường thuộc về nhà đầu tư tư nhân, vì điều
chỉnh hệ thống pháp luật là thuộc quyền của Nhà nước. Chính điều này làm cho
các dự án PPP chưa có sức hấp dẫn nhà đầu tư, chừng nào hệ thống pháp luật
quốc gia còn khó dự đoán và khuôn khổ pháp lý cho PPP chưa rõ ràng.
Thứ năm: Nguồn luật. Nguồn luật điều chỉnh các thỏa thuận PPP,
ngoài nguồn luật điều chỉnh hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh doanh truyền
thống thì còn bị điều chỉnh bởi các quy định chung của luật công như các quy
định về thuế (lợi nhuận đối với chủ đầu tư), phí (giao thông, viện phí), chống
tham nhũng bởi lẽ quyền tự do thỏa thuận của các bên trong dự án PPP bị hạn
chế rất nhiều... Để có lợi nhuận thì những nội dung này cần đưa vào thỏa
thuận PPP. Nhưng những nội dung này không phải là nội dung của hợp đồng
dân sự, kinh doanh truyền thống và đôi khi nằm ngoài tầm kiểm soát của
chính cơ quan nhà nước tham gia ký kết PPP. Ví dụ: Ủy ban nhân dân cấp
thành phố là cơ quan ký kết PPP dự án xây dựng cầu, nhưng quy định về các
21
phương tiện và cách thức lưu thông qua cầu thuộc về thẩm quyền của Bộ
Giao thông Vận tải, thuế thu nhập doanh nghiệp lại thuộc thẩm quyền của
Quốc hội.
1.1.3.3. Tính vượt trội của PPP so với hình thức đầu tư truyền thống
Hình thức đầu tư truyền thống được tài trợ từ thuế và nợ công. Nhà nước
tài trợ toàn bộ chi phí, bao gồm cả chi phí vượt trội. Đầu tư theo hình thức
truyền thống, thời gian chuẩn bị và thực hiện dự án thường bị kéo dài dẫn đến
chi phí đầu tư thực tế trượt xa dự toán ban đầu. Bên cạnh đó, các chi phí vận
hành và bảo dưỡng biến động khó xác định nên hiệu quả đầu tư rất thấp.
Đối với PPP, chi phí đầu tư là ổn định, ít phát sinh do đã được xác
định và phê duyệt ngay từ đầu và Chính phủ chỉ thanh toán khi có dịch vụ.
Chính phủ sẽ xác định những yêu cầu đối với dự án, giao cho tư nhân thiết kế,
tài trợ, xây dựng và vận hành dự án đáp ứng các tiêu chí dự án trong dài hạn.
Doanh nghiệp dự án sẽ nhận được khoản thanh toán trong suốt vòng đời của
hợp đồng PPP (trung bình 25 năm) theo một thỏa thuận trước và không trả
thêm cho phần vượt dự toán.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG TƢ
1.2.1. Đặc điểm chung
- PPP thể hiện một khuôn khổ có sự tham gia của khu vực tư nhân
nhưng vẫn ghi nhận và thiết lập vai trò của Chính phủ đảm bảo đáp ứng các
nghĩa vụ xã hội và đạt được thành công trong cải cách của khu vực nhà nước
và đầu tư công. Là một mô hình dài hạn (đa số kéo dài 20-30 năm) do vậy nó
phù hợp nhất với lĩnh vực cơ sở hạ tầng, môi trường và một số lĩnh vực có sự
ổn định lâu dài.
- Một mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân chặt chẽ phân định một
cách hợp lý các nhiệm vụ, nghĩa vụ và rủi ro mà mỗi đối tác nhà nước và đối
tác tư nhân phải gánh vác. Đối tác nhà nước trong quan hệ đối tác nhà nước tư nhân là các tổ chức Chính phủ, bao gồm các bộ ngành, các chính quyền địa
22
phương hoặc các doanh nghiệp nhà nước. Đối tác tư nhân có thể là đối tác
trong nước hoặc đối tác nước ngoài, và có thể là các doanh nghiệp hoặc các
nhà đầu tư có chuyên môn về tài chính hoặc kỹ thuật liên quan đến dự án.
Mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân cũng có thể bao gồm cả các tổ chức
phi Chính phủ (NGO) và/hoặc các tổ chức cộng đồng (CBO) đại diện cho
những tổ chức và cá nhân mà dự án có tác động trực tiếp.
- Mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân hiệu quả ghi nhận rằng khu
vực nhà nước và khu vực tư nhân có những lợi thế tương đối nhất định so với
khu vực còn lại khi thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Đóng góp của Chính phủ
cho mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân có thể dưới dạng vốn đầu tư (có
được thông qua đánh thuế), chuyển giao tài sản, hoặc các cam kết hay đóng góp
hiện vật khác hỗ trợ cho mối quan hệ đối tác này. Chính phủ cũng góp phần
trong các yếu tố về trách nhiệm xã hội, ý thức môi trường, kiến thức bản địa
và khả năng huy động sự ủng hộ chính trị. Vai trò của khu vực tư nhân trong
mối quan hệ đối tác là sử dụng chuyên môn về thương mại, quản lý, điều hành
và sáng tạo của mình để vận hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả.
- Cơ cấu của mối quan hệ đối tác cần được thiết lập để phân bổ các rủi
ro cho đối tác nào có khả năng giải quyết rủi ro đó một cách tốt nhất và vì thế
giảm thiểu được chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động [19].
1.2.2. Những thuận lợi và hạn chế của PPP
Với cơ cấu hợp tác linh hoạt có sự tham gia của khu vực tư nhân, ưu
điểm lớn nhất của PPP nếu nhìn từ góc độ Nhà nước là giảm được gánh nặng
cũng như rủi ro đối với ngân sách. Hơn thế, mô hình PPP giúp giải quyết
được vấn đề kém hiệu quả. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư tư nhân
phải tìm cách để dự án vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với sự tham gia
của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh
bạch có khả năng sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô
hình PPP là chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh
23
lợi cao hơn. Trong nhiều trường hợp việc thiết kế cơ chế tài chính và cơ chế
phân chia trách nhiệm, xác định mức thu phí hay phần trợ cấp của nhà nước là
vô cùng phức tạp. Mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân cũng là
một vấn đề. Vì một mục tiêu nào đó (ví dụ muốn có một khu đất hay dự án
khác) mà nhà đầu tư tư nhân vẽ ra những dự án mà sau khi xây dựng rất ít
hoặc thậm chí không có người sử dụng là điều hoàn toàn có thể xảy ra [13].
Nhưng liệu PPP có phải là "hạt đậu thần" phù hợp với mọi trường hợp
không? Chúng ta sẽ cùng xem xét những thuận lợi và hạn chế của mô hình này.
Những thuận lợi/lợi ích khi áp dụng PPP
Về cơ bản, lợi ích khi áp dụng hình thức PPP là tận dụng được lợi thế,
điểm mạnh của Nhà nước và khu vực tư nhân, điều đó mang lại lợi ích cho cả
Nhà nước, khu vực tư nhân và người dân sử dụng dịch vụ, sản phẩm của sự
hợp tác công tư, cụ thể:
Thứ nhất: Tạo ra nhiều khoản đầu tư hơn cho cơ sở hạ tầng. Với cơ
chế PPP, Nhà nước sẽ giảm được gánh nặng phải tìm kiếm, sắp xếp và phân
bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho cơ sở hạ tầng. Bởi vậy, Nhà nước có
thể tiến hành nhiều dự án đầu tư hơn hoặc tăng quy mô của các dự án đầu tư
cho cơ sở hạ tầng.
Thứ hai: Tạo ra sự ổn định và tăng trưởng cho khu vực tư nhân. Với
việc tham gia vào cơ chế PPP, khu vực tư nhân có được nhiều cơ hội đầu tư
mang tính dài hạn hơn, có thể ít rủi ro hơn với sự đảm bảo, chia sẻ từ Nhà
nước. Từ đó, tạo ra sự ổn định, tăng trưởng cho khu vực tư nhân, thúc đẩy sự
phát triển của công nghiệp địa phương cũng như tạo ra nhiều công ăn việc
làm hơn cho người lao động. Đồng thời, khu vực tư nhân có thể tạo ra thêm
doanh thu từ bên thứ ba khác bằng cách sử dụng năng lực còn dư hoặc
nhượng lại các tài sản/thiết bị thừa.
Thứ ba: Phân bổ và quản lý rủi ro tốt hơn và hiệu quả hơn. nguyên
tắc cốt yếu của cơ chế PPP là rủi ro sẽ được phân bố cho bên nào giải quyết
24
tốt nhất với chi phí thấp nhất. Với nhiều trường hợp, Nhà nước sẽ là bên có
trách nhiệm giải quyết những rủi ro liên quan đến cộng đồng, môi trường
hoặc bảo lãnh vay vốn bởi Nhà nước. Ngược lại, khu vực tư nhân ưu việt hơn
trong việc xử lý rủi ro liên quan tới quản lý, sử dụng vốn...
Thứ tư: Tiết kiệm chi phí. Một là, với việc kết hợp hai khâu thiết kế và
xây dựng trong cùng một hợp đồng, cơ chế PPP cho phép nhà thiết kế và nhà xây
dựng thiết lập mối liên hệ gần gũi và sâu sắc hơn. Sự kết hợp này trước hết giúp
việc thiết kế có tính sáng tạo cao hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí hơn; đồng
thời cũng giúp giảm thời gian của quá trình xây dựng, để dịch vụ sớm được
đưa vào sử dụng hơn qua đó cũng tiết giảm chi phí. Hai là, hầu hết các dự án
PPP cần dịch vụ vận hành và bảo trì trong suốt vòng đời của dự án, và việc
này được giao cho khu vực tư nhân. Do đó, khu vực tư nhân sẽ có động lực và
giải pháp (về công nghệ, quản lý, sử dụng nguồn lực...) nhằm giảm thiểu chi
phí vận hành và bảo trì trong suốt vòng đời của công trình. Trong khi đó, Nhà
nước lại khó có thể đảm bảo được điều này do những hạn chế về ngân sách.
Thứ năm: Cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp. Một trong những lợi
ích rõ ràng được nhiều nghiên cứu và kinh nghiệm quốc tế chỉ ra đó là chất lượng
các dự án áp dụng hình thức PPP thường tốt hơn đối với các hình thức đầu tư
truyền thống. Lý do cho điều này là cơ chế PPP tận dụng được những lợi thế nhất
của các bên, với Nhà nước là "chính sách và khả năng quản trị", với khu vực
tư nhân là "các yếu tố kỹ thuật như thiết kế, xây dựng, vận hành và quản lý".
European Commission (2003) cho rằng chất lượng dịch vụ tốt hơn của các dự
án PPP là do dịch vụ đó gắn liền với các công trình hỗ trợ, do việc ứng dụng
các công nghệ mới trong cung cấp dịch vụ hay do nhưng quy định rõ ràng về
thưởng/phạt dựa theo chất lượng cung cấp dịch vụ trong hợp đồng hợp tác PPP.
Thứ sáu: Nâng cao khả năng quản lý công. Nhà nước sẽ không phải
làm công việc quản lý hàng ngày liên quan đến dự án vì đã giao cho khu vực
tư nhân, mà tập trung vào việc lập kế hoạch và giám sát việc quản lý hàng ngày.
25