MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
Chương 1 THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY
LUẬT PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIÁO DỤC CHÍNH
TRỊ CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN ĐẠI ĐỘI TRONG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1.
Thực chất phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính
trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
1.2.
Một số vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực giáo dục
chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân
Việt Nam
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN ĐẠI ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
Thực trạng phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính
trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
2.2.
Một số vấn đề đặt ra đối với phát triển năng lực giáo dục chính
trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
Chương 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN ĐẠI
ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển
năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội
3.2.
Xây dựng mơi trường chính trị lành mạnh ở đơn vị cơ sở
3.3.
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của chính trị viên đại đội
trong phát triển năng lực giáo dục chính trị của họ
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
5
10
29
29
43
75
75
99
113
113
132
142
155
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
15
8
17
0
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
“Phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” là một cơng trình khoa học
độc lập, được nghiên cứu cơng phu, khơng có sự trùng lặp với các cơng
trình khoa học đã được cơng bố.
Cơng trình đi sâu phân tích, luận giải một cách khoa học về thực
chất và một số vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực giáo dục chính
trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam; đồng
thời đánh giá đúng thực trạng và làm rõ một số vấn đề đặt ra trong phát
triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội. Trên cơ sở đó,
đề xuất những giải pháp cơ bản, đồng bộ và có tính khả thi nhằm phát
triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay.
Những nội dung nghiên cứu quan trọng nêu trên đã cung cấp thêm
cơ sở khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm
phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Cơng tác giáo dục chính trị tại đơn vị là một hình thức cơ bản của
cơng tác tư tưởng, văn hoá, một nội dung quan trọng của nhiệm vụ huấn
luyện bộ đội. “Cơng tác giáo dục chính trị tại đơn vị trực tiếp góp phần xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị, giữ vững trận địa tư tưởng của
Đảng trong quân đội, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu;
xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, tổ chức quần chúng
vững mạnh xuất sắc, làm cho qn đội ln là lực lượng chính trị, đội quân
6
chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao” [8, tr.1].
Hiện nay, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng,
diễn biến rất phức tạp, khó lường. Trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng đã
chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ
“diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước
ta; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức
tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của
cán bộ, đảng viên, nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, các thế lực
thù địch tiếp tục tăng cường các hoạt động nhằm “phi chính trị hố” qn
đội và “vơ hiệu hố” lực lượng vũ trang. Sự chống phá đó đã, đang tác
động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội,
nhất là đối tượng sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan và binh sĩ. Đây là lực lượng đông
đảo và phần lớn được biên chế ở cấp đại đội. Chính vì vậy, để ngăn ngừa,
làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức chiến đấu, một trong những vấn đề cơ bản, cấp bách
nhất hiện nay là phải nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tại
đơn vị, đặc biệt ở cấp đại đội - nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đối
tượng sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan và binh sĩ.
Chính trị viên đại đội là cán bộ chính trị, về cơ bản đều có tuổi đời và
tuổi qn cịn rất trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Mặc dù vậy, theo chức trách, nhiệm vụ được phân cơng, họ là người chủ trì về
chính trị đồng thời là bí thư chi bộ, có vai trò nòng cốt trong xây dựng đơn vị
vững mạnh về chính trị, qua đó góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
7
diện. Trong cơng tác giáo dục chính trị ở đơn vị, chính trị viên đại đội là
người chịu trách nhiệm chính và trực tiếp tiến hành. Chất lượng cơng tác giáo
dục chính trị ở đại đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết và chủ
yếu phụ thuộc vào năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục
hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam”, nhìn chung đội ngũ chính trị viên đại đội đã có sự trưởng thành về mọi
mặt, góp phần quan trọng xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Bên
cạnh đó, vẫn cịn khơng ít chính trị viên đại đội hạn chế về phẩm chất và năng
lực, đặc biệt là năng lực giáo dục chính trị. Theo đánh giá của Bộ Quốc
phịng: trình độ, kiến thức, năng lực thực hiện chức trách, nhất là năng lực sư
phạm còn hạn chế; vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học trong nhà trường vào
quản lý, giáo dục bộ đội ở đơn vị cịn lúng túng; một số đồng chí năng lực yếu
[8, tr. 5 - 7]. Thực tế trên đã được các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tìm
biện pháp từng bước khắc phục. Tuy nhiên, vấn đề phát triển năng lực giáo
dục chính trị của chính trị viên đại đội chưa được quan tâm nghiên cứu, luận
giải một cách đầy đủ. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển năng
lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề
xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên
đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan các cơng trình khoa học tiêu biểu có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận án. Trên cơ sở đó, khái quát kết quả nghiên cứu của các cơng
trình và xác định những nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết.
8
- Làm rõ thực chất và tính quy luật phát triển năng lực giáo dục chính trị
của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng, làm rõ một số vấn đề đặt ra đối với phát triển
năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực giáo dục chính trị của
chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển năng lực giáo dục chính trị của
chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay. Tập trung khảo sát thực tiễn liên quan đến phát
triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội ở một số đơn vị chủ
lực thuộc Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3, Quân đoàn 1, Quân đồn 2
và cơng tác đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội của Trường Sĩ quan Chính trị
trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề phẩm chất, năng lực của con người nói chung và của người cán bộ,
đảng viên nói riêng; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương,
Tổng cục Chính trị về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội và kết quả
nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã cơng bố có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận án.
* Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa vào tình hình giáo dục chính trị ở
đơn vị cơ sở, chủ yếu thông qua nhận định, đánh giá trong nghị quyết; báo
cáo tổng kết của các đơn vị và kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp của tác
9
giả về thực trạng phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên
đại đội ở một số đơn vị trong quân đội.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án vận dụng tổng hợp các
phương pháp nhận thức khoa học như: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, hệ thống và cấu trúc, lịch sử và lơgíc, khái qt hố và trừu tượng hoá,
điều tra xã hội học, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia, v.v..
6. Những đóng góp mới của luận án
- Xây dựng quan niệm về năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên
đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam và phát triển năng lực giáo dục
chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Phát hiện, làm rõ những vấn đề đặt ra đối với phát triển năng lực giáo dục
chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển năng lực giáo dục chính trị
của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần bổ sung, làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên
đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy ở các trường có đào tạo chính trị viên và công tác bồi
dưỡng cán bộ ở đơn vị trong quân đội về những nội dung có liên quan.
8. Kết cấu của luận án
Luận án có kết cấu gồm: mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên
quan đến đề tài luận án, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục các cơng trình
của tác giả đã cơng bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Hiện nay đã có nhiều cơng trình khoa học của cá nhân và tập thể nhà
khoa học công bố kết quả nghiên cứu có liên quan đến phát triển năng lực
giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong quân đội. Theo hướng
nghiên cứu của đề tài luận án, tác giả tiếp cận hệ thống những công trình
khoa học đó trên các vấn đề cơ bản sau:
1. Những cơng trình khoa học tiểu biểu liên quan đến quan niệm về
năng lực, năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong
Quân đội nhân dân Việt Nam
Nguyễn Văn Hữu, trong cơng trình “Nâng cao năng lực giáo dục
chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân
Việt Nam” [52], cho rằng: Năng lực là một thuộc tính bản chất của con
người, gắn liền với mọi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Cuộc sống của con người và xã hội lồi người hết sức
phong phú. Do đó, có rất nhiều dạng năng lực và mỗi dạng năng lực là tổng
hợp các thuộc tính. Theo tác giả, năng lực của con người có vai trị to lớn,
là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của con
người và sự phát triển không ngừng của xã hội.
Từ đó, tác giả quan niệm: “Năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ
cán bộ chính trị đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam là tổng hợp các
yếu tố chủ quan của chủ thể tạo nên khả năng, trình độ thực tế truyền bá
nội dung giáo dục chính trị đến cán bộ, chiến sĩ, được biểu hiện tập trung ở
việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị theo cương vị, chức trách và ở
chất lượng giáo dục chính trị đạt được của đơn vị” [52, tr. 35].
Theo tác giả, cấu trúc năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán
bộ chính trị ở đơn vị cơ sở trong quân đội, bao gồm: tri thức, kỹ năng và
kỹ xảo giáo dục chính trị.
11
Với quan niệm như trên về cấu trúc năng lực giáo dục chính trị của đội
ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở trong quân đội là hoàn tồn đúng nhưng
chưa đủ. Bởi vì, nó cịn thiếu yếu tố phương pháp giáo dục chính trị.
Nguyễn Văn Huy, trong luận án tiến sĩ Triết học “Nâng cao năng lực
thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay” [51], đã đưa ra cách tiếp cận tương đối toàn diện, với nhiều chiều cạnh
khác nhau về phạm trù năng lực. Tác giả cho rằng, trong mỗi hoạt động, tuỳ
theo tính chất và mức độ khác nhau mà địi hỏi con người có những thuộc tính
nhất định phù hợp với nó. Năng lực khơng phải là một thuộc tính, mà là tổng
thể những thuộc tính hợp thành khả năng nhận thức và hành động của con
người trên những nhiệm vụ xác định, đạt hiệu quả cao. Năng lực của con
người vừa tồn tại dưới dạng tiềm năng, vừa được bộc lộ qua những hành động
cụ thể. Năng lực bao giờ cũng là của một chủ thể xác định: một cộng đồng,
một tổ chức hay một con người cụ thể.
Theo tác giả, con người có nhiều loại hoạt động, tương ứng với mỗi
hoạt động là một loại năng lực. Tác giả phân chia năng lực thành hai loại cơ
bản, đó là năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn. “Năng lực thực tiễn là
tổng thể những yếu tố hợp thành khả năng hoạt động vật chất có hiệu quả
của chủ thể, trên những nhiệm vụ xác định, đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định” [51, tr. 23]. Các yếu tố cơ bản cấu
thành năng lực thực tiễn, bao gồm: tri thức chuyên môn; kỹ năng, tố chất
thực hành nghề nghiệp; tình cảm, thái độ, động cơ, ý chí quyết tâm đối với
nghề nghiệp. Năng lực thực tiễn được thể hiện ở khả năng xác định, duy trì
mục đích hoạt động thực tiễn; ở khả năng quy tụ, sử dụng lực lượng, công
cụ, phương tiện vật chất để cải tạo hiện thực; ở khả năng tổng kết thực tiễn
rút ra những bài học kinh nghiệm của chủ thể để cải tạo hiện thực; ở kỹ
năng, kỹ xảo gắn với kinh nghiệm trong hoạt động của chủ thể. Từ đó tác giả
12
quan niệm: “Năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam là tổng thể các yếu tố hợp thành khả năng hoạt động vật
chất có hiệu quả các chức trách, nhiệm vụ, góp phần xây dựng đơn vị, trong
đó có xây dựng về chính trị vững mạnh toàn diện” [51, tr. 33].
Tập thể tác giả Hoàng Hải Bằng, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Văn
Huyên, Trần Phúc Thăng, Trần Thành, trong cơng trình “Bản lĩnh chính trị
với năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị nước ta
hiện nay” [4], cho rằng: Năng lực thể hiện ở chỗ người ta làm tốn ít thời
gian, ít sức lực, của cải, vật chất mà kết quả lại tốt. Do đó, khi xem xét,
đánh giá năng lực của một người cán bộ cần phải căn cứ vào hiệu quả cơng
việc là chính, đồng thời cũng cần biết được trình độ học vấn và quá trình
cơng tác của họ. Mặc dù chưa đưa ra một quan niệm đầy đủ về năng lực,
nhưng các tác giả đã chỉ ra một số tiêu chí cơ bản nhất trong xem xét, đánh
giá năng lực của một người cán bộ đó là trình độ học vấn và hiệu quả cơng
việc trong q trình cơng tác của họ.
Phạm Văn Thuần, trong luận án tiến sĩ Triết học “Nâng cao năng
lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở
các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [88], đã quan
niệm: Năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận là tổng hoà những khả năng
phát hiện, phê phán, ngăn chặn và khắc phục ảnh hưởng của những quan
điểm, tư tưởng thù địch, phản động, sai trái nhằm bảo vệ, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước, bản chất, truyền thống quân đội và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời tác giả đã chỉ ra những nhân
tố cơ bản cấu thành năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận, đó là: năng lực
nhận thức lý luận; năng lực thu thập và xử lý thông tin; năng lực tư duy
khoa học; năng lực tổ chức thực tiễn đấu tranh tư tưởng - lý luận. Như vậy,
13
theo tác giả, năng lực của con người trong mỗi lĩnh vực hoạt động đều
được cấu thành bởi nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải có khả năng nhận
thức và sự hiểu biết về lĩnh vực hoạt động đó.
Trần Hậu Tân, trong luận án tiến sĩ Triết học “Kết hợp nâng cao năng
lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” [86], khi luận giải về phạm trù năng lực, đã
chỉ ra rằng, năng lực của con người do hai yếu tố cơ bản tạo thành: yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội. Yếu tố xã hội là quá trình giáo dục, rèn luyện và tự
giáo dục, tự rèn luyện của mỗi người. Đó là yếu tố quyết định sự hình thành
và phát triển năng lực.
Theo tác giả, yếu tố tự nhiên là những cái thuộc về bẩm sinh, gen di
truyền, đặc biệt là hoạt động của hệ thần kinh. Đây là cơ sở, tiền đề quan
trọng khơng thể thiếu trong sự hình thành, phát triển năng lực. Tuy nhiên,
yếu tố tự nhiên đó chỉ được phát triển, phát huy thông qua yếu tố xã hội.
Từ đó, tác giả quan niệm: “Năng lực là tổng hồ khả năng của chủ thể
trong những điều kiện nhất định, được biểu hiện ra trong hoạt động, giúp
chủ thể nhận thức và giải quyết có hiệu quả cơng việc trong những lĩnh vực
cụ thể. Năng lực luôn gắn liền với mỗi cá nhân, một tập thể, một nhóm xã
hội, do đó xã hội có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động thì con người cũng có
bấy nhiêu năng lực tương ứng” [86, tr. 29].
Đào Huy Tín, trong luận án tiến sĩ Quân sự “Biện chứng của quá trình
phát triển nhân cách người sĩ quan chính trị cấp phân đội Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [90], quan niệm: Năng lực của người sĩ quan chính trị
cấp phân đội là tổng hợp những thuộc tính cá nhân, bảo đảm cho họ tiến hành
cơng tác đảng, cơng tác chính trị theo chức trách và nhiệm vụ đạt hiệu quả
cao. Tác giả phân chia năng lực của người sĩ quan chính trị cấp phân đội
thành hai nhóm: năng lực nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Hai
14
nhóm năng lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhóm năng lực nhận thức
giúp cho người sĩ quan chính trị cấp phân đội nhận thức, đánh giá đúng tình
hình, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, đề ra chủ trương, biện pháp và phương
hướng hành động đúng đắn. Nhóm năng lực hoạt động thực tiễn tạo cho
người sĩ quan chính trị cấp phân đội khả năng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị, quân sự ở đơn vị, nhất là những nhiệm vụ cơng tác đảng, cơng tác
chính trị. Từ đó tác giả kết luận: Năng lực của người sĩ quan chính trị cấp
phân đội là sự thống nhất giữa tri thức khoa học với kỹ năng nghề nghiệp;
phát triển năng lực cho họ cần phải kết hợp chặt chẽ giữa “dạy chữ” với “dạy
nghề”, giữa “học chữ” với “học nghề”.
Vũ Quang Tạo, trong bài viết “Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội
ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện nay” [85], đã quan niệm: Năng lực
thực tiễn của người cán bộ là tổng thể các thuộc tính hợp thành khả năng hoạt
động thực tiễn có hiệu quả theo chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ. Cấu
trúc năng lực thực tiễn của người cán bộ bao gồm: khả năng xác định mục
đích của hoạt động; khả năng sử dụng có hiệu quả các lực lượng, phương tiện;
khả năng phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn; khả năng kiểm tra đánh giá
kết quả; v.v.. Những nhân tố trên có quan hệ biện chứng với nhau và tác động
đến nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ.
Tô Xuân Sinh, chủ biên cuốn sách “Bồi dưỡng năng lực cơng tác
đảng, cơng tác chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các đơn vị huấn luyện
sẵn sàng chiến đấu trong quân đội ta hiện nay” [110]. Trong đó, các tác giả
cho rằng: “Năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị của chính trị viên ở các
đơn vị huấn luyện chiến đấu là trình độ thực tế và khả năng tổ chức tiến hành
các hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị theo chức trách, nhiệm vụ của
người chủ trì về chính trị, người đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị
ở phân đội” [110, tr. 35]. Đó là năng lực quán triệt các nghị quyết, chỉ thị,
15
hướng dẫn của trên; khả năng xem xét, đánh giá tình hình thực tế của đơn vị;
năng lực quy tụ, phát huy trí tuệ và sức mạnh đồn kết của tập thể cấp uỷ và
chi bộ để xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững
mạnh toàn diện; năng lực tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục cán
bộ, chiến sĩ thuộc quyền; năng lực tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong từng nhiệm vụ cụ thể ở phân đội.
Các cơng trình trên, mặc dù với những hướng tiếp cận khác nhau
nhưng nhìn chung đều cho rằng, năng lực là tổng hợp những thuộc tính tạo
thành khả năng nhận thức và hành động của con người. Năng lực của người sĩ
quan chính trị cấp phân đội là tổng hợp những thuộc tính cá nhân, bảo đảm
cho họ tiến hành công tác đảng, công tác chính trị theo chức trách và nhiệm
vụ đạt hiệu quả cao. Đặc biệt tác giả Nguyễn Văn Hữu đã đi sâu luận giải nội
dung của từng yếu tố cấu thành năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ
chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là những nội dung
có ý nghĩa lý luận trực tiếp mà nghiên cứu sinh có thể kế thừa để nghiên cứu
các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại
đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phát triển năng lực
giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Đào Huy Tín, trong luận án tiến sĩ [90], đã chỉ ra các nhân tố cơ
bản tác động tới quá trình phát triển nhân cách người sĩ quan chính trị cấp
phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là: quan hệ biện chứng giữa
môi trường xã hội với cá nhân sĩ quan chính trị cấp phân đội; quan hệ
biện chứng giữa quá trình giáo dục - đào tạo và tự giáo dục - đào tạo; hoạt
động thực tiễn mà chủ yếu là hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị
ở phân đội; mối quan hệ biện chứng giữa mặt sinh vật và mặt xã hội của sĩ
quan chính trị cấp phân đội.
16
Theo tác giả, những nhân tố trên ln có mối quan hệ biện chứng với
nhau và cùng tác động, chi phối đến quá trình phát triển nhân cách người sĩ
quan chính trị cấp phân đội. Trong đó, mặt sinh vật là tiền đề vật chất không
thể thiếu; môi trường xã hội có vai trị quyết định, giáo dục - đào tạo là nhân
tố chủ đạo; hoạt động thực tiễn và tự giáo dục - đào tạo có ý nghĩa quyết định
trực tiếp quá trình phát triển nhân cách của họ.
Từ những cơ sở lý luận trực tiếp nêu trên và kết quả khảo sát, đánh
giá thực trạng phát triển nhân cách người sĩ quan chính trị cấp phân đội
trong quân đội, tác giả đã đề xuất hệ thống giải pháp tương đối đồng bộ:
xây dựng môi trường quân sự, trực tiếp là môi trường quân sự ở phân đội
trong sạch, lành mạnh; tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và tự giáo dục - đào tạo; phát huy tác động tích cực của chính
sách xã hội đối với sĩ quan quân đội tới quá trình phát triển nhân cách
người sĩ quan chính trị cấp phân đội quân đội ta.
Nguyễn Văn Hữu, cũng trong cuốn sách“Nâng cao năng lực giáo
dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân
dân Việt Nam” [52], cho rằng: Nâng cao năng lực giáo dục chính trị của
đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở là tổng thể các hoạt động có tổ
chức, có kế hoạch của chủ thể và đối tượng, thơng qua các chủ trương, hình
thức, biện pháp tiến hành bồi dưỡng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo giáo dục
chính trị nhằm tạo ra ở đội ngũ cán bộ chính trị năng lực giáo dục chính trị
cao hơn trình độ hiện có, đáp ứng u cầu nhiệm vụ giáo dục chính trị theo
cương vị, chức trách được giao.
Tác giả đã luận giải con đường hình thành, phát triển năng lực giáo dục
chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt
Nam. Theo tác giả, năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở
đơn vị cơ sở là sản phẩm của quá trình đào tạo, nó tiếp tục được củng cố, phát
17
triển trong quá trình hoạt động thực tiễn tại đơn vị cơ sở và thơng qua q
trình tự bồi dưỡng năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị.
Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến một hoạt động hết sức quan trọng, đó là
hoạt động bồi dưỡng năng lực giáo dục chính trị của đơn vị cơ sở.
Để nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính
trị ở đơn vị cơ sở, theo tác giả cần phải tập trung vào các giải pháp cơ bản
như: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức
năng của đơn vị với việc nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ
cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp
bồi dưỡng năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn
vị cơ sở; đẩy mạnh việc tự học tập, tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ chính
trị ở đơn vị cơ sở.
Nguyễn Văn Huy, trong luận án tiến sĩ [51], khẳng định: “Nâng
cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân
Việt Nam là quá trình bổ sung, hoàn thiện tổng thể các yếu tố cấu thành
năng lực thực tiễn trong sự tương tác hợp quy luật của các chủ thể, làm
biến đổi năng lực thực tiễn của đội ngũ này theo hướng đáp ứng ngày
càng tốt hơn chức trách, nhiệm vụ, vị thế của họ ở giai đoạn lịch sử phát
triển quân đội nhất định” [51, tr. 41]. Tác giả chỉ ra ba yếu tố cơ bản quy
định trực tiếp đến nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là: sự tác động biện chứng giữa
mức độ phù hợp của chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng với năng lực thực tiễn của người chính trị viên; sự quyết
định trực tiếp của nhân tố chủ quan của chính họ; sự quy định của môi
trường hoạt động của họ.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và kết
quả khảo sát, phân tích, đánh giá khách quan thực trạng nâng cao năng lực
18
thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, tác
giả tập trung luận giải ba giải pháp cơ bản: nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam; phát huy vai trò nhân tố chủ quan của người chính trị
viên trong nâng cao năng lực thực tiễn của họ; xây dựng môi trường thuận
lợi cho nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân
đội nhân dân Việt Nam. Trong hệ thống các giải pháp trên, tác giả xác
định: nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng năng lực thực tiễn là giải
pháp có ý nghĩa quan trọng; phát huy vai trị nhân tố chủ quan của người
chính trị viên trong nâng cao năng lực thực tiễn của họ là giải pháp có ý
nghĩa quyết định; xây dựng mơi trường thuận lợi cho nâng cao năng lực
thực tiễn là giải pháp vừa tạo điều kiện khách quan thuận lợi, vừa tạo
động lực thúc đẩy nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Lê Xuân Lựu, trong bài viết “Liên hệ lý luận với thực tiễn trong dạy
và học” [63], đã khẳng định: Để đào tạo được đội ngũ cán bộ chính trị có
năng lực tư duy lý luận và năng lực thực tiễn, trong quá trình dạy và học ở
nhà trường cần phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc “liên hệ lý luận với
thực tiễn”. Theo tác giả, thực chất liên hệ lý luận với thực tiễn trong dạy và
học là nắm chắc lý luận và vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận vào thực
tiễn trong dạy và học. Nguyên tắc liên hệ lý luận với thực tiễn phải đóng
vai trị chỉ đạo xun suốt cả hoạt động dạy và hoạt động học để nâng cao
phẩm chất và năng lực của người học. Mục đích cần đạt được của nguyên
tắc này là hình thành cho người học khả năng vận dụng lý luận đã được
trang bị vào hoạt động thực tiễn ở đơn vị. Quán triệt và thực hiện tốt
nguyên tắc này sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Nhờ đó, giúp
19
cho người học khi tốt nghiệp ra trường, về đơn vị cơng tác có thể hồn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Nguyễn Chính Lý, tác giả luận án tiến sĩ “Bồi dưỡng năng lực thực
hành công tác đảng, công tác chính trị của học viên đào tạo cán bộ chính
trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự trong giai đoạn hiện nay”
[64], cho rằng: Bồi dưỡng năng lực thực hành cơng tác đảng, cơng tác
chính trị của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội là nhiệm vụ cơ
bản của công tác giáo dục - đào tạo. Nó bao gồm tổng thể những tác động
có chủ định của hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng, đội ngũ
giảng viên, cán bộ quản lý cùng với sự nỗ lực học tập, rèn luyện của học
viên, nhằm trang bị, củng cố, mở rộng tri thức, hình thành và phát triển kỹ
năng, kỹ xảo cho học viên.
Nguyễn Thanh Hùng, tác giả cuốn sách “Bồi dưỡng năng lực cơng
tác đảng, cơng tác chính trị cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội” [50]. Khi
bàn về những vấn đề có tính ngun tắc trong bồi dưỡng năng lực cơng tác
đảng, cơng tác chính trị cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, tác giả đã nhấn
mạnh phải kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng của tổ chức với tự bồi dưỡng,
tự rèn luyện; gắn bồi dưỡng năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị với
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực tồn diện. Bởi vì, bồi
dưỡng của tổ chức và tự bồi dưỡng, tự rèn luyện là những yếu tố cơ bản chi
phối đến năng lực công tác đảng, công tác chính trị; phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực chỉ huy, quản lý chuyên môn là những yếu tố cơ bản
tạo nên sức mạnh bên trong, là điều kiện không thể thiếu đối với các chủ
thể tiến hành công tác đảng, cơng tác chính trị.
Theo tác giả, để nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực công tác
đảng, công tác chính trị cho sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, cần phải nâng
cao nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy các cấp; đổi mới nội dung, hình thức,
20
phương pháp bồi dưỡng; thực hiện tốt tự học tập, tự rèn luyện; xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện. Trong đó, tác giả nhấn mạnh vai trị quan
trọng của việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy các cấp về bồi
dưỡng năng lực công tác đảng, công tác chính trị.
Nguyễn Tiến Quốc, chủ biên cuốn sách “Nâng cao phẩm chất,
năng lực của đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [83], đã luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn, làm rõ yêu
cầu và đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao phẩm chất, năng lực của đội
ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Trong đó, tác giả khẳng định: “Phẩm chất, năng lực của chính ủy, chính
trị viên trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng và phát huy sức
mạnh của tổ chức và con người trong đơn vị, đến kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao” [83, tr.5].
Đặng Thế Vinh, trong bài viết “Kết hợp nhà trường và đơn vị trong
đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội” [104, tr. 73], đã phân tích làm rõ các
hình thức, biện pháp cụ thể kết hợp giữa nhà trường và đơn vị trong đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội. Theo tác giả, kết hợp giữa nhà trường và đơn vị
trong đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội là thực hiện phương châm học đi
đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, lý thuyết gắn với thực hành, thao
trường gắn với chiến trường, nhà trường gắn với xã hội. Kết hợp giữa nhà
trường và đơn vị trong đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội thơng qua các
hình thức cơ bản như: thực tập tốt nghiệp của học viên; đưa cán bộ đi dự
nhiệm; cử các đoàn cán bộ, giảng viên đi nghiên cứu thực tế; khảo sát kết quả
giáo dục - đào tạo; tổ chức tọa đàm về kỹ năng tiến hành công tác đảng, cơng
tác chính trị... Ngồi những hình thức cơ bản trên, cần có thêm các hình thức
giao lưu giữa nhà trường và đơn vị cơ sở để phát huy thế mạnh của hai bên.
Nhà trường có thể cử cán bộ tham gia bồi dưỡng, tập huấn của đơn vị về lý
21
luận chính trị, cơng tác đảng, cơng tác chính trị, đấu tranh tư tưởng hoặc một
số nghiệp vụ chuyên sâu về công tác tư tưởng, công tác tổ chức. Theo tác giả,
cần phải xây dựng hệ thống văn bản chỉ đạo, tạo thành hành lang pháp lý cho
việc kết hợp nhà trường và đơn vị trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung,
cán bộ chính trị cấp phân đội nói riêng.
Nguyễn Văn Phúc, trong bài viết “Đổi mới dạy học mơn cơng tác
đảng, cơng tác chính trị trong đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay” [104, tr. 91], đã chỉ rõ: đổi mới chương trình, nội dung
mơn học cần phải hướng vào xây dựng hai yếu tố cơ bản trong phẩm chất
và năng lực của chính trị viên là “Hồng” và “Chuyên”; đổi mới trước hết
phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
phẩm chất và năng lực của chính trị viên. Chương trình, nội dung phải bảo
đảm tỷ lệ thích hợp giữa dạy lý thuyết với dạy thực hành, thực tập. Mặt
khác, phải tăng cường thời gian và đổi mới nội dung thực tập tại đơn vị cơ
sở; xúc tiến nghiên cứu, đề xuất với Bộ Quốc phịng những hình thức thích
hợp cho mơ hình gắn kết giữa nhà trường với đơn vị.
Đỗ Đình Lượng, trong bài viết “Bồi dưỡng phương pháp, tác phong
công tác của chính trị viên đại đội” [104, tr. 144], đã nhấn mạnh việc kết
hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại trường với bồi dưỡng, rèn luyện phương
pháp, tác phong công tác cho đội ngũ chính trị viên tại đơn vị. Theo tác giả,
trong tuyển chọn học viên đào tạo chính trị viên đại đội cần coi trọng phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng khiếu nghề nghiệp. Đồng thời, trong
quá trình giáo dục, đào tạo phải trang bị những kiến thức cần thiết. Nâng
cao chất lượng thực hành thông qua các bài tập chuyên ngành công tác
đảng, công tác chính trị; thực tập chức danh chính trị viên tại lớp (đại đội);
diễn tập cuối khoá và thực tập tại đơn vị cơ sở gắn với chức danh, cương vị
công tác theo mục tiêu, mơ hình đào tạo chính trị viên. Kết hợp tốt giữa bồi
22
dưỡng, rèn luyện của tổ chức với tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học viên
đào tạo chính trị viên.
Nguyễn Quốc Minh, trong bài viết “Một số kinh nghiệm về bồi dưỡng
năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị cho đội ngũ chính trị viên ở Binh
đồn Tây Ngun” [74], cho rằng: Muốn bồi dưỡng tốt năng lực công tác
đảng, cơng tác chính trị, u cầu đội ngũ chính trị viên phải tích cực, tự giác
học tập và rèn luyện. Theo tác giả, chỉ có thơng qua học tập, tu dưỡng, rèn
luyện phấn đấu thì năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị của đội ngũ
chính trị viên mới ngày càng được củng cố và phát triển. Yêu cầu đội ngũ
chính trị viên trong q trình thực hiện kế hoạch tự học tập, tu dưỡng, rèn
luyện phải kết hợp nói đi đơi với làm; phải coi trọng thực hành. Đó là phương
hướng cơ bản trong đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ chính trị viên đủ về
số lượng, cao về chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong giai đoạn mới.
Phan Công Thủy, trong bài viết “Một số giải pháp cơ bản nâng cao
năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội trong tình
hình mới” [105, 35], đã chỉ rõ: Để nâng cao năng lực cơng tác, địi hỏi đội
ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội phải khơng ngừng học tập, rèn luyện
trong q trình cơng tác. Muốn vậy, cấp ủy, chỉ huy cấp trên trực tiếp phải
thường xuyên giáo dục, xây động cơ, thái độ trách nhiệm, ý chí, quyết tâm
học tập, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội; tăng cường
cơng tác lãnh đạo, quản lý hoạt động tự học tập, rèn luyện của đội ngũ cán
bộ chính trị cấp phân đội.
Nguyễn Quang Minh, tác giả bài viết “Một số vấn đề cần thiết trong
bồi dưỡng năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị của đội ngũ chính trị
viên” [105, 35], đã quan niệm: Bồi dưỡng năng lực cơng tác đảng, cơng tác
chính trị của đội ngũ chính trị viên là việc làm thường xuyên của cấp ủy,
23
chính ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp. Để nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác bồi dưỡng năng lực cơng tác đảng, cơng tác chính trị của đội
ngũ chính trị viên, theo tác giả: Phải kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và
đơn vị, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa tổ chức và cá nhân.
Ngô Văn Quỳnh, trong bài viết “Phát huy vai trò của cán bộ giảng
dạy chính trị nhằm nâng cao chất lượng học tập chính trị cho hạ sĩ quan,
binh sĩ ở đơn vị cơ sở hiện nay” [84], đã nhấn mạnh: Cùng với việc tăng
cường hoạt động tập huấn, bồi dưỡng của đơn vị, yêu cầu từng cán bộ làm
công tác giảng dạy chính trị phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực,
chủ động, say mê học tập, nghiên cứu nhằm tích luỹ kinh nghiệm và nâng
cao trình độ năng lực chuyên môn; không ngừng trau dồi phương pháp, tác
phong và năng lực công tác. Mặt khác, đối với cấp uỷ, chỉ huy đơn vị mà
trực tiếp là chính uỷ và cơ quan chính trị phải thường xuyên thực hiện
nghiêm kế hoạch bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ đội ngũ
cán bộ giảng dạy chính trị, phân loại chất lượng giảng dạy chính trị của
từng cán bộ. Thực hiện tốt chế độ bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ
cán bộ giảng dạy chính trị thơng qua các hình thức như thơng qua giáo án,
giảng thử, giảng mẫu, dự giờ, bình giảng.
Trần Hậu Tân, trong luận án tiến sĩ [86], cho rằng: Năng lực thực tiễn
của chính trị viên từng bước được hình thành, hồn thiện và nâng cao thông
qua đào tạo, bồi dưỡng và tham gia hoạt động thực tiễn trên cương vị chức
trách được giao. Từ đó, tác giả quan niệm: “Nâng cao năng lực thực tiễn của
chính trị viên là q trình tác động tích cực, tự giác của các chủ thể làm cho
khả năng tiến hành các hoạt động chủ trì về chính trị và tổ chức tiến hành các
hoạt động công tác đảng, cơng tác chính trị của chính trị viên ngày càng có
chất lượng, hiệu quả giúp chính trị viên hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao” [86, tr. 41]. Thực chất nâng cao năng lực thực tiễn của chính trị
24
viên là q trình làm chuyển hố nội tại các yếu tố cấu thành năng lực thực
tiễn của chính trị viên trong suốt quá trình học tập và thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được tổ chức phân cơng.
Bộ Quốc phịng, trong “Đề án đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tại
đơn vị trong giai đoạn mới” [8], đã đề cập đến nhiều vấn đề về cơng tác giáo
dục chính trị tại đơn vị hiện nay.
Đề án khẳng định: “Công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trực tiếp góp
phần xây dựng qn đội vững mạnh về chính trị, giữ vững trận địa tư tưởng
của Đảng trong quân đội, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu; xây
dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, tổ chức quần chúng vững mạnh
xuất sắc, làm cho quân đội ln là lực lượng chính trị, đội qn chiến đấu
tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao” [8, tr. 1].
Đề án đã chỉ ra thực trạng công tác giáo dục chính trị tại đơn vị. Bên
cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được của công tác giáo dục chính trị tại
đơn vị trong những năm qua, đề án còn chỉ ra một số hạn chế, bất cập, trong
đó nhấn mạnh thực trạng đội ngũ cán bộ giảng dạy chính trị tại đơn vị: “một số
đồng chí năng lực yếu” [8, tr. 7].
Về nhiệm vụ đổi mới, Đề án nhấn mạnh, phải đổi mới công tác đào tạo tại
các học viện, nhà trường quân đội gắn với bồi dưỡng thường xuyên tại đơn vị,
nâng cao trình độ, phương pháp sư phạm và kỹ năng khai thác, quản lý thơng tin
mạng cho đội ngũ cán bộ chính trị - lực lượng nịng cốt trong cơng tác giáo dục
chính trị tại đơn vị nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trường Sĩ quan Chính trị, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Đổi
mới mơn học giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ chính trị cấp phân
đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn mới” [107], nhiều bài viết đã đề
25
cập khá sâu sắc, toàn diện và khoa học về vị trí, vai trị, tính cấp thiết và
những giải pháp đổi mới chương trình, nội dung mơn học Giáo dục chính
trị trong đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội hiện nay. T rong đó, đã nhấn
mạnh vấn đề nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng trong
việc tăng cường bồi dưỡng năng lực giáo dục chính trị cho học viên đào
tạo cán bộ chính trị cấp phân đội.
Trong đó, tiêu biểu có các bài viết của các tác giả: Trần Hồi Trung
“Chất lượng cơng tác giáo dục chính trị tại đơn vị cơ sở và vấn đề đặt ra
trong đào tạo chính trị viên đại đội hiện nay” [107, tr. 9]; Nguyễn Xuân
Trường “Quy trình đổi mới mơn học Giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Chính trị: những định hướng cơ bản
và các bước tiến hành”; Lê Văn Làm “Nâng cao chất lượng môn học Giáo
dục chính trị ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” [107, tr. 24]; Vũ Văn
Dũng “Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành huấn luyện thực hành, tập
bài môn Giáo dục chính trị ở Trường Sĩ quan Chính trị” [107, tr. 30]; Bùi
Kim Bân “Phát huy vai trò của cán bộ quản lý trong nâng cao chất lượng
học tập mơn học Giáo dục chính trị của học viên”; Vương Văn Thanh “Nâng
cao chất lượng đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - lực lượng tổ chức
giáo dục chính trị ở các đơn vị cơ sở trong tương lai” [107, tr. 62]; .... Nhìn
chung các bài viết đều khẳng định: Để góp phần nâng cao trình độ, năng lực
tổ chức tiến hành cơng tác giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị cấp
phân đội, trong q trình đào tạo cần phải đổi mới mơn học Giáo dục chính
trị.
Đặc biệt trong bài viết của tác giả Trần Hoài Trung, bên cạnh việc
khẳng định những ưu điểm, đã chỉ rõ những hạn chế, bất cấp trong công
tác giáo dục chính trị tại đơn vị cơ sở hiện nay. Theo tác giả, “Những hạn
26
chế, bất cấp trong cơng tác giáo dục chính trị tại đơn vị cơ sở hiện nay do
nhiều nguyên nhân, trong đó có ngun nhân thuộc về trình độ, năng lực
tổ chức tiến hành cơng tác giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị
cấp phân đội, trước hết là đội ngũ chính trị viên đại đội - người chủ trì,
trực tiếp quản lý và tổ chức mọi hoạt động cơng tác giáo dục chính trị ở
đại đội”...; “một bộ phận cán bộ chính trị ở đại đội cịn hạn chế cả về cơng
tác tổ chức đến thực hành giáo dục chính trị, nhất là tổ chức học tập chính
trị cho hạ sĩ quan - binh sĩ, thơng báo chính trị - thời sự, thực hiện ngày
chính trị và văn hóa tinh thần” [107, tr. 10]. Đồng thời, tác giả đã đề xuất
một số nội dung, biện pháp nhằm nâng cao năng lực tiến hành công tác
giáo dục chính trị của học viên trong q trình đào tạo cán bộ chính trị
cấp phân đội.
3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã
cơng bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
* Khái qt kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã cơng
bố có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, các cơng trình khoa học đã đưa ra quan niệm tương đối hoàn
chỉnh về một số khái niệm cơ bản như: năng lực; năng lực giáo dục chính trị
của đội ngũ cán bộ chính trị đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam và
nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ
sở Quân đội nhân dân Việt Nam; năng lực thực tiễn của người chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam và nâng cao năng lực thực tiễn của người
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, các công trình đã
chỉ ra những yếu tố cơ bản cấu thành năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ
cán bộ chính trị đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam và năng lực thực
27
tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đó là hệ
thống tri thức khoa và kỹ năng, kỹ xảo.
Thứ hai, nhìn chung, các cơng trình khoa học đã chỉ ra những nhân tố
cơ bản quy định sự phát triển nhân cách nói chung và những năng lực cụ thể
của người cán bộ chính trị trong quân đội nói riêng. Những nhân tố cơ bản đó
là: chất lượng giáo dục và đào tạo ở nhà trường; chất lượng bồi dưỡng ở đơn
vị; môi trường đơn vị cơ sở; nhân tố chủ quan của họ.
Thứ ba, các cơng trình khoa học đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế
cơ bản của đội ngũ cán bộ chính trị khi tiến hành cơng tác giáo dục chính
trị tại đơn vị; những ưu điểm, hạn chế trong công tác đào tạo tại nhà
trường và tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên tại đơn vị. Đồng thời làm rõ
những nguyên nhân cơ bản của những ưu điểm và hạn chế đó. Đây là cơ
sở khoa học có giá trị trực tiếp đối với việc xem xét, đánh giá thực trạng
phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, các cơng trình khoa học đã đưa ra hệ thống giải pháp cơ bản,
có tính khả thi nhằm phát triển nhân cách người sĩ quan chính trị cấp phân
đội Quân đội nhân dân Việt Nam và nâng cao năng lực giáo dục chính trị
của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong đó, các cơng trình đã tập trung vào các giải pháp cơ bản: đổi mới
nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở nhà trường và
chất lượng bồi dưỡng ở đơn vị; xây dựng môi trường thuận lợi ở đơn vị cơ
sở; phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ chính trị.
Những nội dung cơ bản nêu trên là những đóng góp có giá trị về mặt
khoa học trong nghiên cứu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam. Mặc dù những nội dung cơ bản đó khơng phải