Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Giới thiệu tác phẩm bản án chế độ thực dân pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.32 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM
KHOA KẾ TOÁN KIỂM TOÁN
----------

BÀI KIỂM TRA GIỮA MÔN

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN: Th.S LÊ XUÂN MINH
SVTH
: VƯƠNG HỒNG NHUNG
MSSV
: 030527111137
LỚP
: ĐH27KT03

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 03/2012


Đề bài: Giới thiệu tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
1.

Hoàn cảnh lịch sử:

1.1.

Quốc tế:

“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một tác phẩm lớn ra đời giữa lúc làn sóng cách mạng
đang dâng lên mạnh mẽ ở khắp các thuộc địa của thực dân Pháp, phong trào yêu nước ở Việt


Nam đang sôi nổi diễn ra khắp Bắc-Trung-Nam; và giữa lúc Nguyễn ái Quốc đang nỗ lực tổ
chức lực lượng nòng cốt của cách mạng Việt Nam theo con đường của Cách mạng Tháng Mười
Nga. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã có tiếng vang lớn trong nhân dân Pháp và nhân dân
các nước thuộc địa.
1.2.

Trong nước:

Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam áp đặt chính sách cai trị thâm độc làm cho nhân dân Việt
Nam lâm vào cảnh khốn cùng. Đứng trước tình cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã đặt quyết tâm phải
tìm ra một con đường mới để giải phóng cho dân tộc mình. Khi trở thành đại biểu của Quốc tế
cộng sản, phụ trách ban phương Đông, Nguyễn Ái Quốc đã có điều kiện nêu ra quan điểm của
mình về các nước thuộc địa và những biện pháp để các nước này tự giải phóng. Trong thời gian
đó, Nguyễn Ái Quốc đã viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản lần đầu tiên tại Pa-ri
năm 1925 bằng tiếng Pháp.
1.3.

Hoạt động của hội Việt Nam cách mạng Thanh niên:

Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) để trực tiếp chuẩn bị thành
lập Đảng. Tại đây, Người thành lập “hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông”. Tháng 6-1925,
Người thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” tổ chức trung kiên là “Cộng sản
đoàn” làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin vào Việt Nam, ra tờ báo “Thanh
niên”, mở các lớp huấn luyện đào tạo các thanh niên ưu tú rồi đưa về nước hoạt động.
2.

Chủ đề tác phẩm:

Bản án chế độ thực dân Pháp (tiếng Pháp: Le Procès de la colonisation française) là một tác
phẩm chính luận do Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp và được xuất bản năm 1925- 1926

trên một tờ báo của Quốc tế Cộng sản có tên Imprékor.
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” chỉ rõ âm mưu thủ đoạn của bọn đế quốc: Chính
quyền thực dân đã biến người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ cho
lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần sự thật ấy
bằng những tư liệu phong phú, xác thực, bằng ngòi bút trào phúng khá sắc sảo.
3.

Kết cấu tác phẩm:

Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục:


Chương 1: Thuế máu



Chương 2: Việc đầu độc người bản xứ



Chương 3: Các quan thống đốc



Chương 4: Các quan cai trị




Chương 5: Những nhà khai hoá




Chương 6: Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị



Chương 7: Bóc lột người bản xứ



Chương 8: Công lí



Chương 9: Chính sách ngu dân



Chương 10: Chủ nghĩa giáo hội



Chương 11: Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ



Chương 12: Nô lệ thức tỉnh




Phụ lục: Gửi thanh niên Việt Nam

4.

Nội dung tác phẩm:

4.1. Tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân:
Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra tình cảnh thống khổ của nhân dân lao động dưới ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân nhiều nơi trên thế giới.
4.1.1. Về kinh tế:
Tác giả tố cáo tội ác của thực dân Pháp về mặt kinh tế trên các mặt sau:
- Chính sách thuế khoá: Thực dân Pháp thực hiện chính sách thu thuế với các loại thuế vô lí
và nặng nề, ngày càng tăng lên “Từ năm 1890 đến năm 1896 thuế trực thu tăng gấp đôi; từ năm
1896 đến năm 1898 lại tăng lên gấp rưỡi. Làng nào cũng bị tăng thuế cũng cắn răng mà chịu”.
(trang 75).
- Cho vay nặng lãi
- Vơ vét tài nguyên, chiếm đoạt tài sản. (chương 12)
- Phu dịch
- Tăng giá sinh hoạt, cấm người bản xứ buôn bán “Người ta cấm người bản xứ mua sắm và
sử dụng vũ khí để chống thú dữ thường phá sạch trơn hàng loạt làng xóm. Giáo dục, vệ sinh đều
thiếu”. (trang 123).
- Thu lợi nhuận từ rượu và thuốc phiện. ”Lúc ấy, cứ 1000 làng thì có đến 1.500 đại lí bán
rượu lẻ và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng ấy mới có 10 trường học. Trước khi có
bức thư quý hoá trên, hàng năm người ta cũng đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu
người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con”(trang 32). Hay như bọn thực dân còn pha nước lã vào
rượu để bán kiếm lời” Tính trên toàn cõi Đông Dương mỗi ngày cứ bán 500 héc-tô-lít rượu thì có
4.000 lít nước lã pha thêm vào; 4.000 lít mỗi lít giá ba hào, thành 1.200 đồng một ngày, 36.000
đồng một tháng. Như thế chỉ cần mở vòi nước lã không thôi, mỗi năm công ty cũng thu được
mốn lãi nho nhỏ 432.000 đồng hay 4 triệu phơ-răng”. (trang 36).

Kết luận: Chính những chính sách khai thác nặng nề và tàn bạo của thực dân Pháp đã làm
cho nền kinh tế các thuộc địa nói chung và Đông Dương nói riêng trở nên kiệt quệ, đời sống của
người dân lầm than và đói khổ.
4.1.2. Về chính trị:


Cũng như trong lĩnh vực kinh tế thì trong chính trị bọn thực dân cũng thực hiện những thủ
đoạn thâm độc:
Thứ nhất, chúng bắt người Việt Nam di làm bia đỡ đạn, để phục vụ mục tiêu chính trị của
chúng. Mà ở đây tác giả gọi là chế độ “lính tự nguyện”, những người lính này được ví như là
“vật liệu biết nói”. Tác giả viết: “Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ,
những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến
con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia
đình họ, và nếu cần thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con
đường: “đi lính tự nguyện, hoặc xì tiền ra””. (trang 19)
Gọi là “tình nguyện” nhưng lại những vụ trốn lính và đào ngũ (tính ra có đến 50% trong hàng
ngũ quân dự bị) đều bị đàn áp không gớm tay và những cuộc đàn áp lại gây ra những cuộc binh
biến bị dìm trong biển máu.
Thứ hai, hành vi bắt dân An Nam tiêu thụ rượu và thuốc phiện ngoài mục đích bán được
nhiều. thu được nhiều lợi nhuận, thì chúng còn nhằm thu chột tinh thần đấu tranh của nhân dân
ta.
Thứ ba, để tiến hành sự áp bức bốc lột đạt mục đích, chúng thiết lập bộ máy cai trị với lực
lượng dày đặc. Tác giả so sánh:“Ở Ấn Độ thuộc Anh dân số 325 triệu, có 4.898 viên chức người
Âu, ở Đông Dương thuộc Pháp dân số 15 triệu người mà có đến 4300 viên chức người Âu”.
(trang 54)
Chúng còn lập ra các quan chức tự tăng lương: “riêng một chủ tịch nào đó của hội đồng đã
xin tăng lương mình lên gấp đôi và đã được chấp thuận”. (trang 71)
Tác giả chỉ ra: “hệ thống các quan cai trị, các quan thống đốc thực chất chính là quân trộm
cắp, bốc lột dân bản xứ để làm giàu chẳng kiêng nể gì tài sản quyền lợi tự do, đời sống của
những người bị cai trị cả”. (trang 48)

Thứ tư, bên cạnh lực lượng đông đảo chính quốc, chúng còn dùng hình thức người Việt trị
người Việt: “dùng hệ thống cảnh binh người Việt làm tay sai mà theo các nhà khai hóa “cảnh
binh rất được long người dân bản xứ””. (trang 64).
Thứ năm, để bảo vệ cho quyền lợi của mình, bọn thực dân dựa vào luật pháp, chúng còn dựa
vào tôn giáo để phục vụ mục đích chính trị. Tác giả viết: “Các nhà truyền giáo đã tiết lộ những bí
mật mà con chiên đã nói ra khi xưng tội và nộp những người Việt Nam yêu nước cho bọn chiến
thắng đem lên máy chém”. ( trang 106)
Hay như “những người giáo hội, thực dân Pháp lợi dụng làng hiếu khách của người Việt
Nam để đánh cắp những bí mật quân sự, vẽ những bản đồ nộp cho quân viễn chinh”. (trang109)
và “những nhà giáo hội còn ở địa phương làm thuông ngôn và chỉ điểm cho chúng”.
Thứ sáu, khi ở chính quốc giai cấp công nhân phát triển, bọn thực dân đã di chuyển nền
thống trị sang các nước thuộc địa. Điều này nói lên bản chất “con dỉa hai vòi” của chủ nghĩa đế
quốc là vừa bốc lột nhân dân lao động chính quốc vừa bốc lột nhân dân lao động thuộc địa.
Thứ bảy, để dễ dàng hơn hơn trong việc thống trị, bốc lột chúng dùng chính sách chia đệ trị,
gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân An Nam. Tác giả phân tích: “chính vì thế mà nước Việt
nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một
lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia năm, xẻ bảy. Lợi dụng một cách
xảo trá sự chia cắt ấy người ta hy vọng làm ngược được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong tim


anh em ruột thịt với nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại lập nên một
liên bang gọi là liên bang Đông Dương”. (trang 124)
Đây là một thủ đoạn thâm độc trong phương pháp cai trị của pháp. Chúng cũng áp dụng
chính sách chia đệ trị ở các thuộc địa khác. Ngoài ra, chúng không cho tự do báo chí, không cho
báo chí nói về cuộc bầu cử, không cho thanh niện đi du học vì sợ nhiễm chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy trong lĩnh vực chính trị chúng cũng không kém phần thâm độc, tàn ác, phục vụ đắc
lực cho mục đích kinh tế.
4.1.3. Về văn hóa:
Để thống trị, chiếm đoạt hoàn toàn một đất nước ngoài việc nô dịch về kinh tế, về chính trị
thì vấn đề nô dịch về văn hóa xã hội cũng rất được quan tâm và coi trọng. Để thực hiện điều này,

thực dân Pháp đã ra sức dùng mọi thủ đoạn để áp bức, chà đạp lên nền văn hóa xã hội của nước
ta cũng như các nước thuộc địa. Nhân dân An Nam và nhân dân bản xứ rơi vào cảnh lầm than,
đau khổ, quằn quại dưới những thủ đoạn vô cùng tàn bạo, dã man và khắc nghiệt của thực dân
Pháp. Những thủ đoạn của chúng gồm:
+ Khuyến kích lối sống ăn chơi sa đọa, kích động bạo lực dưới nhiều hình thức như:
- Chúng đưa nền văn minh vào các nước thuộc địa bằng bạo lực, vừa lố bịch, vừa phản động.
Chúng tưởng niệm những người chết – những thanh niên bị chúng bắt đi làm bia đỡ đạn cho
những cuộc chiến tranh phi nghĩa – như những người anh hùng bằng những cuộc hội hè ăn chơi
đình đám.
“Những ngày hội ở Biên Hòa”. (trang 26 – 27)
“Năm 19…, một tay nước ngoài … ngựa đua”. (trang 73)
- Chúng xem việc tiêu diệt sinh mạng người bản xứ là thú vui, là niềm hãnh diện. Chúng cá
cược xem ai giết được nhiều người An Nam nhất là kẻ thắng cuộc. Một người Pháp sống lâu năm
ở Bắc Kỳ đã kết luận “mạng của một người Việt Nam không đáng một trinh”, anh ta kể: những
nhà khai hóa đã cá cược nhau xem ai “hạ sát” được nhiều người Việt nhất…
- Chúng đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện.
“Lúc ấy cứ … và trẻ con” (trang 32)
“Số dân tỉnh này … được khen” (trang 34 – 35)
- Chúng xem sinh mạng của người bản xứ như cỏ rác. Chúng thực hiện những hành động tàn
bạo nhất, dã man nhất chỉ để thỏa mãn thú vui tiêu khiển, thỏa mãn cơn khát máu.
“Ngay bên dưới tôi … đã có tâm hồn thực dân” (trang 63)
“Một tên lính buộc một người phụ nữ An Nam phải hiến thân cho con chó của hắn. Chị
không chịu. Hắn liền đâm một nhát lưỡi lê vào bụng chị, chết tươi.” (trang 118)
“Không phải chỉ có … đóng lên người họ” (trang 120)
Những người bản xứ bị đọa đày đến tận cùng của xã hội mà phải câm lặng chịu đựng, không
thể kêu cứu. à “Tất cả những điều mà người ta đã có thể nói ra vẫn còn ở dưới mức sự thật. Chưa
có bao giờ, ở một nước nào mà người ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách dã man, độc
ác trắng trợn đến thế.”
+ Chà đạp lên nhân phẩm con người bằng:



- Lời nói:
“Mà An-nam-mit và An-gie-rieng đâu phải là người! Đó là bọn “nhà quê” hèn hạ, bầy “bicốt” bẩn thiểu. Cần quái gì phải có công lý đối với những giống ấy” (trang 93)
“Pháp luật, công lý đối với người bản xứ ư? Thôi đi! Chỉ có ba-toong, súng ngắn, súng dài,
đấy mới là thứ xứng đáng với lũ dòi bọ ấy” (trang 93)
“Một người Âu mắng một phụ nữ An Nam là con đĩ, con bú dù là một việc thông thường.”
(trang 112)
- Hành động: hành hạ, đánh đập, cưỡng bức, thóa mạ, dâm bạo
Víchto Mêrích đã kể lại … cho đến chết.” (trang 113)
Một người ở thuộc địa kể lại rằng: …vàng óng như da lợn quay.” (trang 117)
Thói dâm bạo vô độ của bọn xâm lược thật không có giới hạn nào cả. Cái tinh vi của một nền
văn minh khát máu cho phép chúng tưởng tượng được đến đâu thì chúng cứ thực hiện tính tàn ác
lạnh lùng của chúng đến đó.
+ Chính sách ngu dân gồm những vấn đề sau:
- Về báo chí:
- Theo sắc lệnh năm 1898, báo chí bản xứ phải chịu kiểm duyệt trước khi in.
“Sắc lệnh đó viết: … bị trừng trị". (trang 102)
Như vậy báo chí chỉ được phép xuất bản với những nội dung đúng với ý định của người kiểm
duyệt là phải ca ngợi chính quyền “bảo hộ”, không bao giờ được đền cập tới các vụ “nhơ nhớp”,
“lạm quyền” hoặc nếu đề cập tới thì cũng phải biến đổi với tinh thần ca ngợi chứ nó không được
thực hiện đúng vai trò của mình là nói lên hiện thực cuộc sống thống khổ của nhân dân lức bấy
giờ.
- Báo chí không được đăng các bài có liên quan đến vấn đề bầu cử.
“Trong một cuộc bầu cử … ở Nam Kỳ.” (trang 102)
“Cũng trong lúc ấy … bài ấy đã bị cắt.” (trang 103)
- Bàn tay kiểm duyệt của chúng không trừ bất kỳ tờ báo nào. Không chỉ báo chí tiếng Việt
mới bị kiểm soát ngặt nghèo như vậy mà kể cả các tờ báo ở nơi khác thậm chí báo tiếng Pháp
nếu không chịu ca tụng đức độ các “Cụ lớn” thì cũng bị chúng kiểm duyệt gắt gao.
“Sở bưu điện … gửi về.” (trang 103)
“Chính phủ Đông Dương … ra khỏi Marốc. (Người ta chỉ cho nhà báo một giờ để thu xếp

hành lý).” (trang 105 – 106)
“Giữa lúc khai mạc … và tống giam” (trang 106)
- Về bầu cử:
- Thông tin về các bầu cử cũng như thể lệ không được phổ biến rộng rãi.
Các báo chí không được phép đề cập đến vấn đề này. (đã dẫn chứng ở phần trên)
- Người Việt Nam không được tập trung đi bầu.


“Vì người An Nam không có quyền hội họp quá số 20 người, nên ứng cử viên phải gặp 3.000
cử tri lần lượt từng người một.” (trang 103)
- Thể lệ bầu cử sai nguyên tắc nhưng vẫn phải tuân theo.
“Trong lúc đó … cảm tình nhất.” (trang 103)
Nhân dân bản xứ không có quyền nắm bắt thông tin, trao đổi thông tin về nội dung liên quan
đến bầu cử cũng như lựa chọn ứng cử viên theo quyền của mình mà hoàn toàn phụ thuộc và bị ép
buộc làm theo những gì mà bọn cầm quyền đã sắp đặt sẵn. Đây là một kiểu bầu cử dân chủ hình
thức mà bọn thực dân dựng nên để che mắt cộng đồng những người tiến bộ yêu chuộng hòa bình
trên thế giới.
- Về giáo dục:
- Đóng cửa trường học. Việc làm thủ tục cho con em đi học vô cùng khó khăn và nhiêu khê.
“Nhân dân Đông Dương … vì nạn thiếu trường.” (trang 103 – 104)
“Tôi còn nhớ … cả lớp học. (trang 104)
“Người ta bảo … viên chức rồi.” (trang 104)
- Ngoài ra, chính phủ thuộc địa lại tìm đủ mọi cách để ngăn cản không cho thanh niên An
Nam sang du học bên Pháp, vì sợ nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản.
“Điều 500 (bis) trong nghị định … nha học chính.” (trang 104 – 105)
Tất cả mọi thủ tục phiền hà, rắc rối do chúng cố tình tạo ra à nhằm hạn chế việc tiếp xúc với
nền tri thức, với nền văn minh nhân loại của nhân dân bản xứ. Làm cho họ ngu để dễ bề cai trị.
- Về tự do thông tin cá nhân:
- Nhân dân bản xứ không có quyền được trao đổi thông tin cá nhân với người khác cũng như
với các tổ chức báo chí.

“Bàn tay bỉ ổi … thuộc địa. (trang 103)
“Một người Mangát … ở xứ sở anh.(trang 103)
“Mặt khác, nhà cầm quyền … ở các thuộc địa. (trang 105)
Quyền thông tin cá nhân bị vi phạm trầm trọng.
Việc quan tâm đến vấn đề học hành, đến quyền bầu cử, đến tự do ngôn luận, tự do báo chí,
liên lạc thư tín của nhân dân bản xứ làm cho chúng thấy lo sợ. Chúng tìm mọi cách để dân ta
không tiếp cận được nền văn minh, không được quan tâm đến vấn đề chính trị, không được nói
lên suy nghĩ của mình, không được liên lạc trao đổi thông tin với nhau cũng như với báo chí…
nhằm che mắt dư luận Pháp; áp đặt vào đầu óc, vào nhận thức của chúng ta rằng dưới sự bảo hộ
của “nước mẹ” chúng ta không cần quan tâm đến những vấn đề đó. Tóm lại là làm cho nhân dân
ta cũng như nhân dân các thuộc địa khác không hiểu biết, “làm cho dân ngu dễ trị”, dễ bóc lột.
Khi nói lên nỗi căm phẫn của mình trước những bất công , sự dã man, tàn bạo hiện diện trong
cuộc sống đè nặng lên vai những người bản xứ thông qua đó Nguyễn Ái Quốc bày tỏ sự xót
thương, đau đớn trước tình cảnh khốn khổ của những con người vô tội, yếu thế, nghèo khổ
không đủ khả năng chống chọi lại cường quyền, bạo lực. Bằng giọng điệu hết sức chua cay, thâm
thúy. Nguyễn Ái Quốc đã hết sức khéo léo lồng ghép việc tố cáo tội ác thực dân Pháp với nhân


dân quốc tế và kêu gọi sự đoàn kết, liên minh của các dân tộc bị áp bức cũng như kêu gọi sự
quan tâm, lên tiếng vì quyền con người, vì sự giải phóng con người của các dân tộc trên thế giới.
4.2. Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Chính những chính sách cai trị thâm độc đó đã thức tỉnh tinh thần đấu tranh của nhân dân nô
lệ. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi sự đoàn kết của nhân dân các thuộc địa, đặc biệt là nhân dân
Đông Dương.
Chính những chính sách bóc lột hết sức tàn bạo của thực dân Pháp trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế chính trị, văn hóa. Đã làm cho nhân dân ta phải chịu kiếp sống nô lệ, kinh tế kiệt quệ, đất
nước bị chia năm xẻ bảy, nền văn hóa bị nô dịch. Những điều đó đã đẩy mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, cũng thông qua đó mà Người muốn thức tỉnh
tinh thần đấu tranh của nhân dân thuộc địa, đặc biệt là nhân dân Đông Dương.

Trước hết, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập những cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc
địa như ở Đông Dương, ở Đa Hô Mây, ở Xy ri…Những phong trào đấu tranh đó diễn ra với
nhiều hình thức đấu tranh như bạo lực: ở Đông Dương diễn ra cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm
ở chợ Lớn (Nam kỳ) vì bớt lương (122). Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ
bạo động ở Sài Gòn, Biên Hòa…(20). Ở Đa hô mây nhân nhân đã vùng lên đấu tranh….(123).
Những cuộc đấu tranh bằng cách đưa ra khẩu hiệu như (124) “người Hồi giáo Xy-ri đã dựng một
khải hoàn môn có cắm cờ đen mang các khẩu hiệu: …Hãy giải phóng cho chúng tôi”.Hay họ
cũng gửi thư phản kháng(1125-126): “Thưa ngài! Pháp hứa bảo đảm nền độc lập cho xứ Xy-ri
bất hạnh. Nước Xy-ri hiển nhiên có đủ tư cách để được độc lập nhanh chóng, hoàn toàn và xứng
đáng với nền độc lập ấy không kém bất cứ một nước nào khác ở phương Đông hay ở Phương
Tây. Thế mà Xy-ri lại không được phép cóc một quốc kỳ riêng cho mình…”. Ngoài ra, những
người ở Ha-ma cũng đã gửi một bức thư cho thủ tướng Pháp (127). Trong đó họ đã đưa ra những
yêu cầu đòi lợi ích cho dân tộc mình.
Trong tác phẩm , Nguyễn Ái Quốc cũng đã chỉ ra những điều kiện hết sức thuận lợi của các
dân tộc thuộc địa (133), “Miền Cận Đông và Viễn Đông, kể từ Xy-ri đến Triều Tiên- chỉ tính
những nước thuộc địa và nửa thuộc địa thôi- có một diện tích rộng hơn 15 triệu km vuông với số
dân hơn 1200 triệu người.Tất cả những nứơc rộng lớn ấy hiện đang ở dưới ách của chủ nghĩa đế
quốc tư bản”. Theo Nguyễn Aí Quốc thì những dân tộc này có tiềm lực lớn để phát triển như bất
kỳ một dân tộc phát triển ở Phương Tây nhưng họ vẫn không tận dụng được thuận lợi đó. Người
chỉ ra rằng (133): “Và mặc dầu dân số của họ đáng lẽ phải làm cho họ có sức mạnh, các dân tộc
bị áp bức đó vẫn chưa bao giờ ra sức tìm tòi thật đến nơi đến chốn con đường tự giải phóng, cho
nên họ chưa hiểu được giá trị của sự đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Họ chưa có những
mối liên hệ giữa các lục địa như các dân tộc châu Âu và châu Mỹ. Họ có sẵn trong bản thân một
sức mạnh vô cùng to lớn mà họ chưa biết”.
Nguyễn Ái Quốc cũng đã chỉ ra những tiềm năng to lớn của của Việt Nam , coi đây là một
dân tộc đáng tự hào về truyền thống văn hoá. Đây là một nước có chung một dân tộc, chung một
dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một tiếng nói. Nhưng dưới chính
sách chia để trị, thực dân Pháp đã làm cho nó chia năm xẻ bẩy và ý đồ làm nguội lạnh tình đoàn
kết, nghĩa đồng bào trong lòng người Việt Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa những
người anh em ruột thịt với nhau nhưng lại ghép thành cái gọi là Liên bang Đông Dương giả

tạo(124-125). Đông Dương còn đáng tự hào là có những điều kiện vật chất mà một dân tộc mong
muốn như hải cảng, hầm mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng núi bao la, người lao động cần cù và


khéo léo... nhưng vẫn như bị “những con diều hâu rỉa rói mãi không thấy no”. Vì lý do cơ bản là
chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức. Ở đây tác giả muốn nói cần biết phát huy sức
mạnh dân tộc để giải phóng khỏi ách thực dân và Việt Nam đủ điều kiện để xây dựng đất nước
phồn vinh(144-145).
Đề cập đến đất nước và con người Đông Dương, Người chú ý đến các cuộc đấu tranh của
nhân dân. Các cuộc biểu tình đổ máu ở Căm-pu-chia, bạo động ở Sài Gòn; các nhân vật tiêu
biểu: Đội Văn, Tống Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trần Quý Cáp(59-60); các
vụ nổi dậy ở Hải Dương, chống thuế ở Trung Kỳ,(29) bãi công của thủy thủ Hải Phòng phản đối
việc đưa lính sang đàn áp nhân dân Xy-ri đều được tác giả nhắc đến với ý thức trân trọng và lên
án kẻ thù gay gắt. Đặc biệt cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở chợ Lớn được đánh giá cao và
coi là “dấu hiệu của thời đại” cần ghi nhận.
Cuộc Cách Mạng tháng Mười Nga- năm 1917 đã cho ra đời một kiểu nhà nước mới, một hệ
tư tưởng mới, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản đối lập hoàn toàn với hệ tư tưởng của giai cấp tư
sản đã thống trị lúc bấy giờ. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc cũng đã đề
cập đến cuộc cách mạng tháng Mười và Người đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng đó đã chứng minh
tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Cách Mạng tháng Mười Nga đã hiểu được bản chất của CNTB
là: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một
cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu
của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”(129). Cuộc cách
mạng đó đã dùng phương pháp bạo lực cách mạng để dành chính quyền và phương pháp đó là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với các dân tộc, nhất là các dân tộc thuộc địa, trong đó có Đông
Dương.
Như vậy, Cách mạng Tháng Mười Nga được giới thiệu như một hình mẫu sáng ngời để các
dân tộc noi theo. Tác giả cho rằng cách mạng Nga “không dừng lại ở việc đọc những bài diễn
văn lý tưởng đẹp đẽ và thông qua những kiến nghị nhân đạo để ủng hộ các dân tộc bị áp bức, mà

cách mạng Nga dạy cho họ đấu tranh. Cách mạng Nga giúp đỡ họ về tinh thần và vật chất như
Lênin đã viết trong Đề cương của Người về vấn đề thuộc địa”(129). Nước Nga cách mạng tuy
gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn tuyên bố không hề một phút do dự giúp đỡ các dân tộc thuộc địa.
Trường Đại học Phương Đông còn là nơi sinh viên các dân tộc phương Đông thực hiện sinh hoạt
dân chủ kiểu mới và “ấp ủ dưới mái trường của mình tương lai của các dân tộc thuộc địa”.
Thông qua việc chỉ ra những thuận lợi cũng như khó khăn của các dân tộc thuộc địa cũng
như của Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kêu gọi sự đoàn kết đấu tranh của nhân dân
thuộc địa. Trứơc hết, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi thành lập các công Đoàn ở các nước thuộc đại.
Người viết(137): “Việc cần thiết hiện nay là phải phát động một cuộc tuyên truyền rộng lớn để
thành lập các tổ chức công đoàn ở các nước thuộc địa”. Người cũng kêu gọi các tổ chức công
đoàn ở các nước chính quốc và công đoàn ở thuộc địa đoàn kết lại. Trong tác phẩm, Nguyễn Ái
Quốc cũng đã kêu gọi sự đaòn kết của các dân tộc thuộc địa, Người viết(136): “Hỡi anh chị em
cùng khổ ở các thuộc địa! Hãy đaòn kết lại! Hãy đoàn kết lại!”. Không những thế, Nguyễn Ái
Quốc cũng đã kêu gọi nhân dân bị áp bức ở các nước chính quốc đứng lên đấu tranh: “Hỡi các
bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản "Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản
trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng
tôi. Ngày nay, vẫn dùng cái chính sách quỷ quyệt ấy giai cấp tư sản nước các bạn lại định dùng
chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn.”(139). Người cũng đã mượn lại lời


kêu gọi của Các-mác “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” để kêu gọi đoàn kết các giai cấp trên
toàn thế giới.
Như vậy, Bản án chế độ thực dân Pháp như là một bản hiệu triệu mọi tầng lớp, mọi giai cấp
bị áp bức tất cả mọi nơi trên thế giới cùng vùng dậy đấu tranh để giải phóng mình khỏi sự áp bức
bóc lột của chủ nghĩa thực dân.
Là một người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc luôn theo dõi tình hình trong nước.
Người biết nhân dân ta đang chịu biết bao nhiêu khổ cực dưới ách đô hộ của thực dân Pháp.
Người theo dõi các phong trào đấu tranh trong nước, đặc biệt Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến
tầng lớp thanh niên- những người có trách nhiệm lớn lao trong việc giải phóng dân tộc, chính vì
vậy mà cuối tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Người đã viết lời gửi cho Thanh niên, trong

đó đã bộc lộ những tình cảm của Người dành cho thanh niên. Người đã chỉ ra những hạn chế của
thanh niên Việt Nam, đặc biệt là tinh thần đấu tranh của họ, ý thức của họ trước cảnh nước mất
nhà tan…
Mở đầu cho lời” Gửi thanh niên Việt Nam”, Nguyễn Ái Quốc đã trích dẫn câu nói của một
viên toàn quyền Đông Dương rằng: “Khi nước Pháp đến Đông Dương, thì dân tộc Việt Nam đã
chín muồi làm nô lệ”.(141) Tại sao Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra câu đó đầu tiên khi gửi cho thanh
niên Việt Nam? Phải chăng dân tộc Việt Nam đúng như viên toàn quyền kia nói không?
Để minh chứng cho điều đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra hàng loạt biến cố phi thường làm
đảo lộng thế giới. Đó là Nhật Bản, Trung Hoa, là phong trào đấu tranh của người Ai-rơ-lan, Ai
Cập, Triều Tiên, Ấn Độ…(141). Trước những phong trào đó, nhìn vào Việt Nam , Nguyễn Ái
Quốc kết luận rằng: “riêng người Việt Nam , tì vẫn cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ”. Chưa hết, “sẵn
sàng làm nô lệ” vì ở Việt Nam , có những kẻ làm tay sai cho Pháp, sẵn sàng nịnh bợ, tâng bốc
những kẻ mà chúng cho là đã khai hóa Việt Nam . Đó là một anh chang Việt Nam sẵn sàng bỏ
85 quan để được “ngửi mùi bít tất thối”của bọn thực dân.Và hắn ta đã có những lời lẽ sau:(141)
“Tôi lấy làm tự hào được thay mặt cho toàn thể cử toạ nói lên tấm lòng tôn kính sâu sắc, niềm
vui mừng và lòng biết ơn của chúng tôi đối với các vị. Đối với con mắt khâm phục của chúng tôi,
các vị thật là những người tiêu biểu cho chính phủ của dân tộc Pháp vinh quang”. Hắn khâm
phục người Pháp trong khi chính dân tộc hắn đang bị chúng dày xéo, cướp bóc, đồng bào hắn
đang quăn quại dưới gót dày của chúng. Một ông tiến sỹ luật, tiến sỹ khoa chính trị và kinh tế
được Nguyễn Ái Quốc nhắc đến với những lời lẽ của hắn như sau: “nếu có thể phát biểu thay
toàn thể nhân dân Đông Dương, thì ông sẽ đau đớn nói lên lời cảm tạ thiết tha đối với quan toàn
quyền về tất cả những gì mà Ngài đã làm cho dân tộc An Nam”(142). Ông Cao Văn Sen, một
công dân Việt Nam cũng đã phát biểu như thế này khi tên toàn quyền Lông chết: “Thưa quan
toàn quyền, chúng tôi chân thành thương tiếc Ngài vì đối với tất cả chúng tôi, Ngài là một ông
chủ bao dung, khoan thứ như một người cha". Nguyễn Ái Quốc đã liệt kê những kẻ ninh bợ ấy ra
để cho thấy rằng Việt Nam chịu số kiếp nô lệ là xứng đáng.
Không dừng lại ở việc chỉ ra sự nhục nhã khi làm tay sai cho bon cướp nước, Nguyễn Ái
Quốc cũng đã cho thấy sự thua kém của thanh niên Việt Nam so với các nước khác mà đặc biệt
là thanh niên Trung Quốc. Người chỉ ra rằng thanh niên Trung Quốc đã vượt qua khó khăn, liên
kết với nhau để xây dựng đất nước. Từ đó, Người chỉ ra rằng, tại sao Đông Dương có mọi điều

kiện để phát triển như bất kỳ nước nào mà lại chịu kiếp nô lệ, lại an phận làm nô lệ. Nguyễn Ái
Quốc kết luận rằng: “chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức”, nhưng quan trọng hơn đó là
tấm lòng của người thanh niên với dân tộc, với cách mạng, với vận mệnh của đất nước, phải
chăng họ đang hững hờ, đang làm ngơ trước vận mệnh đó, vì thế mà họ “không làm gì cả”. Họ


đã làm gì trước vận mệnh dân tộc(145) “Thế thì thanh niên của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn,
buồn lắm: họ không làm gì cả. Những thanh niên không có phương tiện thì không dám rời quê
nhà; những người có phương tiện thì lại chìm ngập trong sự biếng nhác; còn những kẻ đã xuất
dương thì chỉ nghĩ đến việc thoả mãn tính tò mò của tuổi trẻ mà thôi!”.
Thật đáng hổ thẹn cho một dân tộc giàu truyền thống đấu tranh nay phải cam chịu số kiếp nô
lệ. Thanh niên Việt Nam xưa nay không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào nay đang cam
chịu số phận nô lệ. Những lời tâm huyết đó của một thanh niên yêu nước đang ở đất khách quê
người gửi cho những người bạn của mình, cho những thanh niên- là trụ cột của một quốc gia đã
có sức lay chuyển hết sức lớn. Và Bất cứ thanh niên yêu nước nào đọc những lời tâm nguyện ấy
nhất định sẽ không chịu ngồi yên.
Đó chính là ý nghĩa hết sức lớn lao của lời kết “gửi thanh niên Việt Nam ”. Người đặt hy
vọng vào tầng lớp này và kêu gọi họ hãy bỏ cái tôi cá nhân mà quan tâm đến dân tộc, quan tâm
đến nỗi khổ của đồng bào mình. Kêu gọi thanh niên hãy thức tỉnh, hay vùng lên, hãy hành động
để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân đánh đuổi bọn thực dân tàn bạo.
Tóm lại, với việc vạch trần tội ác của thực dân Pháp, bản án chế độ thực dân Pháp còn kêu
gọi nhân dân bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng chính mình, giải phóng dân tộc mình. Và
để làm được điều đó theo Nguyễn Ái Quốc thì chỉ có đi theo con đường bạo lực của cách mạng
tháng Mười Nga, mà trước hết là phải xây dựng tổ chức, xác định lực luợng lãnh đạo cuộc cách
mạng đó. Đây cũng là tư tưởng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin.
5.

Ý nghĩa tác phẩm:

5.1. Đối với Thế giới:

- Giữa những năm màn đêm còn bao phủ khắp các thuộc địa, bọn thực dân Pháp cùng bè lũ
cơ hội-mà đại biểu của nó là Quốc tế thứ 2-đang ra sức tuyên truyền những luận điệu thực dân
phản động, bênh vực chủ nghĩa đế quốc, thì “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã giáng vào đầu
bọn chúng một đòn tấn công ác liệt, luận tội bọn chúng, và đứng hẳn vào hàng ngũ những người
vô sản tiên tiến bênh vực cho quần chúng lao khổ và các dân tộc bị áp bức. Đó là một phương
thức cơ bản trong sách lược tấn công cảu cách mạng lúc ấy và tác phẩm trở thành tiếng nói tiêu
biểu cho cái thế tấn công của thời đại.
- Đi xa hơn, ở tầm nhìn cao hơn nữa, “Bản án chế độ thực dân Pháp” còn vạch rõ kẻ thù của
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức. Đó là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hình thù
của nó là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính
quốc, một vòi hút máu của giai cấp và sản và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa.Chính nó
là cội nguồn của mọi thảm họa, mọi khổ đau của nhân dân thuộc địa. Tác phẩm cũng đã vạch ra
mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa bọn thực dân, kẻ bóc lột với giai cấp vô sản và nhân
dân bị áp bức. Và với tầm nhìn xa trông rộng ấy, tác phẩm cũng chỉ rõ rằng chính quần chúng
nhân dân là lực lượng cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, và những người
vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
- Từ trong đêm tối cảu cuộc đời lầm than đau khổ, tác phẩm đã mở ra cho quần chúng thấy
cảnh tương lai tươi sáng. Tương lai đó là cảnh hiện thực trên đất nước Nga xô viết sau cách
mạng tháng Mười. Tác phẩm khẳng định cho quần chúng một lòng tin son sắt vào cái tương lai
ấy, và chỉ rõ rằng, tương lai ấy đang được chuẩn bị ở trường đại học Phương Đông, ngay trên
nước Nga xô viết. Trừơng này đang ấp ủ dưới mái của mình tất cả tương lai của các dân tộc
thuộc địa.


- Tác phẩm cũng đã vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cho quần chúng đấu tranh
quật ngã kẻ thù. Tác phẩm khẳng định, đã là người mất nước thì ai ai cũng bị sống kiếp
nô lệ, dù là người Việt Nam , An-giê-ri, Đô-ha-mây, Xy-ri, Tây Phi,… hay Xê-nê-gan. Tất cả
những người vô sản và nhân dân lao động kể cả ở nước Pháp, đều có chung một mối thù không
đội trời chung với chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Vì vậy, tất cả hãy thực hiện theo lời hiệu triệu của
Các-mác: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Hãy đi theo con đường của Cách mạng tháng

Mười, đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, giành độc lập tự do cho
tổ quốc, cơm áo danh dự cho con người.
- Tác phẩm cũng vạch rõ, bản chất của CNTB là con đĩa hai vòi hút máu. Muốn diệt trừ nó,
phải đồng thời chặt đứt cả hai vòi. Như vậy tác phẩm đã chỉ ra nhiệm vụ cách mạng vô sản ở
chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó
cũng như mối quan hệ giữa cách mạng vô sản Phuơng Tây và cách mạng giải phóng dân tộc ở
Phương Đông. Tác phẩm cũgn khẳng rõ định nhiệm vụ của giai cấp vô sảnn ở chính quốc là vừa
pahỉ giác ngộ, tổ chức quần chúng ở chính quốc làm cách mạng, đồng thời “không được quên
rằng bổn phận của mình” là phải đoàn kết chặt chẽ, ủng hộ gai cấp vô sản và nhân dân các thuộc
địa, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng hành động thực tiễn cách mạng, cùng nhau tiêu diệt kẻ
thù chung.
- Tác phẩm cũng khẳng định, sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam, cũng như ở mỗi
nước, phải là một bộ phận gắn liền với sự nghiệp cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân
tộc trên phạm vi toàn thế giới. Trên tình đoàn kết quốc tế vô sản, giữa những người, những dân
tộc cùng chung một chiến tuyến. Tác phẩm đã biểu dương sức mạnh của những đợt sóng đấu
tranh mang ý nghĩa thời đại đang dâng lên mạnh mẽ trên các thuộc địa như Xy-ri, Đô-ha-mây, …
ca ngợi cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam và coi đó là “dấu hiệu của thời đại”.
5.2. Đối với cách mạng Việt Nam:
- “Bản án chế độ thực dân Pháp” ra đời là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành
trong ý thức cách mạng cảu nhân dân Việt Nam . Nó đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của cách
mạng Việt Nam về một đường lối sáng suốt và đúng đắn, để thoát khỏi tình trạng mơ hồ về
phương hướng và mục tiêu cách mạng.
- “Bản án chế độ thực dân Pháp” là một đóng góp sáng tạo có ý nghĩa lịch sử lớn lao vào
việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam . Với tác phẩm này, ánh sáng của chân lý
cách mạng của thời đại đã soi rọi vào tâm trí nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức. Tác phẩm làm
bừng sáng lên trong nhận thức của nhân dân về con đường cách mạng duy nhất đúng đắn, con
đường chủ nghĩa Mác-Lênin., làm cho mọi người thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là cái mình
đang mong đợi, khát khao.
- Nhằm vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của thời đại, “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã
vạch rõ bạn thù, vạch rõ mục tiêu cách mạng, và bước đầu vạch ra chiến lược, sách lược của cách

mạng cho nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức. Đồng thời tác phẩm cũng đã gợi ra phương
hướng vận dụng những chân lý phổ biến vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
- Như vậy trên bình diện chính trị, “Bản án chế độ thực dân Pháp” là sự chuẩn bị về tư tưởng
nhân thức cho các dân tộc bị áp bức đi vào cuộc đấu tranh dành độc lập tự do, dành quyền thống
trị xã hội về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là một vấn đề có ý nghĩa chiến
lược quan trọng của cách mạng.


- Ra đời trong bối cảnh lịch sử cụ thể của thế giới và của đất nước vào những năm hai mươi
của thế kỷ XX, “Bản án chế độ thực dân Pháp” cso một giá trị lịch sử to lớn. Nó lý giải một cách
khoa học theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin những vẫn đề cơ bản mà lịch sử loài người đang
đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết. Nó đề cập những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh lịch sử của
thé giới, đến con đường phát triển tất yếu của lịch sử loài người trong thời đại ngày nay.
- Riêng ở Việt Nam, cùng với việc chuẩn bị một đội ngũ tiên phong lãnh đạo cách mạng để
giải đáp những đòi hỏi của lịch sử, “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã góp phần quan trọng thúc
đẩy lịch sử Việt Nam tiến tới, thức tỉnh và thôi thúc dân tộc ta cùng hòa nhịp với các dân tộc bị
áp bức trên thế giới bước nhanh vào kỷ nguyên mới cảu loài người: kỷ nguyên của độc lập, tự do
và chủ nghiã xã hội.
6. Giá trị tác phẩm:
“Bản án chế dộ thực đân Pháp” là một tác phẩm lý luận về chủ nghĩa thực dân và khởi thảo
đường lối giải phóng dân tộc. Có thể nói đây là tác phẩm trình bày những bộ phận chi tiết, phanh
phui cặn kẽ bộ mặt thật của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời phác hoạ con đường, những nhân tố
thiết yếu tạo sức mạnh của các dân tộc thuộc địa để thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù. Phương pháp
đặc biệt của tác phẩm là bằng những sự kiện, những câu chuyện có thật đảm bảo tính khách quan
để minh hoạ từng quan điểm lý luận của mình. Nói cách khác, đó là lý luận thể hiện bằng những
hình ảnh, đường nét sinh động hấp dẫn, giúp người đọc vững niềm tin để đi vào chiều sâu tư
tưởng của tác giả.
Quan trọng hơn nữa là có những quan điểm tư tưởng phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin
về cách mạng giải phóng dân tộc. Điều đó diễn ra vào thời điểm lý luận Mác-Lênin mới bắt đầu
đi vào các thuộc địa và cũng là thời điểm tác giả mới ở mấy năm đầu vừa tiếp thu, vừa nghiên

cứu học tập vừa vận dụng và truyền bá lý luận cách mạng. Dòng chảy lịch sử tư tưởng Hồ Chí
Minh được khơi nguồn từ đây
“Bản án chế độ thực đân Pháp” đã đi vào thực tiễn cuộc sống ở chính quốc và thuộc địa. Nó
đã góp phần quan trọng nhen lên ngọn lửa cách mạng vô sản ở Việt Nam . Đến nay, “Bản án chế
độ thực dân pháp” đã được toàn Đảng và toàn dân ta thực hiện thắng lợi vẻ vang, nhưng vẫn
đang thôi thúc hành động. Đó là sứ mệnh đưa dân tộc ta sánh vai với các cường quốc công
nghiệp và thương nghiệp thế giới, là xây dựng khối liên minh phương Đông, là cắt cả hai vòi của
con đỉa... Do vậy, “Bản án chế độ thực dân Pháp” vẫn còn sống mãi với sự nghiệp chúng ta.



×