Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Phong cách lãnh đạo độc đoán của tần thủy hoàng sau khi thống nhất trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.59 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ÐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ÐÀO TẠO SAU ÐẠI HỌC

Tiểu luận môn học
TÂM LÝ & NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO

Đề tài
PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO ĐỘC ĐOÁN
CỦA TẦN THUỶ HOÀNG SAU KHI THỐNG NHẤT TRUNG QUỐC

GVHD

: TS. Huỳnh Thanh Tú

Lớp

: QT Ngày 2 – K22

Nhóm thực hiện: Nhóm 1

TP HCM, năm 2014


MỤC LỤC


3

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong một tổ chức, người lãnh đạo bao giờ cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng,


một tổ chức không thể tồn tại nếu không có người lãnh đạo. Vậy như thế nào để trở thành
một nhà quản trị thành công? Có rất nhiều yếu tố tác động nhưng “phong cách lãnh đạo”
chính là nền tảng cho việc đạt được mục tiêu ấy. Đây là một mảng nội dung rất thú vị của
“tâm lý và nghệ thuật lãnh đạo” mà nhóm chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu để có cái nhìn tổng
quát hơn, sâu sắc hơn về chân dung của một nhà lãnh đạo.
Có rất nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng được cả Thế giới ghi nhận, và có lẽ trong đó nhiều
nhất là Trung Quốc, một quốc gia nổi tiếng với bề dày lịch sử hào hùng. Nhắc đến Trung
Quốc, chúng ta không thể không nhắc đến Tần Thuỷ Hoàng, người đã thống nhất sáu
nước để thống nhất Trung Quốc và đặt nền móng cho cơ chế trung ương tập quyền sau này.
Thế nhưng, Tần Thuỷ Hoàng lại là nhân vật đã gây bao tranh cãi cho người đời xưa và nay
khi một trường phái cho rằng ông là một bạo quân, một trường phái khác
cho rằng ông là một nhà lãnh đạo có tài. Vậy đâu mới là Tần Thuỷ Hoàng – một nhà lãnh
đạo, một vị hoàng đế nổi tiếng của lịch sử? Và chúng ta học được gì từ Tần Thuỷ Hoàng?
Và đó chính là lý do mà nhóm chúng tôi quyết định chọn nhân vật này để làm sáng tỏ
phần nào đề tài về phong cách lãnh đạo độc đoán - nhằm mang đến một giá trị nào đó cho tất
cả những ai đang trong quá trình phát triển mục tiêu lãnh đạo của mình nói chung và các bạn
đang nghiên cứu môn “tâm lý và nghệ thuật lãnh đạo” nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu
Cuộc đời của Tần Thuỷ Hoàng được chia làm nhiều giai đoạn:
- Thời thiếu niên lưu lạc
- Củng cố quyền lực
- Sau khi thống nhất Trung Quốc
Riêng nhóm chúng tôi quyết định chọn giai đoạn sau khi thống nhất Trung Quốc để đi
vào tìm hiểu những nét độc đáo trong phong cách lãnh đạo của ông.


4

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Các khái niệm

1.1.1 Lãnh đạo
Theo George R.Terry (được trích dẫn bởi TS.Huỳnh Thanh Tú, 2013), lãnh đạo
là một hoạt động mục đích gây ảnh hưởng đến con người để họ đóng góp một cách tự
nguyện cho những mục tiêu của nhóm.
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các nhân bằng việc
tạo ra mối ràng buộc giữa người với công việc nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ
chức trong điều kiện cụ thể nhất định.
Lãnh đạo là cách cư xử của một cá nhân khi chỉ đạo các hoạt động của nhóm để
đạt mục tiêu chung bằng khả năng lôi cuốn người khác theo mình, biết tạo ra một sự
thoả thuận chung của nhóm, biết thông tin cho nhân viên để họ biết làm gì để hoàn
thành công việc.
Thực tế, khái niệm lãnh đạo và nhà lãnh đạo là những khái niệm trừu tượng,
mang tính chủ quan. Tùy theo khía cạnh nghiên cứu mà các nhà nghiên có các định
nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, ta có thể hiểu đơn giản:
Lãnh đạo là một quá trình mang tính xã hội mà trong đó, lãnh đạo tìm cách để
cấp dưới tham gia một cách tự nguyện nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
Người lãnh đạo là người có khả năng tạo ra tầm nhìn cho một tổ chức hay một
nhóm người và biết cách sử dụng quyền lực của mình gây ảnh hưởng lên những người
đi theo thực hiện tầm nhìn đó.
1.1.2 Phong cách lãnh đạo
Phong cách lãnh đạo là những phương pháp hoặc cách thức nhà lãnh đạo thường
dùng để gây ảnh hưởng đến đối tượng bị lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi (tập hợp phương pháp hay
cách thức tác động) mà người đó thực hiện với nổ lực ảnh hưởng đến hoạt động của
những người khác theo nhận thức của đối tượng.
Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của người lãnh đạo.


5


Phong cách lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của nhà lãnh đạo được hình
thành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu tố tâm lý
chủ quan của nhà lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ thống quản lý.
Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện, được
biểu hiện bằng công thức: Phong cách lãnh đạo = Tính cách x Môi trường
1.1.3 Phong cách lãnh đạo độc đoán
1.1.3.1 Khái niệm
Kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán được đặc trưng bằng việc tập trung quyền lực
vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo - quản lý bằng ý chí của mình, trấn
áp ý chí và sáng chiến của mọi thành viên trong tập thể.
Phong cách lãnh đạo này xuất hiện khi các nhà lãnh đạo nói với các nhân viên
chính xác những gì họ muốn các nhân viên làm và làm ra sao mà không kèm bất kỳ
lời khuyên hay hướng dẫn nào cả.
1.1.3.2 Đặc điểm
- Kiểu lãnh đạo độc tài được đặc trưng bằng việc tập trung mọi quyền lực vào
tay một người lãnh đạo. Lãnh đạo bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của
mọi thành viên trong tập thể.
- Một người quản lý có phong cách làm việc độc đoán sẽ điều hành với tư tưởng
nhân viên phải làm những gì họ nói, hoàn thành công việc theo định hướng được các
ông chủ vạch ra và đã được xác định bởi mong muốn của việc sản xuất. Các nhà quản
lý độc tài thường gọi cho các nhà quản lý cấp dưới và đưa cho họ chỉ thị cũng như lời
khuyên với tư tưởng nhân viên sẽ tuân theo. Họ cảm thấy nhân viên cần sự chỉ đạo
nghiêm ngặt hơn, các biện pháp kiên quyết và quyết định mạnh mẽ hơn. Điều này tạo
nên các kỹ năng quản lý. Phong cách quản lý này cho phép nhân viên biết những gì họ
cần phải làm, họ sẽ làm như thế nào và lúc nào các nhiệm vụ phải hoàn thành.
- Các nhà lãnh đạo chuyên quyền cao độ, ít có lòng tin vào cấp dưới.
- Nhà lãnh đạo thúc đẩy nhân viên bằng đe dọa.
- Quá trình quản lý thông tin từ trên xuống và giới hạn ở việc ra quyết định ở cấp



6

cao nhất, không cho phép nhân viên trực tiếp tham gia vào quá trình ra quyết định.
- Nhân viên thường ít thích người lãnh đạo.
- Hiệu quả công việc cao chỉ khi có mặt người lãnh đạo, thấp khi không có người
lãnh đạo.
- Không khí trong tổ chức thường nặng nề, gây hấn, tạo áp lực, chủ yếu phụ
thuộc vào định hướng cá nhân của người quản lý.
* So sánh phong cách lãnh đạo độc đoán với phong cách lãnh đạo dân chủ và
phong cách lãnh đạo tự do:
Tiêu chí so Phong cách lãnh đạo độc Phong cách lãnh Phong
sánh
Quyền

đoán

đạo dân chủ

lực Tập trung vào tay người lãnh Lãnh

lãnh đạo

đạo

cách

lãnh

đạo tự do
giải Lãnh đạo giải quyết


đạo, người lãnh đạo quyết quyết công việc công việc cùng nhân
định mọi công việc

cùng nhân viên. viên. Trước khi ra
Trước

khi

ra quyết định một việc

quyết định một gì cũng đưa ra trước
việc gì cũng đưa tập thể lấy ý kiến của
ra trước tập thể mọi người.
lấy ý kiến của
mọi người.
Hiệu

quả Hiệu quả công việc cao khi có Đạt hiệu quả cao Hiệu quả công việc

công việc

người lãnh đạo ở đó, thấp khi dù có mặt hay không cao (vì người
không có mặt người lãnh đạo.

không có mặt của lãnh đạo vắng mặt
người lãnh đạo.

Không


thường xuyên).

khí Không khí làm việc ngột ngạt, Không khí làm Không khí làm việc

nơi làm việc

căng thẳng, tạo cảm giác mệt việc thoải mái, thoải mái, thân thiện,
mỏi cho nhân viên. Nhân viên thân thiện, tạo tạo hứng thú làm
ít thích người lãnh đạo.

hứng
việc

thú
cho

làm việc cho nhân viên.
nhân Nhân viên rất thích

viên. Nhân viên người lãnh đạo.


7

rất thích người
lãnh đạo.
Định hướng Định hướng mang tính cá Định
công việc

nhân người lãnh đạo.


nhóm,

hướng Định hướng nhóm,
định định hướng dịch vụ.

hướng dịch vụ.
Trường hợp Áp dụng đối với những tổ Áp dụng với tổ Áp dụng cho tổ chức
áp dụng

chức thiếu kỉ luật, rơi vào tình chức mà trình độ có đội ngũ nhân viên
trạng khó khăn, hoặc khi đội quản lý còn chưa dưới

quyền

giỏi

ngũ nhân viên thiếu kinh cao.

chuyên môn, nghiệp

nghiệm, trình độ chuyên môn

vụ, có tính sáng tạo

nghiệp vụ còn yếu kém.

cao.

1.1.3.3. Ưu, nhược điểm

* Ưu điểm:
- Tạo tính ổn định, trật tự cao trong tổ chức.
- Nhà lãnh đạo sẽ trở thành một huấn luyện viên tốt với đầy đủ năng lực và trình
độ cho các nhân viên mới.
- Nâng cao tính hiệu quả trong quản lý.
- Trong những tính huống bất ngờ, bất trắc, đòi hỏi phải đưa ra quyết định xử lý
ngay, hoặc những bất đồng trong trong tập thể hay những tình huống gây hoang mang,
thì việc sử dụng phong cách lãnh đạo này sẽ đem lại hiệu quả rất cao.
* Nhược điểm:
- Đôi khi hiệu quả công việc không cao.
- Gây tâm lý lo sợ trong nhân viên. Họ sợ chứ không phục người lãnh đạo cho
nên làm việc không hết tâm => hạn chế năng lực làm việc.
- Kìm hãm, thậm chí dập tắt tính năng động và sáng tạo của nhân viên.
- Tạo không khí căng thẳng ngột ngạt => ảnh hưởng đến kết quả công việc.


8

- Không tập trung được nhiều ý kiến, sáng kiến tốt . Các quyết định quản lý
mang tính chủ quan duy ý chí nên tính khả thi công việc không cao.
- Người lãnh đạo dễ nảy sinh tâm lý chuyên quyền, hách dịch, ảnh hưởng không
tốt đến tổ chức.
1.1.4 Các yếu tố cấu thành phong cách lãnh đạo độc đoán
1.1.4.1 Tính cách
a. Khái niệm
“Tính cách” hay “tính” là tính chất, đặc điểm về nội tâm của mỗicon người, mà
có ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Một người có
thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách.
Tính cách khác với tính tình, tính khí hay cá tính. Tính cách là yếu tố quan trọng
nhất của con người. Người ta thường đánh giá hành động, lời nói, và đôi khi là suy

nghĩ của một người để suy ra tính cách người đó, và cuối cùng là kết luận về bản chất
người đó.
Thường thì tính cách được chia làm hai loại: tính tốt và tính xấu. Tốt và xấu là
theo quan niệm của đa số người dân. Tuy nhiên đối với những tính cách mà số người
cho là xấu bằng số người cho là tốt hay không ai cho tốt xấu gì cả thì chúng ta nên
xem xét lại trong từng trường hợp cụ thể hoặc gắn cho nó quan niệm trung lập.
- Tính tốt
Người tốt thường có nhiều tính tốt và có đầy đủ các tính tốt chủ yếu. Tính tốt
giúp cho những người xung quanh ta cảm thấy dễ chịu, hài lòng, nhiều khi mến phục
và yêu quý ta. Những người có quá nhiều tính tốt thường dễ bị lợi dụng và đôi khi bị
cho là “ngu”. Sau đây là một vài tính tốt quan trọng trong thời đại ngày nay:
+ Luôn điềm tĩnh trong mọi tình huống.
+ Giản dị, nhiệt tình và gương mẫu.
+ Uy tín, trung thực, khiêm tốn.
+ Vị tha, khoan dung.


9

+ Kiên nhẫn, chịu khó.
+ Hòa đồng, cởi mở, vui vẻ, hoạt bát.
- Tính xấu
Tính xấu là tính trái ngược với tính tốt. Có bao nhiêu tính tốt thì có bấy nhiêu
tính xấu. Tính xấu thường gây ra những tai hại hay bực bội cho người khác nên bị
ghét và lên án. Cũng có vài tính xấu không gây ảnh hưởng đến ai, nên không hoàn
toàn bị chê trách. Mọi tính xấu trên đời này đều bắt nguồn từ sự ích kỉ. Sau đây là vài
tính xấu thịnh hành ngày nay:
+ Ích kỉ: đừng nhầm lẫn từ này với nghĩa keo kiệt, người ích kỉ chỉ muốn mọi
thứ đều diễn ra có lợi cho mình và không quan tâm xem người khác có lợi hay hại.
Tính xấu này là động cơ chủ yếu để phát triển những tính xấu khác. Ví dụ như những

người hay giận dỗi hoặc giận dai, họ chỉ nghĩ là những người xung quanh đáng ghét
và phải bị mình giận, trong khi không nghĩ rằng những người bị giận đang gặp phiền
toái vì hành động ngu xuẩn đó, trong trường hợp này người giận nên học tính vị tha.
+ Khoe khoang, ba hoa.
+ Vụ lợi, thích lợi dụng.
+ Gian trá, lừa lọc.
+ Nhẫn tâm, ác độc.
+ Vô duyên, lố bịch, nhảm nhí.
+ Đua đòi.
Học tính tốt bỏ tính xấu, hai thứ sẽ bổ sung cho nhau vào tâm hồn con người,
khiến nó thanh khiết, tươi đẹp và hoàn hảo hơn.
- Tính trung lập và tính vừa xấu vừa tốt
Tính vừa xấu vừa tốt, ví dụ như kiên định (hay bảo thủ), đôi lúc ta cần giữ vững
lập trường, đôi lúc cũng phải biết thay đổi nếu thấy mình chưa đúng. Thẳng thắn,
nhiều khi có những điều cần phải bộc trực mà nói, nhưng nhiều khi không thể thẳng
mặt mà nhận xét được. Hiền lành, trong những trường hợp bình thường thì đúng là
nên nhu mì, hiền dịu, nhưng khi gặp kẻ dữ dằn, ghê gớm thì nên cứng rắn lên để tránh


10

bị lợi dụng hay ăn hiếp. Cởi mở với mọi người nhưng kiên quyết trong công việc,
không a dua, nịnh nọt, “theo đuôi” người khác
Tính trung lập, ví dụ như trầm lặng, người mang tính này chả gây rắc rối gì, mà
cũng chẳng bị ai gây rắc rối cho, không xấu mà cũng không tốt.
b. Một số tính cách tiêu biểu của người lãnh dạo có phong cách độc đoán.


Quyết đoán
Trong nhiều trường hợp, quyết đoán rất quan trọng. Nó sẽ giúp chúng ta ứng phó


linh hoạt, vượt qua khó khăn và thay đổi kịp thời để chớp lấy thời cơ. Thiếu tự tin,
không quyết đoán thì cho dù có kiến thức, có tầm nhìn, có được thông tin chăng nữa
thì sự do dự cũng sẽ làm lỡ mất cơ hội.
Quyết đoán là sự cân bằng giữa rụt rè - thận trọng (thái độ phục tùng) và năng nổ
- hiếu thắng (thái độ gây hấn). Để tạo ra sự cân bằng này không có nghĩa là phải tỏ ra
gay gắt, liều lĩnh mà cũng không lo lắng, do dự, chờ đợi nơi người khác. Tính quyết
đoán, nói đơn giản là đạt tới những gì mình muốn, những điều mình xứng đáng có
được mà không vi phạm trắng trợn quyền lợi của người khác, là một cách để bạn có
thể đứng trên quan điểm của mình và không để bị chi phối bởi những người có thể lợi
dụng bạn. Đồng thời quyết đoán là tôn trọng cảm xúc và ý kiến người khác.
Quyết đoán không phải là làm bừa mà là dám nghĩ, dám làm. Một việc gì nếu
bạn dám hành động, hành động có suy nghĩ, chủ động và kiên quyết thì tại sao thành
công lại không thể đến. Những người quyết đoán thường là những người tự tin và biết
mình cần gì ở cuộc sống. Họ cũng theo đuổi những gì họ muốn với tất cả nhiệt huyết
và lòng quyết tâm. Họ thường là những người thành công trên hầu hết mọi phương
diện của cuộc sống, đặc biệt khi có cạnh tranh.
Ví dụ: Là ông chủ, đặt một đống công việc lên bàn nhân viên vào một buổi chiều
trước khi nhân viên đó chuẩn bị vào kỳ nghỉ, như thế là quyết đoán? Hoặc, nếu là
nhân viên, bạn sẽ nói với sếp rằng, công việc đó chỉ sẽ được thực hiện sau, vì bây giờ
là kỳ nghỉ!
Hãy xem xét ví dụ trên, ông chủ đã làm như vậy vì thấy công việc cần phải được
thực hiện. Tuy nhiên, đổ công việc cho nhân viên của mình tại thời điểm như vậy là


11

không phù hợp, ông đã thiếu cái nhìn tổng quan về nhu cầu và cảm giác của nhân viên
mình. Mặt khác, người nhân viên phản hồi với ông chủ của mình rằng, công việc chỉ
sẽ được thực hiện sau khi trở về từ kỳ nghỉ. Khẳng định quyền của mình, mặc dù thừa

nhận "ông chủ cần mình để hoàn thành công việc”, hành động như vậy là chứng minh
cho sự quả quyết?
Quả thực, không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định được hành vi quyết đoán
đúng. Bởi vì ranh giới giữa sự quyết đoán và khăng khăng cố chấp khá mong manh.
Ở một khía cạnh khác, mạnh mẽ, quyết đoán không có nghĩa là cứng đầu cứng
cổ, không thể linh hoạt khi hoàn cảnh thay đổi. Vì thế, những ông chủ độc đoán nên
linh hoạt hơn và các nhà quản lý dễ dãi nên cứng rắn hơn.
Nói một cách quyết đoán là một phần thuộc về phẩm chất lãnh đạo. Nhưng
không thể hiện sự quyết đoán một cách khăng khăng, cố chấp và cố gắng tránh làm
cho đồng nghiệp cũng như cấp dưới cảm thấy “phòng thủ”.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy: Người lãnh đạo thường mất điểm khi cần tới sự
quyết đoán, khi hoặc là quá cứng nhắc hoặc là quá dễ dãi. Những ông chủ kém quyết
đoán sẽ không thể bảo vệ quan điểm của mình, dẫn tới thiếu hiệu quả trong việc đạt
được mục tiêu đề ra. Nhưng quá cứng rắn cũng gây tổn hại tới sự thành công của một
nhà lãnh đạo, nếu không muốn nói là còn nặng nề hơn. Bởi những người bảo thủ cố
chấp thường ít ai chịu đựng nổi. Vì vậy, mặc dù họ có thể đạt được ý muốn của họ
nhưng làm tổn hại tới các mối quan hệ xung quanh.
Cả hai thái cực nhu nhược và cứng rắn thô bạo đều làm hỏng một nhà lãnh đạo
hiệu quả, các nhà quản lý không chỉ nên biết bảo vệ ý kiến của mình mà còn biết lắng
nghe phản hồi của nhân viên.
“Dù ai nói ngã nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”
Tóm lại, quyết đoán:
- Giúp chúng ta ứng phó linh hoạt, vượt qua khó khăn và thay đổi kịp thời để chớp lấy
thời cơ.


12

- Đạt tới những gì mình muốn, những điều mình xứng đáng có được mà không vi phạm

trắng trợn quyền lợi của người khác, là một cách để bạn có thể đứng trên quan điểm của
mình và không để bị chi phối bởi những người có thể lợi dụng bạn. Đồng thời quyết đoán
là tôn trọng cảm xúc và ý kiến người khác.
- Những người quyết đoán thường là những người tự tin và biết mình cần gì ở cuộc sống.
Họ cũng theo đuổi những gì họ muốn với tất cả nhiệt huyết và lòng quyết tâm.
Họ thường dám nghĩ dám làm.
- Mạnh mẽ, quyết đoán không có nghĩa là cứng đầu cứng cổ, không thể linh hoạt khi hoàn
cảnh thay đổi. Vì thế, những ông chủ độc đoán nên linh hoạt hơn và các nhà quản lý dễ
dãi nên cứng rắn hơn.
- Kém quyết đoán sẽ không thể bảo vệ quan điểm của mình, dẫn tới thiếu hiệu quả trong
việc đạt được mục tiêu đề ra.
- Cả hai thái cực nhu nhược và cứng rắn thô bạo đều làm hỏng một nhà lãnh đạo hiệu quả,
các nhà quản lý không chỉ nên biết bảo vệ ý kiến của mình mà còn biết lắng nghe phản
hồi của nhân viên.


Nham hiểm
Người tính cách nham hiểm thường có cử chỉ và sắc mặt thay đổi nhanh chóng

như một diễn viên. Ăn nói chậm chạp như muốn nuốt từng câu nói, vì họ đang cần lời
nói khéo léo, tìm cách ứng xử thích hợp với môi trường xung quanh.
Họ thuộc người gian manh, lừa đảo, có nhiều âm mưu, và lúc nào cũng giả nhân
giả nghĩa, thích nịnh hót mọi người.
Sự nham hiểm giúp họ có thể tìm được những cách xử tình huống bằng bất kì
thủ đoạn "cao tay" khiến nhiều người phải ngạc nhiên đến kinh sợ. Họ xem tất cả là
"quân cờ" trong tay, họ có thừa thủ đoạn để sai khiến. Từ đó, có thể thấy rằng, người
nham hiểm xảo quyệt về lâu dài nó sẽ tạo ấn tượng không tốt cho đối phương. Người
khác sẽ tốt nhất là tránh xa họ, và người lãnh đạo sẽ trở nên đơn độc trong tổ chức của
mình.
Trong lịch sử, Tào Tháo là đại diện tiêu biểu cho tính cách nham hiểm đến mức

được người đời nhận định là "gian hùng". Thủ đoạn dối lừa nhất thời của Tào, mang


13

tính “bá đạo” nhưng đem lại hiệu quả cao ví như chuyện mượn thủ cấp để mua lòng
quân. Trong một lần đánh chiếm thành trì, do không đủ lương thực nên ông đã sai
người cấp phát lương thực làm cái đấu đong gạo nhỏ lại để đong ít số gạo kéo dài thời
gian, sau đó ông đổ tội cho viên quan trông coi việc cấp phát là Vương Hậu rồi đổ tội
cho Hậu, chém đầu để trấn an lòng quân. Vì việc làm trên Tào Tháo đã trả công cho
sự hy sinh oan uổng của viên quan ngày đó bằng cách nhận phụng dưỡng suốt đời gia
đình của ông ta. Tương tự như câu chuyện hành quân dưới trời nóng khô khát, Tào
Tháo đã trỏ roi mà nói, “trước mặt có một rừng mơ!”, xảo trá này trong dùng binh đã
nuôi một hy vọng gần cho binh sĩ phấn chấn tinh thần.
Vì vậy, nham hiểm cũng có thể là một tính cách của người lãnh đạo độc đoán,
giúp họ đạt được điều mong muốn. Vì vậy, người nham hiểm dễ gây mất lòng tin cho
người khác.
Chân thành - sự khôn ngoan cao cấp
Người nham hiểm thì khó khắc phục được bản tính của họ vì "giang sơn dễ đổi,
bản tính khó dời". Với mỗi chúng ta, nên tránh trở thành người nham hiểm bằng việc
học cách chân thành trong mọi chuyện. Chân thành là sự không ngoan cấp cao.
[TS.Huỳnh Thanh Tú, 2013].
Người khôn ngoan thường làm đẹp lòng người khác và dễ đạt những thành công,
nên hầu hết mọi người đều mong mình trở thành người sớm khôn ngoan. Để nhanh
chóng có được điều ấy, một số bạn trẻ đã tìm cách làm đẹp lòng người khác bằng mọi
cách, kể cả sự dối trá và lối sống hai mặt...
Thế nhưng một bậc hiền triết lại cho rằng "Sự khôn ngoan cao cấp, đó là sự chân
thành". Đơn giản bởi lẽ, sự chân thành bao giờ cũng là điều được ưa chuộng nhất
trong cuộc sống. Người ta cho rằng một sự thật xấu xí còn hơn một điều dối trá tốt
đẹp. Người có lối sống chân thành bao giờ cũng tạo một sức hấp dẫn với người khác,

bởi bản chất con người là luôn hướng về sự thật, về chân lý.
Người chân thành luôn tạo ra sự tin cậy quanh họ, là chỗ dựa tinh thần ấm áp của
bạn bè, người thân. Sống bên họ ta cảm thấy yên ổn, thanh thản vì không phải dò xét,
dè dặt, hoài nghi, sợ bị trở mặt hay phải khám phá ra những sự thật phũ phàng, đen


14

tối.
Sự chân thành được thể hiện không chỉ trong lời nói mà nó phải được bắt rễ sâu
xa từ trong một tấm lòng thành, với tình cảm thực sự thì mới có sức thuyết phục.
Hành xử trong sự chân thành, sẽ cho bạn sự tự tin, sức lôi cuốn và sự vững
mạnh... Hãy thành thật với người khác và với chính mình. Muốn thế hãy đánh giá
đúng bản thân, đừng tự huyễn hoặc mình và cũng đừng huyễn hoặc người khác.
Nhưng tất cả sự chân thành phải được thể hiện trong sự tế nhị, đôn hậu và có văn
hóa, nếu không nó cũng dễ trở thành thô thiển khó chấp nhận. Hãy phân biệt sự khôn
ngoan thực sự với sự tinh khôn hoặc khôn ranh, đó là kẻ chỉ ''khôn" để cầu lợi.
Nếu được sống giữa một cộng đồng của những người chân thành thì đó là lúc cuộc
sống đang tiến dần đến một thiên đường nơi trần thế.
Tóm lại, nham hiểm:
- Thuộc người gian manh, lừa đảo, có nhiều âm mưu, và lúc nào cũng giả nhân giả nghĩa,
thích nịnh hót mọi người
- Sự nham hiểm giúp họ có thể tìm được những cách xử tình huống bằng bất kì thủ đoạn
"cao tay" khiến nhiều người phải ngạc nhiên đến kinh sợ. Đồng thời, về lâu dài nó sẽ tạo
ấn tượng không tốt cho đối phương, tức mất lòng tin của người khác.
- Tránh trở thành người nham hiểm bằng cách học cách ứng xử chân thành, chân thành là
sự khôn ngoan cao cấp.


Tham vọng

Tham vọng là những gì ta muốn, ta ao ước có được mặc dù nó quá xa với khả

năng của chính ta. Nhưng có ai nghĩ rằng một người có tham vọng sẽ dễ thành đạt hơn
là người chẳng có tham vọng không? Điều gì cũng có hai mặt của nó. Tham vọng sẽ
dẫn ta đến con đường thành đạt, nó là lý do là nguyên nhân làm ta phấn đấu, giúp ta
có ý chí và quyết tâm. Nếu ta thích một điều gì đó mà ta không thể có được nó nhưng
ta vẫn cố hết sức để có được nó đó chính là tham vọng. Muốn thành đạt cần có tham
vọng, muốn tham vọng cần có ý chí cầu tiến cần có quyết tâm và cả năng lực. Tham
vọng có thể dẫn ta đến một cuộc sống tốt đẹp hơn mà nó còn có thể cho ta được hạnh


15

phúc. Tham vọng sẽ làm cho ta thêm sức mạnh, ý chí và quyết tâm cao.
Bên cạnh đó, tham vọng cũng có thể lấy đi tất cả những gì ta đang có nếu ta
không biết dừng đúng lúc. Đừng bao giờ để từ "quá" đi trước từ "tham vọng" nó sẽ
làm cho ta chẳng còn gì. Thông thường, một người quá tham vọng thường là người sẽ
đi theo con đường bất thiện, sẵn sàng đánh đổi tất cả, sẵn sàng hy sinh tất cả thậm chí
là hy sinh cả gia đình, người thân... để phục vụ cho tham vọng của cá nhân đó. Điều
này đúng là không tốt.
Do đó, mỗi con người cần có tham vọng, và phải dùng con đường thập thiện để
từng bước hoàn thành ước mơ đó của mình, phải dùng tài trí, khả năng, trí tuệ, phẩm
hạnh, đạo đức của mình để biến ước mơ thành sự thật, chứ không nên là một người
đầy tham vọng, như vậy rất dễ đưa bản thân mình vào tà đạo, để lại những điều không
tốt cho chính bản thân mình. Điều này cũng đã thể hiện qua hai nhân vật Tôn Tẩn và
Bàng Quyên trong truyện Xuân Thu Chiến Quốc. Tương truyền rằng trong thời Xuân
Thu Chiến Quốc, có hai người nam tử hán tên Tôn Tẩn và Bàng Quyên cùng lên núi
học võ nghệ và phép để làm tướng ra trận chinh chiến. Khi gặp được thầy dạy võ
nghệ, thầy muốn thử tư cách của hai người cho nên mới hỏi rằng đi học võ nghệ để
làm gì. Bàng Quyên trả lời rằng học võ nghệ để trả thù rửa hận những người đã hà

hiếp mình, còn Tôn Tẩn thì trả lời rằng học võ nghệ để làm tướng giúp đỡ triều đình,
trừ bạo an lương, bảo vệ bờ cõi nước nhà.
Chỉ qua cách trả lời đã có thể đánh giá được phần nào tư cách của mỗi người. Vì
thế trong khi học, thầy mới ngồi trên cái ghế trong phòng và nói là ai có thể bắt ta tự
nguyện rời khỏi phòng này ta sẽ truyền võ nghệ. Bàng Quyên dùng mọi cách lừa gạt,
dối lừa nhưng vẫn không kết quả, cuối cùng Bàng Quyên dùng lửa đốt ghế thì thầy bắt
buộc phải chạy ra khỏi phòng. Đến phiên Tôn Tẩn thì khác, Tôn Tẩn nói rằng dạ thưa
thầy con không cách nào dụ thầy ra được nhưng nếu thầy ngồi bên ngoài thì con có
cách dụ thầy vào phòng, thế là ông thầy tự động xách ghế ra ngoài ngồi và Tôn Tẩn đã
thắng. Qua đó, Bàng Quyên là con người chỉ biết đạt mục đích bằng mọi thủ đoạn cho
dù là dùng lửa đốt thầy rất nguy hiểm, nhưng hắn ta vẫn làm. Quả nhiên sau này,
Bàng Quyên là một người nguy hiểm dám giết cả thầy và đồng môn để đạt được mục
tiêu của hắn ta. Vì thế chúng ta cần phải tránh để đừng rơi vào trong ma đạo hủy hoại


16

cả một đời.
Vì vậy, ta nên nhớ rằng, tham vọng sẽ dẫn ta đến thành công và cũng sẽ lấy đi tất
cả những gì ta có được nếu ta không biết cách dùng nó.
Ta phải biết cách dung hoà các mối quan hệ có như thế mới vừa thực hiện tham vọng
của mình, cũng như đắc được nhân tâm.

Tóm lại, tham vọng:
- Tham vọng là những gì ta muốn, ta ao ước có được mặc dù nó quá xa với khả năng của
chính ta .
- Tham vọng sẽ dẫn ta đến con đường thành đạt, nó là lý do là nguyên nhân làm ta phấn
đấu, giúp ta có ý chí và quyết tâm. Tham vọng sẽ làm cho ta thêm sức mạnh, ý chí và
quyết tâm cao...
- Đừng quá tham vọng vì nó sẽ làm cho ta chẳng còn gì. Người quá tham vọng thường là

người sẽ đi theo con đường bất thiện, sẵn sàng đánh đổi tất cả, sẵn sàng hy sinh tất cả
thậm chí là hy sinh cả gia đình, người thân... để phục vụ cho tham vọng của cá nhân đó.
- Học cách dung hoà các mối quan hệ.


Kiên định
Người kiên định là người có khả năng nhận biết được những gì mình muốn hoặc

không muốn và biết cách làm thế nào để đạt được điều đó một cách hiệu quả nhưng
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Kiên định (hay tự khẳng định) được phân biệt theo ba thái cực:
- Một là: Do thụ động, nhu nhược, người ta có thể biết mình muốn gì nhưng lại
quá nhút nhát và lười biếng để vươn lên.
- Hai là: Do quá hiếu thắng nên người ta kiên quyết giành giật những điều mình
muốn mà không đếm xỉa gì đến những người xung quanh hoặc hoàn cảnh cụ thể.
- Ba là: Trạng thái thể hiện sự cân bằng của hai thái cực trên.
Việc biết lắng nghe và ý thức được những điều người khác cảm nhận cũng như ý


17

thức được quyền của bản thân và quyền của người khác để điều chỉnh thái độ, hành vi
của mình là điều căn bản của kỹ năng kiên định.

Cần nhấn mạnh rằng sự kiên định có thể rèn luyện được. Việc nhận thức về
quyền của bản thân cũng như quyền của người khác phải được luyện tập. Quyền kiên
quyết cũng quan trọng như quyền không kiên quyết. Bạn có thường quá lạm dụng
quyền của mình hay chưa biết sử dụng đến nó trong cuộc sống hàng ngày? Những yếu
tố như văn hóa, giao tiếp, kinh nghiệm sống có ảnh hưởng lớn đến tính kiên định của
con người.

Tóm lại, kiên định:
- Khả năng nhận biết được những gì mình muốn hoặc không muốn và biết cách làm thế
nào để đạt được điều đó một cách hiệu quả nhưng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.

1.1.4.2 Môi trường
Bất kì người lãnh đạo nào thành công trong một tình huống thì không nhất thiết
thành công trong một hình huống khác. Tổ chức khác nhau thì gần như đòi hỏi phong
cách lãnh đạo khác nhau và các tổ chức có thể cần nhiều phong cách lãnh đạo khác
nhau trong lịch sử của nó. Vì vậy, nhà lãnh đạo thành công phải nhận thấy sự thay đổi
của môi trường và tình huống mà họ đang gặp phải.
a. Giai đoạn hình thành bắt đầu cũng như giai đoạn đổi mới

Giai đoạn bắt đầu hình thành, là giai đoạn tập thể chưa ổn định mọi thành viên
thường chỉ thực hiện công việc được giao theo nhiệm vụ, nhà lãnh đạo cần sử dụng


18

phong cách độc đoán.
Song, giai đoạn tổ chức cần phải tái lập tổ chức để tạo nên sự đổi mới, tiến tới sự
bền vững trong tương lai, nhà lãnh đạo cũng cần sử dụng phong cách độc đoán để
định hướng tổ chức phát triển theo định hướng mới.
b. Trong môi trường đòi hỏi kỉ luật cao

Quân đội, trong quá trình tập trung tập luyện thể lực,..
c. Trong tình huống bất trắc

Với một số tình huống đòi hỏi ta phải hành động khẩn trương và kịp thời, chẳng
hạn như hoả hoạn, hiểm hoạ chiến tranh, …
d. Độc đoán khi có bất đồng trong tập thể


Khi có sự bất đồng trong tập thể, trước sự thù địch, chia rẽ nội bộ, người lãnh
đạo cần phải áp dụng kiểu lãnh đạo độc đoán, sử dụng tối đa quyền lực của mình.
Ngoài ra, quan trọng nhà lãnh đạo cần nhận ra sự thay đổi của môi trường để biết áp
dụng kiểu lãnh độc đoán phù hợp.
Độc đoán đối với
- Những người ưa chống đối.
- Không có tính tự chủ.
- Thiếu nghị lực.
- Kém tính sáng tạo.
1.2 Phong cách lãnh đạo độc đoán của Tần Thuỷ Hoàng sau khi thống nhất
Trung Quốc
1.2.1 Các yếu tố hình thành tính cách của Tần Thuỷ Hoàng
1.2.1.1 Yếu tố môi trường trước khi thống nhất Trung Quốc
Yếu tố môi trường đến từ thực tiễn khách quan
từ trước khi thống nhất Trung Quốc:
- Từ nhỏ Tần Thuỷ Hoàng đã phải cùng mẹ làm con tin ở nước Triệu nên chịu


19

bao cảnh đàn áp từ nước Triệu. Ngay cả khi lên ngôi vua, ông vẫn phải chịu sự chi
phối từ Lã Bất Vi trong việc triều chính.
- Khi lên ngôi, ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi về
đạo Đế Vương, ngoài ra người luôn giúp sức ông trong triều chính hay thống nhất
thiên hạ là Lý Tư, Uý Liêu cũng đều là học trò Tuân Tử - nhà tư tưởng Pháp gia lớn
đương thời.
- Nước Tần là nước hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu, nên hội đủ mọi
điều kiện để thống nhất các nước.
1.2.1.2 Yếu tố cá nhân

Yếu tố cá nhân ở đây là bản tính cá nhân sẵn có, và dần thay đổi do thời gian tự
trao dồi, điều chỉnh. Tần Thuỷ Hoàng với tính khí nóng tính và linh hoạt nên:
- Ông biết khi nào mình cần nhu khi nào cần cương để tồn tại, luôn biết cách
nhẫn nhịn vì nghiệp lớn.
- Bên cạnh đó, ông là người ham học hỏi, đặc biệt những vấn đề liên quan đến
đạo Đế Vương, cải triều, đổi thời, cũng như cải thiện bản thân; cùng sự tự tin vào khả
năng bản thân. Đồng thời, ông muốn tạo nên bá nghiệp thiên thu vạn thế, chứ không
chỉ là làm vua nước Tần hùng mạnh đơn thuần.
- Tư tưởng Pháp gia do tiếp thu cùng tham vọng bá chủ của nước Tần đã thấm
vào huyết quản của bao đời vua Tần, ông sẵn sàng đánh đổi tính mạng của quần thần,
bách tính, quân sĩ miễn thực hiện được tham vọng bá chủ của mình.
Từ sự kết hợp yếu tố môi trường và yếu tố cá nhân đã hình thành tính cách của
Tần Thuỷ Hoàng từ trước giai đoạn thống nhất đất nước.
Yếu tố môi trường

Yếu tố cá nhân

Hình thành
tính cách

Từ nhỏ Tần Thuỷ Hoàng đã phải Ông luôn biết cách nhẫn nhịn vì Nham hiểm
cùng mẹ làm con tin ở nước Triệu nghiệp lớn, biết khi nào mình nhu
nên chịu bao cảnh đàn áp từ nước khi nào cần cương để tồn tại, để
Triệu. Ngay cả khi lên ngôi vua, ông thực hiện được mục đích của


20

vẫn phải chịu sự chi phối từ Lã Bất mình.
Vi trong việc triều chính.

Ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ tư Ông là người ham học hỏi đặc Quyết đoán
tưởng Pháp gia của Hàn Phi về đạo biệt những vấn đề liên quan đến
Đế Vương, ngoài ra người luôn giúp đạo Đế Vương, cải triều, đổi thời,
sức ông trong triều chính hay thống cũng như cải thiện bản thân hiện
nhất thiên hạ là Lý Tư, Uý Liêu cũng tại. Đồng thời, ông cũng tạo nên
đều là học trò Tuân Tử - nhà tư tưởng bá nghiệp thiên thu vạn thế, chứ
Pháp gia lớn đương thời.

không chỉ là làm vua nước Tần
hùng mạnh đơn thuần.

Nước Tần là nước hùng mạnh nhất Tư tưởng Pháp gia cùng tham Tham vọng
trong các nước chư hầu, nên hội đủ vọng bá chủ của nước Tần đã
mọi điều kiện để thống nhất các thấm vào huyết quản của bao đời
nước.

vua Tần, ông sẵn sàng đánh đổi
tính

mạng

của

quần thần,

bách tính, quân sĩ miễn thực hiện
được tham vọng bá chủ của mình.

1.2.2 Bối cảnh Trung Quốc sau khi thống nhất
Phong cách độc đoán của Tần Thuỷ sau khi thống nhất chịu tác động nhiều từ

môi trường: Đất nước sau khi thống nhất còn bất ổn cần phải thực hiện và củng cố chế
độ phân kiến tập quyền.

Từ đó, để làm rõ phong cách lãnh đạo độc đoán của Tần Thuỷ Hoàng, nhóm
chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng:
STT

Bối cảnh Trung Quốc sau khi thống nhất

Tính cách thể hiện

1

Đất nước sau khi thống nhất còn bất ổn cần phải thực Quyết đoán

2

hiện và củng cố chế độ phân kiến tập quyền

Nham hiểm


21

3

Tham vọng


22


Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA
TẦN THUỶ HOÀNG SAU KHI THỐNG NHẤT TRUNG QUỐC

2.1 Khái quát chung về Tần Thủy Hoàng
- Tần Thủy Hoàng (259 TCN – 210 TCN) tên là Doanh Chính là vua của nước
Tần ở Trung Quốc từ năm 246 TCN đến 221 TCN trong thời kỳ Chiến Quốc và trở
thành vị hoàng đế sáng lập ra nhà Tần, đồng thời là hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc
thống nhất vào năm 221 trước Công Nguyên sau khi tiêu diệt các nước chư hầu khác.
Ông cai trị cho đến khi qua đời vào năm 210 trước Công Nguyên ở tuổi 49.
- Tần Thủy Hoàng là con trai cả của Trang Tương Vương nước Tần, mẹ là Triệu
Cơ, vốn là một người thiếp của Lã Bất Vi - một thương nhân và sau trở thành Tướng
quốc nước Tần.
2.1.1 Thời niên thiếu lưu lạc
- Hai năm ngay trước khi Tần Thủy Hoàng ra đời (262 TCN - 260 TCN), nước
Tần và nước Triệu đánh nhau đẫm máu trong trận chiến Trường Bình, kết cục 450.000
quân Triệu đều bị thảm sát, Triệu đại bại. Triệu Cơ cùng Doanh Chính không kịp trốn
theo, phải ở lại Triệu.
- Năm 247 TCN, Trang Tương Vương mất sau ba năm trị vì, ngôi vua thuộc về
Doanh Chính, khi ấy mới 13 tuổi.
2.1.2 Củng cố quyền lực
- Năm 238 trước Công Nguyên, Doanh Chính đi du lịch đến Ung Thành. Lao Ái
chiếm con dấu của Thái hậu và huy động một đội quân trong một nỗ lực để bắt đầu
một cuộc đảo chính và nổi loạn. Vụ việc liên quan tới Lã Bất Vi, ông bị cách chức,
lưu đày rồi sang năm 235 TCN thì được cho một chén rượu độc để tự tử . Doanh
Chính sau đó nắm quyền đầy đủ như vua của nước Tần.
- Năm 230 TCN đến 221 TCN, Tần Thủy Hoàng hoàn thành việc thôn tín 6
nước.



23

2.1.3 Sau khi thống nhất Trung Quốc
2.1.3.1 Xưng hiệu
Sau khi đã thôn tính các chư hầu, Tần Vương Chính quyết định bỏ chữ Thái, lấy
chữ Hoàng, thêm chữ Đế, của những vị đế thời thượng cổ hiệu gọi là Hoàng Đế.
Đồng thời, mệnh ban ra gọi là chế, lệnh ban ra gọi là chiếu, thiên tử tự xưng gọi
là Trẫm. Ông truy tôn vua cha Tần Trang Tương Vương là Thái thượng hoàng.
Vì là hoàng đế Trung Quốc đầu tiên nên ông xưng hiệu Thủy Hoàng Đế. Thủy
Hoàng có nghĩa là “hoàng đế đầu tiên”, và ông muốn con cháu đời sau lấy danh hiệu:
Nhị thế, Tam thế... cho đến vạn thế.
2.1.3.2 Hành chính
Sau khi thống nhất Trung Quốc, trong một nỗ lực để tránh cục diện chư hầu cát
cứ như đời Chu, lập tức thực hiện một loạt cải cách quan trọng, hủy bỏ chế độ cũ
(phế bỏ phân phong cho các công thần), các quốc gia chinh phục được không được
phép được gọi là quốc gia độc lập. Ông chia cả nước thành 36 quận và sau đó là 40;
quận thú, huyện lệnh do triều đình bổ nhiệm, có thể điều động bất cứ lúc nào.
2.1.3.3 Tư tưởng
Tần Thủy Hoàng loại bỏ hàng hàng trăm tư tưởng bao gồm Nho giáo và các triết
lý khác. Sau khi Trung Quốc thống nhất, với tất cả các trường phái khác bị cấm, Pháp
gia đã trở thành hệ tư tưởng ủng hộ của triều đại nhà Tần. Pháp gia là một hệ thống
mà về cơ bản yêu cầu mọi người tuân theo pháp luật hoặc bị trừng phạt.
2.1.3.4 Nông nghiệp
Tần Thủy Hoàng theo Pháp gia nên khuyến khích binh, nông; ghét công, thương.
Muốn nắm hết mối lợi thương nghiệp, triều đình đày hết phú thương có những xưởng
sản xuất sắt lại miền Thiểm Tây và miền Tứ Xuyên. Hai trăm ngàn gia đình phú
thương, tiểu thương bị đày tại xứ Thục và miền An Dương (phía nam Lạc Dương
ngày nay), hẳn là để làm ruộng.
2.1.3.5. Kinh tế và văn tự
Ông cũng thống nhất Trung Quốc về kinh tế bằng cách tiêu chuẩn hóa các đơn vị

phép đo của Trung Quốc như trọng lượng và đơn vị đo, tiền tệ, chiều dài các trục bánh


24

xe để tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển trên hệ thống đường bộ và để dễ tính
thuế và thu thuế. Thuế trả bằng lúa, phải dùng thuyền, xe chở đến các quận và kinh
đô. Hoàng đế cũng phát triển một mạng lưới rộng lớn đường giao thông và kênh kết
nối các tỉnh để cải thiện thương mại giữa chúng. Các loại tiền tệ của các quốc gia khác
nhau cũng tiêu chuẩn hóa.
2.1.3.6 Xây dựng
- Bắc: Vạn Lý Trường Thành
Để ngăn chặn Hung Nô xâm lấn biên giới phía bắc, Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh
xây dựng một bức tường phòng thủ to lớn. Bức tường này có hàng trăm ngàn người
được huy động để xây dựng và là tiền thân của Vạn Lý Trường Thành hiện tại của
Trung Quốc. Nó kết nối với rất nhiều khúc thành được xây dựng trong suốt bốn thế kỷ
trước bởi các nước Yên, Triệu, Nguỵ nên là một mạng lưới các bức tường nhỏ liên kết
bảo vệ những vách đá khó vượt qua.
- Nam: Kênh Linh Cừ
Miền Nam Trung Quốc có một câu nói nổi tiếng "Ở miền Bắc có Trường Thành,
ở miền Nam có kênh Linh Cừ". Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng bắt đầu dự án xây
dựng một kênh đào lớn để vận chuyển quân nhu cho quân đội.
- Lăng mộ và di tích
Một trong những dự án đầu tiên mà Tần Thủy Hoàng thực hiện trong khi còn
sống là xây dựng lăng mộ cho mình. Năm 215 TCN, ông ra lệnh cho tướng Mông
Điềm dùng 300.000 người để bắt đầu việc xây dựng. Ngôi mộ rất nhiều châu báu, có
một bản đồ của một trăm con sông, trên đó sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và biển
Đông đều bằng thủy ngân. Hầm mộ ngày đêm đều thắp đèn đốt bằng dầu cá, một loại
cá đặc biệt giống hình người. Có khoảng 6.000 chiến binh đất nung và mục đích của
họ là để bảo vệ hoàng đế trong thế giới bên kia khỏi các linh hồn xấu xa. Cũng trong

đội quân này là xe ngựa và 40.000 vũ khí thực sự bằng đồng.
- Khác
Sau khi thống nhất đất nước, Tần Thủy Hoàng di chuyển ra khỏi cung điện Hàm
Dương và bắt đầu xây dựng cung A Phòng khổng lồ về phía nam của sông Vị, dựa


25

trên tên người thiếp yêu nhất của Tần Thủy Hoàng. Phải dùng 70 vạn tù nhân để cất,
chở đá từ các núi phương bắc xuống, chở gỗ từ các rừng phương nam lên.
Chưa hết, trong một khoảng mà bán kính dài trên trăm cây số chung quanh kinh
đô, còn xây thêm 270 cung điện nữa. Bao nhiêu châu báu, nhạc công và vũ nữ của lục
quốc, ông gom cả về đó để làm vui tai mắt cho ông. Tương truyền cuối đời Tần, kinh
đô bị chiếm và đốt, ba tháng sau ngọn lửa mới tắt.
2.1.3.7 Mở mang cương thổ
Mới hoàn thành sự thống nhất Trung Quốc, chưa kịp củng cố ở trong, Thủy
Hoàng đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi ra nước ngoài.
Phía Bắc thì sai Mông Điềm làm chánh tướng cầm quân, cùng với con Vương
Bí, cháu Vương Tiễn là Vương Ly làm phó tướng, đưa quân đánh dẹp và trấn thủ biên
giới phía Bắc.
Phía Nam thì sai Đồ Thư đi đánh lấy Bách Việt.
Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà đưa những người thường trốn
tránh, người ở rể và người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm,
Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ.
Năm 213 TCN, Tần Thủy Hoàng lại đem đày những quan coi ngục không thanh
liêm đi xây Trường Thành và đi thú ở đất Nam Việt.
Chỉ trong mười mấy năm Tần Thủy Hoàng thực hiện được bấy nhiêu công trình
về nội trị, tổ chức hành chính, thống nhất ngôn ngữ, văn tự v.v..., xây cất, đắp đường,
mở mang cương vực, được nhiều sử gia coi là vĩ đại.
2.1.4 Cái chết

Ngày 10 tháng 9 năm 210 TCN, ông băng hà khi đang trên đường đi kinh lý.
Tổng cộng, ông ở ngôi được 35 năm, trong đó 24 năm là làm vua nước Tần từ năm
246 TCN đến năm 222 TCN, và 11 năm làm hoàng đế của đế chế Tần từ năm 221
TCN đến năm 210 TCN.


×