Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
A. Đặt vấn đề
Với chính sách “hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới”, ở nước ta các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài ngày càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp cả về bề rộng lẫn
chiều sâu. Việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài ngày càng trở
nên gia tăng và đặt ra những vấn đề đáng quan tâm về quyền lợi của họ khi kết
hôn với người nước ngoài.
B. Giải quyết vấn đề
I. Khái quát chung
1. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Ở nước ta, trong hơn một thập kỉ qua, đặc biệt là trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, các quan hệ hôn nhân và gia đình (HN & GĐ) có yếu tố nước
ngoài ngày càng phát triển và không còn là hiện tượng hiếm hoi trong đời sống
xã hội. Vì vậy, việc điều chỉnh các quan hệ HN & GĐ có yếu tố nước ngoài đã
trở thành một yêu cầu cấp bách nhằm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc
tế, đồng thời bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân các nước liên
quan. Các văn bản pháp luật góp phần quan trọng tring việc điều chỉnh quan hệ
HN & GĐ có yếu tố nước ngoài. Sự ra đời của Luật HN & GĐ năm 2000 đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến
quan hệ HN & GĐ có yếu tố nước ngoài. Luật đã dành hẳn một chương (chương
IX) để điều chỉnh quan hệ HN & GĐ có yếu tố nước ngoài. Khoản 14 Điều 8
Luật HN & GĐ năm 2000 quy định: “Quan hệ HN & GĐ có yếu tố nước ngoài
là quan hệ HN & GĐ:
a, Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.
b, Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
1
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
c, Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó
ở nước ngoài”.
Như vậy, theo các quy định trên, quan hệ HN & GĐ có yếu tố nước ngoài có
thể được hiểu là các quan hệ HN & GĐ sau:
Thứ nhất: Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài.
Thứ hai: Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài (điểm c, Khoản 4 Điều 18 Luật
HN & GĐ năm 2000).
Thứ ba: Quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau mà tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài.
2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Hôn nhân là
sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ, sự liên kết đó phải
được Nhà nước thừa nhận thuộc sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý đó là đăng
kí kết hôn. Như vậy, đăng kí kết hôn làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở
để hình thành gia đình. Cùng với sự tăng cường và mở rộng các quan hệ hợp tác
giữa Việt Nam với các nước, số lượng các nước kết hôn có yếu tố nước ngoài
giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài ngày càng tăng. Nhà nước ta đã
ban hành các văn bản pháp luật có các quy phạm xác định điều kiện kết hôn
cũng như nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài, theo quy định tại Điều 103
Luật HN & GĐ năm 2000: “…Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện
kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật
này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại
Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy
2
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
định của Luật này về điều kiện kết hôn…”. Như vậy, công dân Việt Nam khi kết
hôn với người nước ngoài, dù việc kết hôn được tiến hành ở Việt Nam hay ở
nước ngoài cũng phải luôn tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn và
cấm kết hôn. Nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam thì người nước ngoài, ngoài việc phải tuân theo pháp luật ở
nước mà người nước ngoài là công dân thì còn phải tuân theo các quy định về
điều kiện kết hôn theo Luật HN & GĐ năm 2000. Cũng theo Điều 103 Luật HN
& GĐ 2000, việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam
trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật
HN & GĐ 2000 về điều kiện kết hôn.
3. Ý nghĩa của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Trong những năm gần đây, việc kết hôn với người nước ngoài có chiều
hướng gia tăng, đây là hệ quả tất yêu của quá trình giao lưu hợp tác quốc tế giữa
Việt Nam với các nước. Công dân Việt Nam khi tham gia quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài, bên cạnh việc được tiếp thu một nền văn hóa mới, được hiểu
biết hơn về con người, về ngôn ngữ, phong tục tập quán và lối sống của nước mà
họ làm vợ (chồng) thì họ còn có thể được sống trong một điều kiện kinh tế đầy
đủ, hiện đại. Thực tế trong những năm quan cho thấy, việc kết hôn với người
nước ngoài thường xảy ra với những trường hợp là những người không có việc
làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp và không ổn định nên hoàn cảnh kinh
tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, khi kết hôn với người nước ngoài họ mong muốn
có cuộc sống sung túc hơn, thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Và thực tế cũng chứng
minh rằng, có những người sau khi kết hôn đã gửi tiền về giúp gia đình giải
quyết khó khăn, cải thiện cuộc sống. Việc Nhà nước ta thừa nhận kết hôn có yếu
tố nước ngoài đã thể hiện chính sách ngoại giao nhất quán với các nước trong
khu vực và trên thế giới, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy quá
trình giao lưu kinh tế, văn hóa của Việt Nam bởi lẽ, khi kết hôn có yếu tố nước
3
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
ngoài gia tăng sẽ nảy sinh ngày càng nhiều các gia đình đã văn hóa, trong quá
trình chung sống với nhau, các thành viên trong gia đình sẽ tiếp thu những nền
văn hóa khác nhau thông qua việc học ngôn ngữ, phong tục tập quán của vợ
(chồng) mình, điều này tạo nên một quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa lẫn
nhau, góp phần tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của Việt Nam không chỉ trong
giai đoạn hiện nay mà trong tương lai, thế hệ con cháu của họ sẽ là cầu nối quan
trọng thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa, thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
Pháp luật Việt Nam luôn khuyến khích các trường hợp kết hôn có yếu tố
nước ngoài. Nhà nước có những chính sách phù hợp đảm bảo quyền lợi của các
bên khi tham gia quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Việc pháp luật Việt
Nam công nhận việc kết hôn có yếu tố nước ngoài đã khẳng định Việt Nam luôn
tôn trọng và bảo vệ những quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người trong
đó có quyền tự do kết hôn. Điều 39 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “ Nam nữ có
đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về HN & GĐ có quyền tự do
kết hôn. Việc tự do kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác
nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.
4. Điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật
Việt Nam.
Khi xem xét tính hợp pháp của việc kết hôn, pháp luật Việt Nam cũng như
pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều đề cập tới 2 tiêu chí pháp lý là
điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn. Đối với nhiều nước trên thế giới, hôn
nhân không thỏa mãn các quy định của pháp luật về 2 dấu hiệu pháp lý này sẽ bị
coi là hôn nhân vô hiệu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trường hợp này
được gọi là hôn nhân trái pháp luật. Mặc dù tên gọi khác nhau nhưng hậu quả
pháp lý của hôn nhân vô hiệu và hôn nhân trái pháp luật là giống nhau, đó là
4
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
pháp luật không công nhận sự tồn tại của hôn nhân khi không đáp ứng các nhu
cầu của pháp luật về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn.
II. Thực trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hiện nay
Mỗi năm, hàng nghìn phụ nữ từ Việt Nam nhận lời ra nước ngoài kết hôn
mang theo “giấc mơ ngoại”. Nhưng giấc mơ của họ lắm khi là ác mộng, để lại
những hậu quả đáng buồn và gây ra những vấn đề đáng lo ngại cho xã hội. Trong
các cuộc hôn nhân “mai mối xuyên biên giới”, thường thì hai bên gặp nhau vào
buổi sáng và làm đám cưới ngay buổi chiều. Tại một số vùng của Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc, tỉ lệ mất cân bằng giới tính khiến cho nam giới ngày
càng khó kiếm vợ. Đàn ông có xu hướng quay sang các nước láng giềng nghèo
hơn để tìm kiếm người bạn đời. Ở những nước này, với nền kinh tế phát triển,
mọi người có xu hướng trì hoãn hôn nhân, đặc biệt là phụ nữ. Do vậy, nam giới
ngày càng khó tìm được vợ, đặc biệt nếu họ rơi vào một số tình trạng bất lợi như
là nông dân hoặc công nhân tay nghề thấp, ở độ tuổi quá cao để kết hôn hoặc
trong nhóm trình độ học vấn thấp. Tỉ lệ đàn ông cưới vợ Việt Nam ngày càng gia
tăng tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Ở Hàn Quốc, nơi việc tìm vợ ở nước ngoài khá
phổ biến, hơn 1/3 số dân chài và nông dân kết hôn trong vòng một năm tính đến
tháng 5/2009 đã cưới các cô dâu từ Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tượng “nhập vợ”
ở đàn ông Trung Quốc là rõ rệt nhất. Trước đây, Trung Quốc là nước “xuất
khẩu” cô dâu. Giờ đây, đàn ông từ các vùng có tỉ lệ nam giới vượt trội hơn nữ
giới bắt đầu tìm kiếm vợ ở nước ngoài, đặc biệt là ở Việt Nam. Có cầu ắt có
cung. Mỗi năm, hàng nghìn phụ nữ từ Việt Nam đã nhận lời kết hôn với “chồng
ngoại”. Đa số họ là những phụ nữ trẻ chịu nhiều thiệt thòi mong muốn tìm kiếm
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cũng có nhiều người tìm được bến đỗ, nhưng số phụ
nữ than phiền họ bị cô lập và trầm cảm trong hoàn cảnh mới có xu hướng ngày
càng tăng. Thậm chí, đã xảy ra một số trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng ở
nước ngoài có ý định tự tử hay giết người. Đôi vợ chồng Kim Choong-Hwan
5
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
(người Hàn Quốc) và Ngo Ngoc Quy Hong (người Việt Nam) kết hôn năm 2007
là một cuộc hôn nhân có hậu. Thảm cảnh của nhiều cô dâu Việt Nam lấy chồng
Hàn đã được báo chí liên tục nói đến. Ngoài vụ cô gái vừa bị chồng đâm chết,
vào năm 2007 đã có trường hợp một cô dâu trẻ người Việt bị chồng Hàn đánh
một cách dã man cho đến chết, hay là vụ một người khác bị người chồng vũ phu
đánh phải bỏ chạy và rơi từ một tòa nhà cao tầng xuống đất thiệt mạng. Theo
giới hoạt động bảo vệ các cô dâu ngoại quốc tại Hàn Quốc, đây dường như là kết
cục được báo trước khi một số cô dâu Việt Nam đã bị quảng cáo bịp bợm đánh
lừa và rốt cuộc đã phải chung sống với những người chồng nghèo, hay là bị tật
bệnh, nghiện rượu hoặc vũ phu. Mặt trái của thực trạng “nhập vợ” chưa dừng lại
ở đó. Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) tại Đông Nam Á cho rằng nỗ lực để điều
chỉnh tỉ lệ mất cân bằng giới tính theo phương thức này rất nguy hiểm. IOM phát
hiện những dòng chảy lớn phụ nữ trẻ Việt Nam ra nước ngoài kết hôn sẽ tạo ra
tình trạng tương tự như Trung Quốc hiện nay. Việt Nam sẽ thiếu phụ nữ ở độ
tuổi kết hôn. Tình trạng đó sẽ dẫn tới hiện tượng buôn bán phụ nữ. Một số người
tìm kiếm và buôn bán phụ nữ từ những vùng khác tới để bù lấp số phụ nữ trong
độ tuổi kết hôn thiếu hụt. Vấn đề đáng lo ngại không chỉ là việc tỉ lệ mất cân
bằng giới tính trầm trọng, mà nó có thể phá vỡ cơ cấu xã hội. Năm 2009, trước
những lời phàn nàn cho rằng nhiều cô dâu Việt Nam nhập cư tới Đài Loan bị đối
xử tệ bạc, chính quyền Đài Loan đã ban hành lệnh cấm các dịch vụ mai mối hôn
nhân thương mại quốc tế. 18 tháng trước, Campuchia thành lập Hiệp hội Bảo vệ
Người dân và đưa ra các quy định về vấn đề kết hôn với người nước ngoài. Tại
Philippines, từ hơn 10 năm qua, nước này đã ban hành lệnh cấm các tổ chức
thương mại môi giới kết hôn quốc tế hoạt động và tất cả các cặp vợ chồng đều
được phỏng vấn để đảm bảo rằng họ kết hôn hợp pháp. Cùng với nhiều nước ở
châu Á, Indonesia đang điều chỉnh lại luật hôn nhân và Hàn Quốc hiện cũng
đang tìm cách xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật trong vấn đề này. Tuy nhiên,
6
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
với tỉ lệ mất cân bằng giới tính ngày càng gia tăng ở một số khu vực châu Á và
việc ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam mong muốn thoát khỏi cuộc sống khó
khăn, vấn đề phụ nữ Việt Nam di cư kết hôn với người nước ngoài đang ngày
càng trở nên phức tạp hơn.
Một số phụ nữ Việt Nam nghĩ đơn giản rằng lấy chồng “ngoại”, cuộc sống sẽ
toàn màu hồng, giàu sang, nhàn hạ, thậm chí có tiền gửi về giúp đỡ gia đình.
Trên thực tế, họ đang phải đối mặt với bi kịch từ chính hôn nhân xuyên biên
giới. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, trong ba năm gần đây, đã có gần
32.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài, phần lớn là người Đài Loan và
Hàn Quốc. Câu chuyện của người phụ nữ 27 tuổi ở xã Đại Hợp (Kiến Thụy, Hải
Phòng) luôn bị đứt quãng bởi những giọt nước mắt lăn dài. Mất gần 2.000 USD
cho trung tâm môi giới để kết hôn với người đàn ông Đài Loan 47 tuổi, chị
N.T.H. từng mơ về một mái ấm gia đình giàu có, hạnh phúc với những đứa con.
Nhưng sang đến Đài Loan, người chồng kiên quyết không chấp nhận có thêm
con vì anh ta đã có hai con với người vợ trước. Ngay cả khi chị H. trót mang thai
đến tháng thứ 3, chồng vẫn bắt phá bỏ. Anh ta còn huỵch toẹt cho chị biết rằng
tại trung tâm môi giới, hai người đã ký cam kết không sinh con. Lúc này chị H.
mới biết mình bị trung tâm môi giới lừa. Vì bất đồng ngôn ngữ nên họ đã dịch
sai ý của chị, từ mong muốn phải có con trở thành chấp nhận không có con.
Sau bốn năm vò võ làm việc cực nhọc bên Đài Loan, chị H. quyết định ly dị, trở
về Việt Nam với hai bàn tay trắng. Một phụ nữ khác ở Cần Thơ kể rằng, cô cũng
lấy chồng nước ngoài qua trung tâm môi giới. Gặp mặt ở Việt Nam, người đàn
ông Đài Loan cho biết, vợ anh đã chết và để lại ba đứa con. Anh muốn tìm người
cùng chăm lo cuộc sống và con cái. Cô vui mừng đồng ý làm vợ người đàn ông
đó. Nhưng sang đến Đài Loan, cô bàng hoàng gần như muốn ngất xỉu khi chứng
kiến hai trong số ba đứa con của chồng bị tàn tật nặng, chỉ có thể nằm bất động
7
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
trên giường. Cô trở thành “ôsin” ngay ngày đầu bước chân về nhà chồng trên đất
khách quê người với công việc cực nhọc, quần quật từ sáng đến tối và sau hai
năm, cô quyết định bỏ trốn về Việt Nam. PGS.TS Lê Thị Quý, Giám đốc Trung
tâm nghiên cứu Giới và Phát triển (Trường Đại học KHXH & NV), cho biết,
những vấn đề mà phụ nữ di cư kết hôn phải đối mặt là hết sức nghiêm trọng và
phức tạp do có sự khác biệt về văn hóa, luật pháp, phong tục tập quán, ăn uống,
ngôn ngữ và lối sống. Nhiều phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc do phải nộp
một món tiền lớn cho môi giới nên cố gắng lấy lại tiền từ chồng để gửi về quê
cho cha mẹ trả nợ. Trong khi người chồng lại đánh giá vợ kết hôn chỉ vì tiền nên
sinh ra bất mãn. Những năm gần đây, số phụ nữ lấy chồng nước ngoài thông qua
dịch vụ môi giới hôn nhân tăng mạnh. Tuy nhiên, nhiều trung tâm môi giới làm
việc thiếu trách nhiệm, thậm chí có một số tổ chức buôn bán phụ nữ trá hình.
Thủ đoạn của họ là lừa gạt phụ nữ bằng hình ảnh những người chồng ngoại quốc
khỏe mạnh, đẹp trai, giàu có cùng với viễn cảnh một cuộc sống no đủ, hạnh
phúc. Một số cô gái may mắn gặp được người có nhu cầu lấy vợ thực sự. Nhưng
không ít phụ nữ đã bị lừa gạt, buộc phải lấy người chồng tàn tật, mắc bệnh thần
kinh… Họ trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình, thậm chí có người bị chồng
giết chết. Bà Lê Thị Hoàng Thanh, Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp), nói:
“Pháp luật Việt Nam quy định khá đầy đủ về vấn đề hôn nhân có yếu tố nước
ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm bất cập như: không cấm kết hôn khi tuổi
tác quá chênh lệch; việc giúp đỡ các trường hợp bị bạo hành, ngược đãi còn hạn
chế do chưa có quy định bảo hộ cho phụ nữ Việt Nam sau khi kết hôn định cư tại
nước ngoài… Bên cạnh đó, công tác tư vấn, hỗ trợ cho chị em phụ nữ của các
trung tâm hỗ trợ kết hôn thuộc Hội liên hiệp Phụ nữ ở từng địa phương chưa
thực sự hiệu quả”.
8
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
Theo báo cáo của của tỉnh An Giang, có những trường hợp nữ công dân Việt
Nam kết hôn với công dân Đài Loan lớn hơn mình đến 50 tuổi, thậm chí có
trường hợp chênh nhau tới 60 tuổi. Báo cáo của Sở tư pháp tỉnh An Giang số
150/BC ngày 23/11/1999 về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị định 184 của Chính
phủ thì có nhiều trường hợp công dân nữ Việt Nam lấy người Đài Loan có thể
trạng dị tật, bại liệt chân tay. Về mặt pháp lý thì những trường hợp trên đây
không vi phạm các quy định về điều kiện sức khỏe, bởi vì những người dị tật hay
bại liệt chân tay nhưng không mất năng lực hành vi dân sự thì vẫn được phép kết
hôn. Tuy nhiên trường hợp phụ nữ Việt Nam trẻ, khỏe và xinh đẹp sẵn sàng kết
hôn với một người Đài Loan nhiều tuổi, dị tật hoặc bại liệt là hiện tượng không
bình thường. Đằng sau những trường hợp bất bình thường này rất có thể là
những toan tính, vụ lợi, không đúng với bản chất tốt đẹp của hôn nhân đó là tình
yêu.
- Theo số liệu khảo sát hiện đã có khoảng 90 ngàn cô dâu Việt tại Đài Loan chiếm 70% cô dâu nước ngoài tại đây. Trung bình cứ 80 gia đình Đài Loan
thì có 1 cô dâu Việt.
- Khoảng 15% số cô dâu Việt thất bại tại Đài Loan vì các nguyên nhân không
đạt mục đích kinh tế, bị bạo hành, không phù hợp cách sống.
- Từ năm 2005 tới nay, số cô gái đăng ký kết hôn với người Đài Loan đã giảm
chỉ bằng 1/4 so với những năm 2003, 2004. Nguyên nhân chính là do Đài
Loan đã có những quy định mới về đăng ký kết hôn với người nước ngoài.
(Theo kết quả nghiên cứu và khảo sát của TS Phan An)
Sự gia tăng nhanh chóng như vậy là do nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do Đảng và Nhà nước ta thực hiện
chính sách đối ngoại mở cửa, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế
9
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
giới.do chính sách nước ngoài, do quản lý Nhà nước còn nhiều bất cấp,…
Nguyên nhân chủ quan là do các nguyên nhân về kinh tế, do phụ nữ Việt Nam
có nhiều ưu điểm, do truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhiều vùng
miền có sự khác nhau, do ảnh hưởng của các phương tiện thông tin, truyền
thông và các nguyên nhân khác… Qua đây, Nhà nước cần phải có các giải
pháp hợp lý để hạn chế tình trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài gia tăng nhanh chóng, đồng thời bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của
phụ nữ Việt Nam khi lấy chồng nước ngoài.
III.
Giải pháp đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài
10
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
• Trước hết, cần tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ và
nhân dân về Luật HN & GĐ 2000, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10/7/2002 và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 nhằm giúp cho
chị em phụ nữ nắm vững những quy định pháp luật, biết tự bảo vệ mình
trong hôn nhân, tránh những hành vi lợi dụng hôn nhân nhằm mục đích
trục lợi cho cá nhân hay tổ chức. Đồng thời, thông tin cảnh báo cho phụ nữ
và các bậc cha mẹ về những rủi ro có thể gặp phải khi chấp nhận kết hôn
với người nước ngoài, cuộc sống của người phụ nữ sau khi kết hôn tại
nước ngoài (bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghề nghiệp, việc
làm,…), cảnh báo về tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, tình trạng
phụ nữ bị lường gạt buôn bán thông qua con đường kết hôn nhằm giúp chị
em hiểu biết đầy đủ, khách quan và chính xác về vấn đề này
• Các cơ quan chức năng cần có hướng dẫn cụ thể về thủ tục thẩm định, xác
minh đối với hồ sơ đăng kí kết hôn, hướng dẫn rõ ràng những trường hợp
nào là nghi vấn, có “vấn đề” để đảm bảo đúng tiến độ về mặt thời gian, đặc
biệt là trong xu thế cải cách hành chính như giai đoạn hiện nay. Bởi vì trên
thực tế, mặc dù Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 68/2002/NĐ-CP về quan hệ HN & GĐ có yếu tố nước ngoài
đã tháo gỡ một số vấn đề về trình tự thủ tục trong việc đăng kí kết hôn, tuy
nhiên có nhiều điểm trong Nghị định này chưa rõ ràng.
• Thắt chặt điều kiện kết hôn hơn nữa như: quy định cấm về sự quá chênh lệch
tuổi kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài; về điều kiện kinh
tế của người nước ngoài; hai bên vợ chồng phải có chứng chỉ chung (hoặc
tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung,…). Nghị định 69/2006/NĐ-CP quy định
cụ thể những trường hợp từ chối kết hôn, trong đó có việc lừa dối, cưỡng ép
kết hôn nhưng trên thực tế, để xác định mục đích thực sự của cuộc hôn nhân
là rất khó, kể cả khi đã đưa vào quy định bắt buộc các bên đương sự phải
11
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
cùng biết một thứ tiếng… Do vậy, nhằm tránh những tiêu cực trong lĩnh vực
đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài, cần tăng cường kiểm tra thanh tra đối
với các hoạt động này và có biện pháp xử lý nếu phát hiện sai phạm. Ngoài
ra, liên quan đến thẩm quyền kí giấy chứng nhận kết hôn, nên sửa đổi quy
định theo hướng Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Giám đốc Sở
Tư pháp ký. Bới xuất phát từ thực tế, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quá nhiều
việc phải làm, trong nhiều trường hợp sẽ không kí đúng hạn.
• Trong quá trình phỏng vấn đăng kí kết hôn, Sở tư pháp các tỉnh cần xem xét
các trường hợp kết hôn có nghi vấn, không tiếp nhận những hồ sơ kết hôn
nộp qua người thứ ba. Trường hợp nghi vấn có khiếu nại, tố cáo kết hôn giả,
lợi dụng kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, hoặc xét thấy có vấn đề
cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng kí kết
hôn thì cần tiến hành xác minh làm rõ để góp phần loại trừ những trường
hợp kết hôn không đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ. Đối với trường
hợp kết hôn với người Đài Loan, Hàn Quốc,.. có độ tuổi chênh lệch cao, dị
tật, kết hôn nhiều lần, Sở Tư pháp cần vận động đương sự và gia đình rút hồ
sơ đăng kí kết hôn hoặc kéo dài thời gian để hai bên nam nữ tìm hiểu nhau
nhiều hơn. Đồng thời phối hợp với cơ quan công an tăng cường các biện
pháp để theo dõi, phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm hôn nhân gia
đình như: chung sống không đăng kí kết hôn, vi phạm chế độ một vợ một
chồng, …
• Tăng cường phòng chống môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái
pháp luật
• Hội phụ nữ các tỉnh nên xúc tiến thành lập nhiều các Trung tâm hỗ trợ kết
hôn với nội dung hoạt động là tư vấn giới thiệu hôn nhân, hỗ trợ thủ tục đăng
kí kết hôn, mở các lớp học vè ngoại ngữ, phong tục tập quán nước ngoài,…
Sở dĩ như vậy bởi vì trong thời gian qua, mặc dù Nghị định 68/2002/NĐ-CP
12
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
và Nghị định 69/2006/NĐ-CP được ban hành nhưng chưa có văn bản nào
hướng dẫn hoạt động cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn trong việc thực hiện
chức năng của mình. Về phía các cơ quan chức năng cũng cần quan tâm hơn
đến chất lượng hoạt độngc ủa các trung tâm này nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của các trung tâm.
• Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội trên cả
nước như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân,… Thực tế cho thấy,
vấn đề kết hôn với người nước ngoài đã có từ lâu, và thực sự rầm rộ trong
khoảng mươi năm trở lại đây. Tuy nhiên, từ phía cộng đồng, xã hội chưa thật
sự quan tâm và các đoàn thể dường như cũng bỏ qua, không thấy có vai trò
và trách nhiệm trong chuyện này. Ngay cả Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là
tổ chức chính trị xã hội của Phụ nữ mà cũng chưa thật quan tâm đến số phận
các thành viên của Hội kết hôn với người nước ngoài. Chính vì vậy, các tổ
chức, xã hội cần nâng cao ý thức trong việc bảo vệ các thành viên của mình
khi mà lợi ích của các thành viên đó bị xâm hại. Trong thời gian tới, các tổ
chức cần có những hành động cụ thể như thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, mạnh dạn lên án các hành vi vi phạm danh dự, nhân phẩm của
phụ nữ và trẻ em gái. Đồng thời, phối hợp các ngành chức năng can thiệp kịp
thời những trường hợp phụ nữ và trẻ em gái bị lường gạt. Hội Liên hiệp phụ
nữ các tỉnh nên phối hợp với Sở Lao động – Thương binh và xã hội tổ chức
các hoạt động dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ vốn cho đối tượng nữ thanh
niên chưa có việc làm, giúp chị em có việc làm tại chỗ, cải thiện đời sống,
hạn chế các trường hợp kết hôn do đời sống quá khó khăn. Không những
thế, để phát huy vai trò và năng lực của các tổ chức đoàn thể, nhất là hội phụ
nữ trong lĩnh vực HN & GĐ có yếu tố nước ngoài, rất cần thiết phải tổ chức
những khóa học bắt buộc cho chị em phụ nữ trước khi chờ xuất cảnh về luật
pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền của nước mà các cô sẽ đến
13
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
làm dâu. Bên cạnh đó, để có thể làm tốt vai trò làm vợ, làm dâu ở nước
ngoài, các cô cần phải biết ngôn ngữ của nước đó. Vì vậy trước khi kết hôn
cần phải học ngôn ngữ của quốc gia mà các cô có ý định lấy chồng. Đây là
tiền đề cho các cô có thể dần dần vượt qua được rào cản ngôn ngữ, dần dần
hội nhập vào cuộc sống gia đình ở nước ngoài. Chỉ có như vậy, chúng ta mới
góp phần làm giảm thiểu những rủi ro đối với các cô gái lấy chồng nước
ngoài và mới xây dựng được những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài có
được hạnh phúc gia đình.
• Giáo dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà rất quan trọng không
chỉ với việc hình thành nhân cách của con cái, mà còn trang bị cho con cái
sự hiểu biết, bản lĩnh sống, khả năng thích ứng trước những biến động, rủi ro
của cuộc đời. Với con gái, nếu người mẹ không quan tâm giáo dục con mình
về “công, dung, ngôn, hạnh” về “nữ công gia chánh” mà lại chỉ mong gả bán
con gái cho người ngoại quốc, thì nguy cơ với con gái họ thật khó lường.
C. Kết thúc vấn đề
Sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài đã
chứng tỏ mối quan hệ của Việt Nam với các nước ngày càng được củng cố trên
nhiều lĩnh vực, mặt khác, cũng khẳng định rằng, pháp luật Việt Nam luôn tôn
trọng và bảo vệ quyền cơ bản của con người, đó là quyền tự do kết hôn. Tuy
nhiên, mặt trái của những cuộc hôn nhân đó lại để lại những hậu quả mà xã hội
phải gánh chịu không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng đến
nhiều mặt về kinh tế, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Vì vậy, để
hạn chế những mặt tiêu cực của các cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài, cần
phải có những giải pháp cụ thể từ cả hai phía xã hội và pháp luật. Hi vọng trong
thời gian tới, sẽ hạn chế được phần nào những tiêu cực trong việc kết hôn có yếu
14
Đặng Ngọc Anh – Bài tập lớn cá nhân môn Luật Hôn nhân và gia đình – Lớp N03 – Nhóm 11
tố nước ngoài, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam
khi tham gia các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
15