Đề bài số 06: Nêu ví dụ về vụ án với những tình huống mà khi tiến hành điều tra, cơ
quan điều tra bắt buộc tiến hành các hoạt động điều tra sau ( cần lập luận về sự cần
thiết phải tiến hành từng hoạt động điều tra đó):
- Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại,
- Nhận dạng,
- Thực nghiệm điều tra (loại thực nghiệm điều tra 1, 2, 5).
10
MỤC LỤC
Trang
A.
TÌNH
HUỐNG:
3
………………………………………………………….
B.
PHÂN TÍCH TÌNH
4
HUỐNG……………………………………………
1. Nhận dạng………………………………………………………………..
7
9
2. Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại……………………………..
3. Thực nghiệm điều tra……………………………………………………
12
C.
10
KẾT
LUẬN……………………………………………………………..
D.
DANH
MỤC
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO……………………………………..13
A. TÌNH HUỐNG:
Ngày 26-10-2003, cháu A cư trú tại thôn Tiên Xá, xã Hạp Lĩnh, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh trên đường đi học qua ao nước sâu của thôn thì bất ngờ phát hiện một
vật gì đó trôi lập lờ trên mặt nước. Khi chạy đến gần, cháu bé phát hiện thấy một xác
chết trẻ em. Ngay sau đó, thông tin được chuyển đến cơ quan công an huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh. Nạn nhân được người dân vớt lên bờ. Cơ quan công an tiến hành cho
nhận dạng tử thi trên, trong số những người đến xem vụ án anh M (một người dân
sống gần đó) khẳng định đó chính là xác của cháu Nguyễn Hữu T – con của chị Q và
cũng là cháu ruột của anh M. Cơ quan điều tra đã gọi chị Q đến xác nhận. Khi nhìn
thấy đó đúng là xác con mình chị Q ôm xác con khóc thảm. Nhìn cảnh ấy, ai cũng xót
xa, đau đớn và nghĩ rằng do cháu trượt chân ngã xuống ao gần nhà. Nhưng khi quan
sát kỹ lưỡng những di biến và biểu hiện của Q trong những ngày diễn ra tang lễ, các
điều tra viên đã nghi ngờ và tìm hiểu được rằng Q từng có một đời chồng nhưng sau 6
chung sống tháng họ đã ly hôn. Năm 1996, Q về nhà cha mẹ đẻ sinh sống và sau
những lần quan hệ tình cảm với người đàn ông khác đã sinh ra cháu T. Bố mẹ Q đã
mua cho hai mẹ con Q một căn nhà gần nhà mình để tiện chăm sóc cho cháu T. Sau
đó, Q tiếp tục có quan hệ bất chính với ông K hơn cô cả chục tuổi, đã có vợ và ba con.
Q đã gửi con cho mẹ đẻ chăm sóc và về chung sống với ông K. Khi nghe ông K nói
rằng phải bán đất đi để cùng nhau làm kinh tế, chị ta đã đồng ý. Nhưng vừa bắt đầu các
thủ tục bán đất thì Q bị gia đình phản đối vì miếng đất đó thuộc sở hữu của cháu T.
Gần thời điểm cháu T tử vong, Q có nhiều mối bất hòa với gia đình nhà đẻ và đặc biệt
liên quan đến miếng đất thuộc quyền sở hữu của cháu T. Ngay sau đó, Q được triệu
tập để điều tra.
Tuy nhiên, ban đầu, chị ta một mực phủ nhận hành vi độc ác của mình khiến cho
lực lượng chức năng phải khám nghiệm tử thi để tiến hành điều tra lại. Qua công tác
khám nghiệm tử thi, các điều tra viên phát hiện bên trong nội tạng của cháu bé có độc
10
tố của thuốc ngủ. Trước đó, Q khẳng định rằng tối ngày 24-10-2003 cháu T nói rằng
đau đầu và chị ta đã cho cháu uống thuốc giảm đau. Sau quá trình điều tra của cơ quan
điều tra, chị Q đã phải cúi đầu thừa nhận: Khoảng 9h sáng 24-10-2003, Q đã ra quầy
thuốc tân dược của chị B mua một vỉ thuốc ngủ Rotundin (loại 10 viên) mang về nhà.
Đến khoảng 19h cùng ngày, Q ép con trai của mình uống tất cả những viên thuốc
trên. Đúng lúc đó, cháu C là con của chị gái Q (học cùng lớp với cháu T) sang nhà dì Q
chơi, C nhìn thấy Q đang nạt cháu T bắt cháu uống thuốc và bảo với cháu C: “T bị đau
đầu, dì cho nó uống thuốc rồi cho T đi ngủ, khi khác cháu sang chơi nhé!”. Một lúc sau
khi cháu C ra về, thấy con trai đã ngấm thuốc ngủ, Q đã vác cháu T hướng đi ra ngoài
vườn. Khi đến một bức tường, Q đã ném cháu bé qua bức tường đó, Ở phía dưới bức
tường là một ao nước sâu khiến cho cháu T chìm xuống ao. Sáng ngày 25-10-2003,
cháu C sang nhà Q rủ cháu T đi học, nhưng không thấy ai có nhà và cháu đi ra phía
vườn tìm T nhưng không thấy T mà chỉ thấy những dấu vết chân hướng đi từ nhà ra
vườn. Buổi tối hôm đó, chị ta sang nhà cháu C hỏi cháu có biết T đi đâu không mà đi
học vẫn chưa thấy về. Cháu C trả lời rằng: “hôm nay không thấy T đi học”. Q liền
chạy sang nhà cha mẹ đẻ bù lu bù loa là cháu T bị mất tích và thông báo cho chính
quyền địa phương tìm kiếm cháu trên loa, đài và thông tin đại chúng. Đến sáng 26-10,
có người nhìn thấy xác cháu T trong ao nước phía sau nhà Q.
Hình ảnh minh họa cho tình huống:
B. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG.
Trong tình huống trên đây không thể thiếu các hoạt động điều tra như lấy lời khai
người làm chứng, nhận dạng, thực nghiệm điều tra. Ta sẽ đi phân tích từng hoạt động
điều tra theo trình tự thực hiện các hoạt động điều tra để phù hợp với tình huống cụ
thể:
1. Nhận dạng.
1.1Khái
niệm nhận dạng: Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách
10
tổ chức cho một người quan sát, so sánh, nhận lại đối tượng hiện tại với một đối
tượng mà họ đã tri giác trước đây nhằm làm rõ sự thống nhất, sự tương đồng hay sự
khác biệt giữa đối tượng nhận dạng và đối tượng có liên quan đến vụ án.
+ Nhận dạng được hiểu dưới góc độ pháp lý là một biện pháp điều tra. Qua việc nhận
dạng nhằm thu thập được tài liệu chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội.
+ Dưới góc độ nhận thức: Nhận dạng là một quá trình tâm lý hoàn chỉnh. Cụ thể,
người nhận dạng phải trải qua quá trình tâm lí khác nhau: cảm giác, tri giác, tư duy,
phân tích, liên tưởng, nhớ lại. Từ đó, người nhận dạng mới có được hình ảnh của dối
tượng, mới có thể ghi nhớ và tái hiện hình ảnh, so sánh, phân tích, đối chiếu giữa hình
ảnh của đối tượng tri giác được trước đó với đối tượng thực tại (do cơ quan điều tra
đưa ra) và người nhận dạng sẽ đưa ra kết luận của mình.
+ Dưới góc độ chủ thể, mục đích, cách thức tiến hành nhận dạng:
o về chủ thể: Người tiến hành nhận dạng “do những người theo luật định tiến hành”.
Tức là điều tra viên, người được giao thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật vụ
án (căn cứ vào khoản 2 Điều 27, Khoản 1 Điều 114 Bộ luật Tố tụng Hình sự).
o Mục đích: nhận dạng nhằm xác định xem người nhận dạng có thể nhận ra hay
không nhận ra đối tượng mà họ tri giác được trước đây. Các kết luận này là cơ sở
quan trọng trong quá trình chứng minh sự thật vụ án (trường hợp này người nhận
dạng không khẳng định, không phủ nhận) mà chỉ đưa ra kết luận ở dạng nghi ngờ
thì không thể sử dụng kết quả đó như là chứng cứ pháp lý trong việc chứng minh
tội phạm mà chỉ coi đó là những tài liệu giúp chúng ta định hướng trong công tác
điều tra.
o Cách thức tiến hành: Điều tra viên bố trí cho người nhận dạng quan sát, so sánh với
những đặc điểm vết tích của đối tượng nhận dạng với hình ảnh của đối tượng mà
người nhận dạng với hình ảnh của tối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước
đây.
Cụ thể, trong tình huống trên, cơ quan điều tra cần tiến hành nhận dạng tử thi và
những bộ phận của tử thi. Đây là hình thức nhận dạng trực tiếp trong đó người nhận
dạng tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nhận dạng thực. Mục đích khi tổ chức nhận dạng
này là nhằm rõ tung tích, lai lịch của nạn nhân để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động điều tra vụ án. Thông qua hoạt động nhận dạng mà cơ quan điều tra có thể xác
định được xác chết cháu bé được vết lên từ ao nước đó là thi thể cháu T – con của Q,
từ đó cơ quan điều tra mới có hướng điều tra, tìm hiểu về mối quan hệ giữa mẹ con T
và phát hiện ra những biểu hiện bất thường trong cách xử sự của Q trong đám tang lễ
10 trai dẫn đến sự nghi ngờ của các điều tra viên…và còn mở ra hướng điều tra sau
con
đó. Trong vụ án này, việc nhận dạng được thực hiện dễ dàng hơn so với nhiều vụ án
khác vì xác cháu T được vứt ngay cạnh ao sau nhà vì vậy khi tiến hành nhận dạng có
rất nhiều người nhận ra cháu T vì thường ngày họ quen thuộc với những đặc điểm, vết
tích riêng của cháu T để nhận ra như: dựa vào chiều cao, cân nặng, tóc, khuôn mặt,
hay là quần áo, đồ vật là đồng hồ đeo tay…khiến cho những người làm chứng không
quá khó khăn nhận dạng được cháu T khi xác của cháu mới vứt xuống ao khoảng gần
2 ngày, xác vẫn chưa bị phận hủy hay sự tác động của những vật xung quanh chẳng
hạn như bị cá rỉa…Việc nhận dạng có thể tiến hành tại hiện trường vụ án. Khi đó cần
đặt xác của cháu T ở nơi khô ráo, sạch sẽ. Trước khi nhận dạng cần lau chùi sạch sẽ
các vết bùn đất bẩn trên người cháu sau khi đã khám nghiệm và thu thập các dấu vết
trên tử thi. Phải tổ chức giữ trật tự, bảo vệ chu đáo nơi nhận dạng.
Khi anh M nhận ra người chết chính là cháu T, điều tra viên phải nhanh chóng lấy
lời khai, yêu cầu anh M phải trình bày rõ căn cước, lý lịch, mối quan hệ giữa họ và
nạn nhân, những đặc điểm, vết tích mà căn cứ vào đó họ nhận ra nạn nhân, họ gặp nạn
nhân lần cuối là vào lúc nào. Theo lời khai báo của anh M thì anh là bác ruột của cháu
M, dựa vào những đặc điểm chiều cao, cân nặng, bộ quần áo mà anh trông thấy cháu
mặc lần cuối cùng trước khi chết đó là vào chiều ngày 24-10-2003…Sau đó, mọi
người báo lại tin cho Q đến để cho người nhà cháu T làm các thủ tục cần thiết để nhận
tử thi của cháu để được mai tang.
1.2.Sự cần thiết phải nhận dạng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự “Khi cần thiết” điều tra
viên có thể mời người hoặc “đưa vật, ảnh cho người làm chứng, người bị hại hoặc bị
can “nhận dạng”. Vậy ở trong trường hợp tình huống trên có cần thiết phải nhận dạng
hay không? Ở đây “cần thiết” được hiểu là sự đòi hỏi, yêu cầu của công tác điều tra
vụ án đặt ra . Vì phải tổ chức nhận dạng mới có thể giải quyết triệt để những vấn đề
cần chứng minh của vụ án.
+ Thứ nhất, áp dụng biện pháp nhận dạng sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn các biện
pháp điều tra khác. Khi muốn xác định thủ phạm có thể áp dụng biện pháp lấy lời khai
người làm chứng, lấy lời khai người bị hại, trưng cầu giám định…nhưng áp dụng biện
pháp nhận dạng sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn. Chẳng hạn trong trường hợp nhận
dạng tử thi ở vụ án, để xác định lý lịch nạn nhân có thể tiến hành trưng cầu giám định,
xác định lấy dấu vân tay của người chết, lấy mẫu AND của người chết để đem đi giám
định…sau đó thông qua những kết luận này cộng với những nhận định, phân tích của
các điều tra viên để có thể tìm ra lý lịch tên, tuổi, quê quán, người thân…Nhưng nếu
áp dụng các biện pháp trên trước hết là rất tốn kém về chi phí, mất rất nhiều thời gian
nhưng
lại rất khó khăn, phức tạp nếu chưa kể đến các trường hợp kết quả giám định
10
không chính xác…Ngược lại tiến hành nhận dạng tử thi sẽ đỡ tốn kém hơn, nhanh
chóng xác được danh tính nạn nhân hơn. Nhưng để nhận dạng được cũng cần những
điều kiện nhận dạng, không phải trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể nhận dạng
được tử thi.
+ Thứ hai, áp dụng biện pháp nhận dạng sẽ hỗ trợ cho các hoạt động điều tra khác.
Thông qua hoạt động nhận dạng có thể truy bắt được thủ phạm, khám xét thu vật
chứng…Cụ thể, trong tình huống thông qua hoạt động nhận dạng mới có thể biết được
lý lịch , từ đó có thể tìm hiểu đặc điểm nhân thân của cháu T và mẹ của cháu Q và
phát hiện những điều đáng nghi là chị Q có những biểu hiện bất thường, có khả năng
chính là thủ phạm sát hại cháu T…
+ Thứ ba, áp dụng biện pháp nhận dạng có thể mở các hoạt động điều tra khác (quyết
định bắt, khám xét đối tượng có cơ sở để khởi tố bị can và tiến hành các biện pháp
điều tra khác như: Hỏi cung bị can, đối chất, lấy lời khai người làm chứng, thực
nghiệm điều tra, trưng cầu giám định..Trong vụ án, nhờ áp dụng biện pháp nhận dạng
chính là cơ sở để tiến hành các hoạt động điều tra sau này như: hỏi cung bị can Q, lấy
lời khai của cháu C, chị B, thực nghiệm điều tra kiểm tra hành vi giết cháu T và hành
vi che giấu tội phạm của Q, trưng cầu giám định pháp y thi thể cháu T và phát hiện ra
độc tố thuốc ngủ trong người cháu.
+ Việc nhận dạng sẽ đảm bảo khách quan trong quá trình điều tra.Việc không tiến
hành nhận dạng có thể dẫn đên tình trạng nhận nhầm người hoặc như trong tình huống
nếu không có sự vào cuộc của cơ quan chức năng chắc chắn rằng mọi người sẽ chỉ
nghĩ rằng nguyên nhân dẫn đến cái chết của cháu T là do cháu trượt chân ngã xuống
nước và đặc biệt là sẽ che dấu những hành vi phạm tội của mình khiến cho không thể
xác định được nguyên nhân chính Q là người ra tay sát hại con mình…
Như đã phân tích ở trên, việc nhận dạng rất cần thiết nhưng chỉ có thể nhận dạng
khi thỏa mãn một số điều kiện về phía người nhận dạng, đối tượng nhận dạng, phía cơ
quan điều tra và điều tra viên. Trong vụ án trên, việc nhận dạng có thể tiến hành khi
thỏa mãn các điều kiện:
+ Về phía người nhận dạng: anh M khẳng định được họ nhớ các đặc điểm, vết tích
của đối tượng nhận dạng và có thể nhận lại được đối tượng là cháu T khi cơ quan điều
tra yêu cầu. Ngoài ra , anh M có đủ những điều kiện cần thiết của người nhận dạng
như có năng lực hành vi dân sự, có khả năng tri giác được đối tượng cần chi giác, có
khả năng nhận dạng…
+ Về đối tượng nhận dạng: đối tượng nhận dạng là cháu T vẫn còn giữ được những
đặc điểm, vết tích đặc trưng riêng biệt chưa bị phân hủy, biến dạng…
+ 10
Về phía cơ quan điều tra và điều tra viên phải có khả năng tổ chức được cuộc nhận
dạng (ví dụ: có đủ phương tiện cần thiết để phục vụ cuộc nhận dạng…)
Cả ba yếu tố trên đều có quan hệ mật thiết với nhau và quan trọng khi thiếu một trong
ba yếu tố trên thì không thể nhận diện. Trong vụ án trên, thì thỏa mãn cả ba yếu tố
trên, đó sẽ là cơ sở để nhận dạng tử thi và việc nhận dạng trở nên cần thiết trong quá
trình tiến hành hoạt động điều tra.
2. Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại.
Người bị hại trong tình huống trên là cháu T, do cháu đã chết nên vấn đề lấy lời
khai người bị hại không được đặt ra. Điều quan tâm là cơ quan điều tra tiến hành lấy
lời khai của người làm chứng.
Trước hết cần tìm hiểu về người làm chứng:
2.1 Khái niệm về người làm chứng:
Người làm chứng là người biết được những tình tiết của vụ án đang điều tra, được
cơ quan có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai về những hiểu biết đó của họ theo đúng
trình tự, thủ tục mà luật tố tụng hình sự quy định.
Theo định nghĩa trên thì người làm chứng có hai đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, người làm chứng phải là người biết được tình tiết vụ án đang điều tra (có thể
biết trực tiếp hoặc gián tiếp).
Thứ hai, người làm chứng phải là người được cơ quan có thẩm quyền lựa chọn và triệu
tập lấy lời khai theo trình tự, thủ tục luật định.
Trong tình huống, cơ quan điều tra sẽ phải triệu tập người làm chứng đó là chị B
( người bán thuốc cho Q) và cháu C.
-Theo cách phân loại người làm chứng căn cứ vào tình huống tri giác của người
làm chứng với sự việc phạm tội thì cháu A là người trực tiếp tri giác sự việc phạm tội
nhưng không liên quan đến sự việc phạm tội. Cháu là người trực tiếp nhìn thấy hành vi
phạm tội của chị Q khi cho cháu T uống thuốc ngủ, nhưng tại thời điểm đó cháu không
hề biết đó là thuốc ngủ mà chỉ nghĩ rằng đó là thuốc đau đầu như lời kể của Q, C
không đụng chạm đến đối tượng gây án, người bị hại, phương tiện, tài liệu…của vụ án
và cháu C hoàn toàn không liên quan đến tội phạm xảy ra. Bên cạnh đó, cháu C còn
được xác định là người làm chứng gián tiếp biết sự việc phạm tội vì cháu C là người có
mặt sau khi sự việc phạm tội diễn ra, cháu nhìn thấy được dấu vết tồn tại ở hiện trường
đó là những vết chân hướng đi từ nhà ra vườn đi tới bức tường sau nhà. Còn chị B là
người làm chứng trực tiếp tri giác sự việc phạm tội và can dự, dính líu đến sự việc
phạm tội. Chị B có hành vi liên quan tới tội phạm ở mức độ nhất định đó là bán thuốc
ngủ
10 quá liều cho Q mà không tìm hiểu rõ lí do mua thuốc ngủ dùng vào mục đích gì
nhưng chưa hoặc không bị khởi tố bị can của vụ án.
Những người biết các tình tiết của vụ án được cơ quan có thẩm quyền triệu tập lấy
lời khai thì phải có nghĩa vụ làm chứng, nếu họ từ chối hoặc không thực hiện đúng
nghĩa vụ thì sẽ phải chịu những hậu quả nhất định. Khi lấy lời khai của người làm
chứng điều tra viên cần chú ý đến cháu C là trẻ em và là người làm chứng có quan hệ
họ hàng mật thiết với Q (cháu ruột của Q) vì vậy khi lấy lời khai của cháu cần có chiến
thuật lấy lời khai để cháu tránh được tâm lý lo sợ và tâm lý sợ ảnh hưởng đến Q sẽ bị
xử lí nặng hơn nên có thể cháu sẽ có hướng che giấu cho Q. Trong trường hợp này,
tránh quát nạt, trách móc cháu ngược lại cần nhẹ nhàng thuyết phục cháu khai đúng sự
thật, gợi lại tình cảm với em T và giảng giải cho cháu việc giết em C của Q là hành vi
đáng trách, cháu cần bênh vực cho em T bằng cách hãy kể lại những gì cháu nhìn thấy
hôm đó…
- 2.2 Tại sao cần thiết phải tiến hành lấy lời khai người làm chứng:
+) Mục đích của việc lấy lời khai người làm chứng nhằm thu thập, mô tả theo trình tự
thủ tục tố tụng hình sự lời khai của người làm chứng về tình tiết vụ án đang được điều
tra và những tin tức, tài liệu mà người làm chứng biết. Từ những lời khai của người
làm chứng về một số tình tiết cụ thể như đặc điểm nhân thân của Q, cháu T (có thể lấy
lời khai từ ông, bà, họ hàng, xóm giềng, bạn bè…của cháu T). Thông qua lời khai của
chị B và cháu C, cơ quan điều tra có thể xác định được nguồn gốc, đặc điểm, công cụ,
phương tiện gây án của Q đó là một vỉ thuốc ngủ Rotundin (loại 10 viên), viên thuốc
hình tròn, màu vàng và lời khai của cháu C sẽ cung cấp các chi tiết về hành vi phạm
tội. Cụ thể Q đã dọa nạt, bắt cháu uống thuốc như thế nào, uống với liều lượng ra
sao…và các chi tiết dấu vết chân mà cháu nhìn thấy hiện trường vụ án tại thời điểm
sau khi cháu T bị Q giết.
Điều đó sẽ giúp đạt được nhiệm vụ của việc lấy lời khai của người làm chứng:
- Thu được những thông tin chính xác, đầy đủ, khách quan từ người làm chứng có
thể làm rõ được thông tin về đối tượng gây án (ví dụ về âm mưu giết con để chiếm
đoạt lấy mảnh đất cha mẹ cho, sau đó cùng chung sống với ông K…), công cụ, phương
tiện gây án, thông tin về vật chứng (thông tin về vỉ thuốc ngủ), hơn nữa có thể thu
thập, kiểm tra, cung cấp chứng cứ cho vụ án và thu thập tin tức, tài liệu giúp điều tra
viên có thể khai thác được các tình tiết vụ án góp phần tạo hướng cho hoạt động điều
tra, giúp cho công tác điều tra trở nên dễ dàng hơn.
Lời khai của người làm chứng sẽ được coi là nguồn chứng cứ quan trọng cho vụ
án. Nếu như thiếu lời khai của những người làm chứng của cháu C, chị B rất khó có
thể xác định được động cơ, mục đích phạm tội, công cụ, phương tiện, cách thức tiến
hành
10 tội phạm như thế nào…và ảnh hướng đến quá trình làm rõ sự thật vụ án do không
chứng cứ thông qua những lời khai của người làm chứng ảnh hưởng đến tính khách
quan của vụ án.
+ Trong tình huống trên, lấy lời khai của người làm chứng còn có vai trò quan
trọng. Căn cứ vào lời khai của họ và các tài liệu thu thập được, cơ quan điều tra có thể
xác định được loại thực nghiệm điều tra cần tổ chức, mục đích cụ thể cần đạt được
cũng như điều kiện cụ thể để thực hiện hoạt động này.
3. Thực nghiệm điều tra.
3.1 Khái niệm Thực nghiệm điều tra.
Thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra được tiến hành thông qua các hoạt
động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt trong điều kiện tương tự như điều kiện mà
hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh đã diễn ra trước đây để có cơ sở
khách quan kết luận về hành vi, sự việc, hiện tượng đó phục vụ cho công tác điều tra,
xử lí vụ án hình sự.
Bản chất của thực nghiệm điều tra là tiến hành các hoạt động thí nghiệm, thực
nghiệm đặc biệt. Cơ sở để hoạt động đó là lời khai của những người tham gia tố tụng
như bị can, người tạm giữ, người bị hại, người làm chứng hay giả thuyết điều tra của
điều tra viên về hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh. Căn cứ vào lời
khai của họ và các tài liệu thu thập được, cơ quan điều tra có thể xác định được loại
thực nghiệm điều tra cần tổ chức, mục đích cụ thể cần đạt được cũng như điều kiện cụ
thể để thực hiện hoạt động này.
Trong vụ án trên, dựa trên lời khai của những người tham gia tố tụng như lời khai
của Q: Vào lúc 19 h ngày 24-10-2003, Q đã ép cháu uống hết số thuốc ngủ là 10 viên
thuốc ngủ, sau khi thất T đã ngấm thuốc, Q đã vác cháu T ra khỏi nhà hướng đi ra
vườn và vứt cháu qua bức tường khiến cho cháu rơi xuống chiếc ao cạnh đó. Còn theo
lời khai của người làm chứng đó là chị B thì khoảng 9h sáng 24-10-2003, Q đã ra
quầy thuốc tân dược của chị B mua một vỉ thuốc ngủ Rotundin (loại 10 viên) và theo
lời khai của cháu C: khoảng 19 h ngày 24-10-2003, cháu T sang nhà Q thấy Q đang
quát nạt và mắng T bắt T phải uống thuốc. Sáng hôm sau, lúc cháu sang nhà rủ T đi
học thì không thấy ai ở nhà, sau đó cháu đi ra vườn thì trông thấy những dấu vết chân
đi hướng từ nhà ra vườn…Qua những lời khai trên trên cần đặt ra giả thuyết, một
người phụ nữ vào lúc trời đã tối liệu có thể vác được một cháu bé 7 tuổi cao khoảng
chừng 1.1 mét nặng 19 kg đi từ nhà hướng ra vườn, vứt qua tường cao khoảng chừng
1.4 mét hay không hay có đồng phạm trong vụ án này và người được đưa vào diện
nghi
10 ngờ là đồng phạm của Q chính là ông K. Để làm rõ vấn đề này, cơ quan điều tra
tiến hành thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng thực hiện một hành vi, một
công việc nhất định. Đây là loại thực nghiệm điều tra được tiến hành nhằm làm rõ một
người nào đó có khả năng thực hiện một hành vi cụ thể nào đó nói chung hay những
điều kiện cụ thể nhất định hoặc trong một khoảng thời gian xác định được hay không.
Cơ sở để tổ chức và tiến hành hoạt động thực nghiệm điều tra này là nội dung lời
khai của Q về hành vi, sự việc mà chị ta đã khai báo là đã làm và những điều kiện chủ
quan, khách quan khi thực hiện hành vi đó.
Khi tiến hành thực nghiệm điều tra cần lưu ý một số vấn đề:
+ Khi thực nghiệm điều tra cần phải tuân thủ các nguyên tắc của thực nghiệm điều tra,
đó là tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và tôn trọng sự thật khách
quan
+ Cần chú ý đến các điều kiện chiến thuật thực nghiệm điều tra:
Thực nghiệm điều tra phải được tiến hành trong điều kiện, hoàn cảnh giống ở mức
tối đa với điều kiện và hoàn cảnh mà hành vi, sự việc hiện tượng kiểm tra đã diễn ra
trước đây. Cụ thể, trong tình huống: thời điểm thực nghiệm điều tra được tiến hành
tương tự như thời gian diễn ra hành vi Q vác cháu T ra khỏi nhà hướng ra vườn vứt
qua tường tức vào thời gian khoảng 19 h 30 phút lúc trời đã tối, cũng cần chú ý đến
mức độ ánh sáng (mặt trăng, đèn điện…) , thời tiết tương tự…sẽ là điều kiện ảnh
hưởng trực tiếp đến hành vi của Q…Ngoài ra cũng cần chú ý cần tiến hành thực
nghiệm điều tra ở chính địa điểm đã xảy ra ở chính địa điểm đã xảy ra sự việc, hiện
tượng cần kiểm tra tức là nhà, vườn của Q.
Để việc thực nghiệm điều tra đạt hiệu quả cần sử dụng vật tương tự để thay thế
cho cháu T và yêu cầu Q phải diễn tả lại những hoạt động khi vác cháu T ra khỏi nhà,
đi ra ngoài sân hướng ra sau nhà, vứt qua tường ra sao? Trong thực tế cơ quan điều tra
có thể sử dụng một em bé có thể lực tốt, có khả năng đóng thế và trong tình huống này
yêu cầu sẽ phải là bơi giỏi, thể lực tốt, có chiều cao, cân nặng giống như bé T và bên
cạnh đó cũng cần có những người sẵn sàng ứng cứu kịp thời người đóng thế sau khi Q
vứt cháu xuống ao giống như trong tình huống. Nhưng trong vụ án, cháu T bị mẹ vứt
từ trên tường cao xuống, thông thường như vậy rất dễ gây ngạt nước cho người đóng
thế, tình huống này rất dễ gây nguy hiểm đặc biệt là đối với trẻ em nên có thể sử dụng
ma-nơ-canh, hoặc hình nộm nhưng chú ý phải có kích thước, chiều cao, cân nặng
tương đương với cháu T. Trong tình huống cụ thể, cán bộ điều tra cần tìm ra cách xử
lí tình huống hiệu quả nhất để có thể dễ dàng và nhanh chóng kiểm tra, xác minh xem
việc Q một mình thực hiện hàng loạt những hành vi khai báo trên có đúng không và
có sự giúp sức của ông K hay không?...
10Ngoài ra cần tiến hành dựng lại hiện trường trước khi tiến hành điều tra, hoạt động
thực nghiệm phải được làm đi làm lại nhiều lần và trong những điều kiện thay đổi…,
tiến hành thực nghiệm điều tra theo các giai đoạn.
Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, điều tra viên đã yêu cầu Q diễn tả lại lại hành vi
vác và ném con qua bức tường trong điều kiện, hoàn cảnh giống với trước đây Q đã
làm. Thực nghiệm cho thấy, người đàn bà này có thể thực hành lại những hành động
này không mấy khó khăn vì Q là người có thể lực tốt và công việc lao động chân tay
giúp chị ta có thể vác và ném cháu T qua bức tường cao 1.4 mét mà không cần đến sự
hỗ trợ của người khác.
3.2 Tại sao bắt buộc phải thực nghiệm điều tra trong vụ án trên.
+ Tiến hành thực nghiệm điều tra để kiểm tra những tài liệu, chứng cư thu thập được
về vụ án.
Trong quá trình điều tra về cụ án hình sự, có thể áp dụng nhiều biện pháp để kiểm
tra chứng cứ như: So sánh chúng với nhau, thu thập chứng cứ mới, nghiên cứu nhấn
mạnh nhân thân bị can, người làm chứng…Chứng cứ cũng có thể kiểm tra bằng con
đường thử nghiệm để xác định sự thật trong vụ án. Trong thực tế điều tra, thực
nghiệm điều tra được sử dụng rộng rãi như là một phương tiện hữu hiệu để kiểm tra
chứng cứ. Qua thực nghiệm điều tra có thể xác định được mức độ tin cậy và giá trị xác
thực của những tình tiết phản ánh trong lời khai của người tham gia tố tụng đó là lời
khai của bị can Q, lời khai của những người làm chứng cháu C, chị B. Kết quả của
thực nghiệm điều tra sẽ là cơ sở khách quan để cơ quan điều tra đánh giá và kết luận
tính khách quan và mức độ tin cậy của lời khai họ.
+ Kết quả của thực nghiệm điều tra giúp điều tra viên khẳng định được các tình tiết
trong vụ án, phủ nhận những nhận định, phán đoán của điều tra viên đó mà với sức
lực của Q có thể tự mình thực hiện tất cả các hành động: ép con uống thuốc, vác con
vứt ra ao để che giấu hành vi giết con mà không cần sự giúp sức của người khác mặt
khác cũng không phát hiện ra các tình tiết, chứng cứ thể hiện có sự giúp sức trong vụ
án này. Điều này giúp các điều tra viên tránh được những hoạt động điều tra nhưng
không cần thiết (chẳng hạn trong tính huống đó là lấy lời khai của ông K…).
Ngoài những hoạt động điều tra mà đề bài yêu cầu đó là lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại, nhận dạng, thực nghiệm điều tra thì trưng cầu giám định pháp y
là một trong những hoạt động điều tra không thể thiếu. Cụ thể, qua công tác khám
nghiệm tử thi, các điều tra viên phát hiện bên trong nội tạng của cháu bé có độc tố của
thuốc ngủ đã giúp cơ quan điều tra xác định được nguyên nhân cái chết của cháu T là
do uống thuốc ngủ quá liều, từ đó xác định được thủ phạm, công cụ, phương tiện thủ
đoạn phạm tội, điều kiện phạm tội…và hoạt động khám nghiệm tử thi sẽ là cơ sở để
các
10 điều tra viên có thể thu thập, đánh giá những lời khai của bị can, người làm chứng
sau này.
C. Kết luận: Mỗi hoạt động điều đóng những vai trò, nhiệm vụ riêng tra giúp cho cơ
quan điều tra có thể xác minh được vụ việc, tìn ra hung thủ, cách thức tiến hành, công
cụ phương tiện gây án…Trong tình huống trên đây không thể thiếu các hoạt động điều
tra như lấy lời khai người làm chứng, nhận dạng, thực nghiệm điều tra…Mỗi một biện
pháp có một nhiệm vụ riêng, cách thức tiến hành riêng nhưng chúng đều góp phần làm
rõ nội dung vụ án mà cơ quan điều tra tiến hành thực hiện và đây là những hoạt động
cần thiết không thể thiếu trong hoạt động điều tra vụ án.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình khoa học điều tra hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2008.
2. Cao Xuân Quyết, Giám định pháp y và điều tra hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2009.
2. Ngô Tiến Quý, Vũ Mạnh Hoan (dịch), Sổ tay điều tra hình sự, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 1986, tr. 42 - 81.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2008, Chương 7.
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006).
6. Bàn về sự “cần thiết” và “có thể” quy định tại Điều 1 Điều 114 BLTTHS về nhận
dạng, Tạp chí Kiểm Sát số 1/2003 trang 24-25
7. Một số vấn đề cần lưu ý khi thu thập chứng cứ, lấy lời khai, Tạp chí Kiểm Sát: số
15/2010 trang 26-29.
1. ANHP Online | Chuyện hai người đàn bà giết chết con đẻ.
10
www.anhp.vn/VN/TrangChu/TinTuc/AnNinhXaHoi/2010/.../17876
2. phapluatxahoi.vn/.../ky-1-dang-long-khi-nguoi-dan-ba-vi-tien-dau-d
10