A. MỞ ĐẦU
Đối với các quốc gia trên thế giới nói chung và trong khu vực Đông
Nam Á nói riêng thì, hiện nay, vấn đề đảm bảo hòa bình và hợp tác an ninh chính
trị được xem trọng hàng đầu. Đặc biệt đối với các quốc gia ASEAN, những quốc
gia có vị trí vô cùng quan trọng, tập trung nhiều tài nguyên thiên nhiên và còn có
vị trí trung chuyển hàng hóa đi nhiều quốc gia trên thế giới. Sự thay đổi của tình
hình thế giới sau Chiến tranh lạnh tác động mạnh mẽ tới tình hình chính trị - an
ninh trong khu vực. Ngoài ra, các quốc gia còn phải đối mặt với các thách thức
an ninh phi truyền thống nghiêm trọng, vượt ngoài phạm vi quốc gia. Trước tình
hình đó, các quốc gia Đông Nam Á nhận thấy phải tiến hành các biện pháp ngoại
giao phòng ngừa nhằm ngăn chặn các cuộc tranh chấp, xung đột giữa các quốc
gia đe dọa tiềm tàng hòa bình và ổn định khu vực; ngăn chặn các cuộc tranh chấp
và xung đột leo thang thành đối đầu vũ trang; hạn chế tối thiểu ảnh hưởng của
tranh chấp và xung đột khu vực.
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về ngoại giao phòng ngừa (PD) của ASEAN
1. Khái niệm về ngoại giao phòng ngừa
Xét về bản chất ngoại giao được xác định là một công việc của các quốc
gia để thiết lập các mối quan hệ quốc tế nhằm đạt được sự ổn định và phát triển
của chính quốc gia đó nói riêng và toàn thể cộng đồng thế giới nói chung. Ngoại
giao phòng ngừa cũng không nằm ngoài mục đích đó.
Thuật ngữ ngoại giao phòng ngừa lần đầu tiên được đưa ra bởi Tổng Thư
ký thứ 2 của Liên Hợp Quốc – ông Dag Hammaskols vào năm 1960 khi mà
Chiến tranh lạnh đang diễn ra vô cùng căng thẳng. Trong hoàn cảnh này, khái
niệm ngoại giao phòng ngừa được biết đến như là một biện pháp để ngăn không
cho xung đột khu vực dính vào đối đầu giữa hai siêu cường Xô – Mỹ. Sau chiến
tranh lạnh, khái niệm ngoại giao phòng ngừa được hiểu rộng hơn là hành động
ngăn chặn các cuộc tranh chấp.
Đến nay, ngoại giao phòng ngừa là một vấn đề được nhiều chính trị gia
nghiên cứu và khái niệm ngoại giao phòng ngừa cũng có những định nghĩa khác
nhau.
Trong cuốn “Chương trình nghị sự vì hòa bình”, xuất bản năm 1992, ông
Boutros Ghali - một cựu Tổng Thư ký của Liên hợp quốc đã định nghĩa NGPN
là “hành động để ngăn ngừa tranh chấp nổ ra giữa các bên, ngăn ngừa tranh chấp
đã leo thang thành xung đột và hạn chế xung đột lan rộng một khi đã xảy ra”.
Với định nghĩa trên, NGPN vẫn chỉ được biết đến với khái niệm chung chung là
một hành đồng của các bên còn đó là những hành động như thế nào, các bên ở
đây là những ai thì vẫn chưa được xác định cụ thể.
Theo nhà nghiên cứu Amitav Acharya, NGPN là hoạt động ngoại giao,
chính trị, quân sự, kinh tế và nhân đạo của chính phủ, các tổ chức đa phương, tổ
chức quốc tế nhằm các các mục đích: ngăn chặn tranh chấp và xung đột nghiêm
trọng nổ ra giữa các quốc gia hay trong một quốc gia; ngăn xung đột và tranh
chấp leo thang thành đối đầu vũ trang; hạn chế mức độ bạo lực do xung đột gây
ra và ngăn không cho lan rộng về mặt địa lý; ngăn chặn và xử lý khủng hoảng
nhân đạo; là một bộ phận của phản ứng tức thì trước khủng hoảng hoặc tình hình
tiền khủng hoảng, đưa ra những biện pháp có thể giúp giải quyết tranh chấp. Như
vậy, với định nghĩa trên đã cụ thể hóa được NGPN là những hành động ra sao,
của những chủ thể nào.
Cùng với sự thay đổi bộ mặt của đời sống quan hệ chính trị quốc tế nói
riêng và đời sống quốc tế nói chung khiến cho các quan niệm và tiêu chí của
ngoại giao cũng thay đổi. Đường lối ngoại giao hiện đại đã góp phần phát triển
NGPN. NGPN được sử dụng ngày càng phổ biên trong khuôn khổ một số tổ
chức khu vực. Với ASEAN, NGPN được sử dụng chậm hơn so với các tổ chức
khu vực khác song lại phát huy được tính hiệu quả cao. Theo đó, Hội nghị ARF
(Diễn đàn khu vực ASEAN) lần thứ 4 đã đưa khái niệm ngoại giao phòng ngừa
là những hành động chính trị và ngoại giao do các quốc gia có chủ quyền tiến
hành với sự đồng ý của tất cả các bên trực tiếp có liên quan nhằm mục đích
phòng ngừa các cuộc tranh chấp và đụng độ xảy ra giữa các quốc gia, có thể đe
dọa đến hòa bình khu vực; phòng ngừa các xung đột sẵn có leo thang thành xung
đột vũ trang và hạn chế tác động của các tranh chấp đối với khu vực. Như vậy,
với khái niệm trên ARF xác định NGPN bao gồm các biện pháp về chính trị,
ngoại giao (không bao gồm quân sự) nhằm mục đích phòng ngừa các tranh chấp.
Theo khái niệm trên, ARF vẫn thống nhất với các quan điểm quốc tế cho rằng
bản chất của NGPN là ngăn ngừa xung đột.
2. Các nguyên tắc của ngoại giao phòng ngừa
Cho đến nay chưa có một tài liệu chính thức nào nêu rõ những nguyên
tắc của ngoại giao phòng ngừa. Tuy nhiên trên thực tế, NGPN được áp dụng dựa
trên những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế như:
- Xử lý mối quan hệ giữa các quốc gia và triển khai hợp tác trong lĩnh vực
xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa phù hợp với nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc, năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình và những quy
phạm, luật lệ quốc tế được chấp nhận rộng rãi khác;
- Tôn trọng chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhau;
- Coi sự nhất trí của các bên trực tiếp liên quan đến vấn đề là một trong
những điều kiện tiên quyết để triển khai ngoại giao phòng ngừa
- Giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua biện pháp hòa bình và tránh
sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực;
Thực hiện và duy trì các chính sách quôc phòng với bản chất phòng vệ và
không đe dọa hay làm phương hại đến hào bình và ổn định của các quốc gia khác
bằng lực lượng quân đội của mình
- Tăng cường hợp tác cùng có lợi giữa các quốc gia và sự giao lưu hữu
nghị giữa các dân tộc;
Về những nguyên tắc của ngoại giao phòng ngừa, nhiều nhà phê bình
cho rằng thường có mâu thuẫn giữa một bên là hàm ý về nguyên tắc chủ quyền
và không can thiệp trong định nghãi về ngoại giao phòng ngừa với một bên là
nguyên tắc tự quyết và can thiệp nhân đạo. Mâu thuẫn này thường khó dung hòa
trên thực tế và trở thành một trong những trở ngại chính hạn chế hiệu quả của
các hoạt động ngoại giao phòng ngừa.
3. Biện pháp ngoại giao phòng ngừa
Thực tiễn áp dụng ngoại giao phòng ngừa rất đa dạng và biến đổi rất
khác nhau. Ngoại giao phòng ngừa bao gồm từ việc một bên thứ ba tình nguyện
làm trung gian hòa giải giữa các bên có xung đột tiềm tàng đến việc cử những
phái đoàn tìm kiếm sự thật và làm trung gian ở giai đoạn đầu của một cuộc xung
đột tiềm tàng. Như vậy ngoại giao phòng ngừa có thế được áp dụng hoặc trước
khi nổ ra khủng hoảng hoặc trong giai đoạn sớm của cuộc khủng hoảng.
Những biện pháp tiến hành trước khi nổ ra khủng hoảng ( còn gọi là ngoại
giao phòng ngừa sớm) bao gồm:
- Những nồ lực xây dựng lòng tin;
- Xây dựng thiết chế;
- Xây dựng chuẩn mực
-Các hệ thống cảnh báo sớm
Những biện pháp ngoại giao phòng ngừa tiến hành trong giai đoạn sớm
của khủng hoảng ( ngoại giao phòng ngừa muộn) bao gồm :
- Tìm kiếm sự thật
-Phái đoàn thiện chí
- Vai trò liên lạc của bên thứ ba hay trung gian;
Như vậy ngoại giao phòng ngừa khác với ngoại giao thông thường. Ngoại
giao phòng ngừa nhấn mạnh sự đối phó mang tính chủ động, tích cực cứ không
phải chỉ mang tiinhs chất phản ứng trước tình huống đe dọa hòa bình. Quy mô
của ngoại giao phòng ngừa cũng rộng lớn hơn và mang tính kịp thời hơn ngoại
giao thông thường. Thêm vào đó, trong khi ngoại giao thông thường được tiến
hành cả ở cấp song phương và đa phương thì ngoại giao phòng ngừa thường
mang tính đa phương là chủ yếu. Mặc dù các bên tranh chấp có thể tự đua ra
những sáng kiến phòng ngừa, song thường phải cần tới một bên thứ ba đóng vai
trò phòng ngừa xung đột xảy ra giữa hai hay nhiều bên tranh chấp.
II. Những vấn đề pháp lý về ngoại giao phòng ngừa (PD) của ASEAN
Ngày 8/8/1967, Bộ trưởng ngoại giao 5 nước đã ký kết Tuyên bố Băng
Cốc đánh dấu sự ra đời của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Theo nội dung
tinh thần Tuyên bố Băng Cốc thì mục đích hàng đầu vẫn là đưa Đông Nam Á trở
thành một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á - trở thành một cộng đồng các
quốc gia hòa bình và thịnh vượng.
Sau Tuyên bố Băng Cốc năm 1967, ASEAN đã thông qua một tuyên bố
thể hiện tầm chiến lược đó là Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do, trung lập gọi
tắt là tuyên bố ZOFPAN năm 1971.. Vấn đề trung lập hóa mà tuyên bố đưa ra tại
thời điểm đó đã đáp ứng được nhiệm vụ giữ được nguyên trạng tình hình ở Đông
Nam Á, ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc mới như Trung Quốc, Nhật
Bản xuống khu vực, buộc các nước ngoài khu vực Đông Nam Á chính thứ cam
kết không can thiệp vào công việc nội bộ của khu vực và trên thực tế. Tuyên bố
nhấn mạnh quyết tâm giữ khu vực trung lập, không liên kết, qua đó giữ vững hòa
bình, ổn định và an ninh khu vực, hạn chế can thiệp của lực lượng bên ngoài vào
công việc nội bộ của khu vực.
Thể hiện quyết tâm hợp tác khu vực, đồng thời gửi đi tín hiệu thân thiện,
hợp tác với các quốc gia khác trong khu vực thông qua Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác Đông Nam Á (TAC), kêu gọi các quốc gia trong khu vực cùng hợp tác
vì hòa bình, an ninh chung của khu vực, giải quyết xung đột, tranh chấp bằng
đàm phán hòa bình, do đó Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN (hay còn gọi là
Tuyên bố Bali I) ra đời vào năm 1976.
Bên cạnh tuyên bố trên, ASEAN còn ký kết văn kiện về Khu vực Đông
Nam Á không có vũ khí hạt nhân-SEANWFZ trong hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ ba tại Manila, Philippin, ngày 15 tháng 2 năm 1987 . SEANWFZ là một
trong các công cụ quan trọng của ASEAN đóng góp vào bảo đảm hòa bình, an
ninh và phi vũ khí hạt nhân ở khu vực. Việc phát huy giá trị của SEANWFZ,
cùng với các công cụ hợp tác chính trị-an ninh khác của ASEAN như Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)…, nhằm đóng góp nhiều
hơn vào các mục tiêu chung của ASEAN, vì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác
và phát triển ở khu vực.
Năm 2002, trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình cho vấn đề biển
Đông, ASEAN và Trung Quốc ký bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở Phnom Penh
(Campuchia). Cùng với đó, trong năm 2003, ASEAN tiến một bước nữa trong
tăng cường liên kết khu vực khi cho ra đời Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN II
(Tuyên bố Bali II), xác định mục tiêu thành lập một Cộng đồng ASEAN gồm ba
trụ cột: Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn
hóa-Xã hội.
Bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của ASEAN là sự ra đời của Hiến chương
ASEAN. Với Hiến chương ASEAN, tất cả các nguyên tắc, luật lệ và hành xử của
ASEAN từ trước tới nay đã được cập nhật và pháp điển hóa một cách có hệ
thống trong một văn kiện pháp lý
Ngoại giao phòng ngừa được sử dụng chậm hơn so với các khu vực
khác, song lại phát huy tính hiệu quả rất cao, nổi bật là vai trò của ASEAN cũng
như Diễn đàn An ninh khu vực (ARF) mà tổ chức này đứng ra thành lập năm
1994. Hội nghị ARF lần thứ 8 họp tại Hà Nội (tháng 7-2001) đã thông qua văn
kiện về ngoại giao phòng ngừa. Hội nghị ARF đã đưa ra khái niệm ngoại giao
phòng ngừa là những hành động chính trị và ngoại giao do các quốc gia có chủ
quyền tiến hành với sự đồng ý của tất cả các bên trực tiếp có liên quan nhằm
mục đích phòng ngừa các cuộc tranh chấp và đụng độ xảy ra giữa các quốc gia,
có thể đe dọa đến hòa bình khu vực, phòng ngừa các xung đột sẵn có leo thang
thành xung đột vũ trang và hạn chế tác động của những cuộc tranh chấp đối với
khu vực.
Khái niệm Ngoại giao phòng ngừa (PD) được các thành viên ARF nhất
trí và không mang tính ràng buộc pháp lý. PD là sự đồng thuận trong hành động
ngoại giao và chính trị của các nước có chủ quyền nhằm giúp ngăn chặn bất
đồng và xung đột trở thành mối đe dọa hòa bình và ổn định khu vực, leo thang
thành đối đầu vũ trang và giúp giảm thiểu ảnh hưởng của chúng đối với khu vực.
Các biện pháp ngoại giao phòng ngừa bao gồm: Sử dụng các biện pháp hòa bình
và mang tính ngoại giao như thương thuyết, điều tra và hòa giải. Không ép buộc.
Không có hành động quân sự hay sử dụng vũ lực. Phải kịp thời. Hành động phải
mang tính phòng ngừa, chứ không phải khắc phục. Các biện pháp PD hiệu quả
nhất ở giai đoạn đầu của mâu thuẫn hay khủng hoảng. Cần phải có sự tin tưởng.
PD chỉ có thể thực hiện khi có một nền tảng tin tưởng mạnh mẽ giữa các bên liên
quan và khi nó được thực hiện trên cơ sở trung lập, công bằng và vô tư. Hoạt
động trên cơ sở tham khảo và đồng thuận. Các cố gắng đều phải thông qua đồng
thuận, sau khi đã tham khảo cẩn thận giữa các nước thành viên ARF, đồng thời
phải cân nhắc đến tính kịp thời. Áp dụng đối với các xung đột giữa các nước
thành viên.
III. Thực tế triển khai hoạt động này qua các giai đoạn
Mặc dù trên thực tế, NGPN đã được ASEAN áp dụng từ khi thành lập
nhưng phải tới năm 1995, khái niệm này mới chính thức được công nhận và đưa
vào tài liệu khái niệm (Concept Paper) của ARF. Theo tài liệu này, NGPN là giai
đoạn nằm giữa giai đoạn xây dựng lòng tin và giai đoạn giải quyết xung đột. Xây
dựng lòng tin là giai đoạn đầu tiên, làm cơ sở nền tảng cho đối thoại bằng cách
giảm căng thẳng, tăng cường lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau, tạo bầu không khí
thuận lợi cho đối thoại. Tiếp đó, NGPN được coi là giai đoạn “giữ nguyên
trạng”, không để cho xung đột hay tranh chấp vốn có nổi lên và leo thang thành
đối đầu vũ trang.
Ở châu Á, NGPN được sử dụng chậm hơn so với các khu vực khác, song
lại phát huy tính hiệu quả rất cao, nổi bật là vai trò của ASEAN cũng như Diễn
đàn An ninh khu vực (ARF) mà tổ chức này đứng ra thành lập năm 1994.
Có thể chia các hoạt động NGPN của ASEAN thành các giai đoạn như
sau:
- Từ khi ASEAN được thành lập tới năm 1995:
Với ASEAN làm nòng cốt và nắm vai trò lãnh đạo, Diễn đàn an ninh khu
vực đã thu hút sự tham gia của các nước lớn như Nga, Mỹ, Trung Quốc và một
trong những tổ chức khu vực mạnh nhất thế giới là Liên minh Châu Âu (EU).
Với tư cách là diễn đàn đối thoại và hợp tác giữa các nước thành viên về các vấn
đề chính trị và an ninh khu vực, ARF đã chứng tỏ được sức sống và giá trị thực
tiễn, nhất là trong việc tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa các nước
trong khu vực thông qua các hoạt động và biện pháp hợp tác cụ thể trên nhiều
lĩnh vực khác nhau. Uy tín và ảnh hưởng của ARF ngày một lớn.
- Từ năm 1995 đến ARF 8: Giai đoạn thông qua Khái niệm và nguyên tắc
NGPN
Hội nghị ARF-8 đã khẳng định lại tầm quan trọng của các biện pháp xây
dựng lòng tin là cơ sở và trọng tâm hàng đầu xuyên suốt tiến trình ARF. Nói như
vậy có nghĩa là trong các giai đoạn kế tiếp của ARF các biện pháp xây dựng lòng
tin sẽ vẫn được chú trọng và là động lực thúc đẩy chính của ARF. Bước tiến có ý
nghĩa tại ARF-8 là thông qua tài liệu về “Khái niệm và nguyên tắc của ngoại
giao phòng ngừa”, “Tăng cường vai trò của Chủ tịch” và “Đăng ký chuyên gia”.
Đây là tiền lệ có ý nghĩa quan trọng tăng cường tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, tạo
cơ sở mở rộng thông tin và những vấn đề an ninh, ổn định giữa các nước thành
viên ARF. Với tư cách là Chủ tịch của ARF-8, Việt Nam đã có nhiều cố gắng để
đạt được kết quả đó tại Diễn đàn lần này.
Bên cạnh đó, khi bước vào giai đoạn hai, ARF vẫn triệt để tôn trọng các
nguyên tắc đã thoả thuận của Diễn đàn là tự nguyện, tiệm tiến và đồng thuận;
ASEAN là động lực chính của ARF; Các hoạt động của ARF về cơ bản phải dựa
trên các nguyên tắc, tập quán và phương thức làm việc của ASEAN, trong đó có
nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Diễn đàn nhất trí phương hướng hoạt động cho thời gian tới là tiếp tục
thúc đẩy ARF với vai trò một diễn đàn hiệu quả cho đối thoại và hợp tác các vấn
đề chính trị và an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Diễn đàn cũng nhất
trí rằng ASEAN tiếp tục đóng vai trò động lực chính trong tiến trình ARF.
Trong giai đoạn này ASEAN và ARF đã đạt được một số thành tựu:
Đại biểu ARF-8 hoan nghênh sự phát triển tích cực trong tình hình chung
của bán đảo Triều Tiên kể từ sau cuộc gặp cấp cao hai miền Nam - Bắc ngày
15/6/2000 tại Bình Nhưỡng và sự tham gia tích cực của CHDCND Triều Tiên
vào các hoạt động của ARF trong năm qua. Các bộ trưởng hoan nghênh những
tiến bộ đạt được trong các cuộc tham khảo giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm
xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông.
Hội nghị Bộ trưởng Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN diễn ra vào ngày
25/7/2001 đã kết thúc với sự nhất trí về tăng cường an ninh trong khu vực. Sau
diễn đàn, các cuộc hội đàm Trung - Mỹ, Việt - Mỹ cũng đem lại nhiều thoả thuận
quan trọng.
Các bộ trưởng khẳng định rằng ARF sẽ tiếp tục phát triển với bước đi phù
hợp với tất cả các nước tham gia, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ARF thông
qua các quyết định bằng nguyên tắc đồng thuận trên cơ sở không can thiệp vào
nội bộ của nhau.
Diễn đàn đánh giá cao Việt Nam, trong cương vị Chủ tịch ARF, đã tiếp
tục mở rộng tiếp xúc không chính thức với các tổ chức quốc tế và khu vực khác,
nhất là với Liên Hợp Quốc, Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS) và Phong trào
không liên kết.
ARF cũng đã bắt đầu triển khai những biện pháp đan xen giữa xây dựng
lòng tin và ngoại giao phòng ngừa như: Chủ tịch ARF tiến hành tiếp xúc với bên
ngoài và với kênh II (kênh phi chính phủ) trên cơ sở không chính thức, đồng thời
đóng vai trò đầu mối thông tin; Các thành viên ARF tự nguyện xuất bản những
ấn phẩm về quan điểm an ninh hàng năm của các nước ở kênh I (kênh chính
phủ); Bắt đầu tập hợp danh sách chuyên gia và những nhân vật lỗi lạc của các
nước thành viên; Một số nước tự nguyện thông báo tình hình của mình tại các
cuộc họp của ARF. Công việc chuẩn bị để ARF bước sang giai đoạn kế tiếp là
ngoại giao phòng ngừa cũng đã được thực hiện.
- Từ ARF 8 đến ARF 18:
ARF 18 đánh dấu thành công quan trọng của các hội nghị song phương và
đa phương quan chức cấp cao (SOM) và Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN với các đối tác chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao Đông
Á (EAS) và các Hội nghị cấp cao liên quan, sẽ diễn ra cũng tại Bali vào tháng 11
năm 2011.
Các bộ trưởng cho rằng hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển tiếp tục là
mục tiêu chung của ASEAN và khu vực. Tuy nhiên, khu vực hiện vẫn đối mặt
với nhiều thách thức truyền thống và phi truyền thống. Do đó, để đạt được mục
tiêu chung, các nước cần tiếp tục đối thoại, hợp tác, xây dựng lòng tin, giải quyết
hòa bình các tranh chấp và bất đồng trong khu vực.
Các bộ trưởng nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của ASEAN trong
việc xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực trong quan hệ giữa các quốc gia trong
khu vực, hoan nghênh và khuyến khích ARF đóng góp tích cực hơn vào củng cố
và phát huy các công cụ vì hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực như Hiệp ước
Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC). Các nước nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải trên Biển
Đông, giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan bằng biện pháp hòa bình, tôn
trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển năm
1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS), bảo đảm thực hiện hiệu quả Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); hoan nghênh việc thông qua Quy
tắc hướng dẫn thực hiện DOC nhằm thúc đẩy xây dựng lòng tin, tiến tới xây
dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
Các bộ trưởng đánh giá cao Chương trình Hành động Hà Nội thực hiện
Tuyên bố Tầm nhìn ARF và những kết quả thực hiện đã đạt được là đóng góp có
ý nghĩa cho định hướng hoạt động tiếp theo của ARF, kết hợp giữa xây dựng
lòng tin và ngoại giao phòng ngừa vì hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực .
ARF 18 diễn ra trong bối cảnh ASEAN đang nỗ lực hướng tới Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015, nâng cao vai trò trên trường quốc tế. Cấu trúc khu vực
với ASEAN đóng vai trò trung tâm đang định hình; các nước ASEAN và các
nước trên thế giới đang phải đối đầu nhiều thách thức truyền thống và phi truyền
thống, đòi hỏi phải có sự hợp tác khu vực và toàn cầu để giải quyết, và nhất là
những tiến triển mà các hội nghị vừa đạt được, trong đó có việc thông qua Quy
tắc hướng dẫn thực hiện DOC, nhằm tăng cường đảm bảo hòa bình, an ninh, ổn
định và phát triển bền vững khu vực và thế giới.
Do đó diễn đàn ARF 18 được coi là cột mốc cho ARF bước vào giai đoạn
mới, từ “Các biện pháp xây dựng lòng tin” sang giai đoạn “Ngoại giao phòng
ngừa".
- Từ ARF 18 đến nay
Từ ngày 19-23/7/2011, các ngoại trưởng của ASEAN và Nhật Bản, Trung
Quốc, Nga, Hàn Quốc và Hoa Kỳ họp tại ở Bali, Indonesia trong khuôn khổ
Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) để bàn về những vấn đề an ninh ở châu Á.
Diễn đàn ARF dự kiến kêu gọi thực hiện “ngoại giao ngăn ngừa”, đề ra các biện
pháp để tránh xảy ra tranh chấp.
Không chỉ dừng lại ở trao đổi chung chung,với quyết tâm phát triển qua ba
giai đoạn chủ yếu xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và xây dựng các
cách tiếp cận chung để giải quyết xung đột, những nội dung hợp tác của Diễn
đàn đã và đang được thúc đẩy sâu và rộng hơn, bao gồm nhiều lĩnh vực khác
nhau, từ phòng chống thiên tai tới chống phổ biến vũ khí sát thương hàng loạt và
giải trừ quân bị.
Những thành công trên đây của ARF chính là dựa trên các nguyên tắc hoạt
động của ASEAN. Đó chính là đồng thuận, tiệm tiến, không can thiệp. Đó cũng
chính là phương cách làm việc của ASEAN, luôn do ASEAN làm Chủ tịch, luôn
do ASEAN xây dựng nghị sự. Chuyển sang giai đoạn phát triển mới, ngoại giao
phòng ngừa, với ASEAN ở vị trí trung tâm, ARF đang không ngừng phát triển,
không ngừng vươn lên, vừa củng cố vị trí là diễn đàn hàng đầu trao đổi về an
ninh trong khu vực vừa đóng góp hiệu quả cho xây dựng môi trường khu vực
hòa bình, ổn định vì hợp tác và phát triển của các dân tộc.
Nhiều năm qua, hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải trên biển
nói chung và trong khu vực Biển Đông nói riêng luôn là mối quan tâm hàng đầu
của tất cả các nước trong và ngoài khu vực. Biển Đông đã trở thành một chủ đề
trao đổi trong nhiều khuôn khổ của ASEAN và khu vực. Từ những trao đổi tản
mát, ngày nay các nước trong và ngoài khu vực thường xuyên đề cập tới tình
hình Biển Đông tại nhiều diễn đàn khác nhau, nhất là những diễn đàn do
ASEAN thành lập và dẫn dắt.
Trong nội dung này, một lần nữa, ASEAN đã thể hiện được vai trò trung
tâm của mình. Từ 1992 đến nay, ASEAN đã có nhiều Tuyên bố khác nhau về
tình hình Biển Đông. Năm 2002, ASEAN đã cùng Trung Quốc ký Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của
ASEAN về Biển Đông vừa được thông qua gần đây đã thể hiện quan tâm chung
và cách tiếp cận chủ đạo của Hiệp hội đối với các vấn đề trên Biển Đông, đồng
thời cũng cho thấy khả năng của ASEAN trong xây dựng đồng thuận, thúc đẩy
đối thoại và hợp tác về tất cả các nội dung trao đổi trong khu vực.
Nhận thức chung của ASEAN về Biển Đông là luật pháp quốc tế, trong đó
có Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc 1982 (UNCLOS 1982) cần phải
được tôn trọng và thực hiện đầy đủ. Đồng thời, các nguyên tắc của khu vực, nhất
là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng phải luôn được đề
cao, tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để. Hiện nay, ASEAN đã
sẵn sàng và mong muốn trao đổi, thỏa thuận, tiến tới ký kết một Bộ quy tắc ứng
xử (COC) với Trung Quốc để đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu
vực. Tuy nhiên, cho tới nay Trung Quốc vẫn chống lại việc Diễn đàn ARF đưa
vấn đề tranh chấp lãnh hải ra bàn thảo, trong khi những nước có liên quan đến
tranh chấp chủ quyền biển Đông vẫn muốn giải quyết vấn đề này với sự hợp tác
của những nước như Nhật Bản và Hoa Kỳ.
IV. Hướng phát triển hoạt động ngoại giao phòng ngừa (PD) của
ASEAN trong thời gian tới
Ngoại giao phòng ngừa của ASEAN là sự hiện diện lợi ích và ảnh
hưởng của các nước lớn luôn thường trực. Điều này khiến ASEAN trong quá
trình thực hiện ngoại giao phòng ngừa phải cân bằng, điều hòa lợi ích của các
nước lớn tại khu vực và đây cũng là một thành công của Hiệp hội. Trên thế giới
hiện nay có tới hơn 50 tổ chức khu vực với tầm cỡ khác nhau, nhưng duy nhất
chỉ có ASEAN, với các hoạt động linh hoạt và có xu hướng "mở" đã thiết lập
được quan hệ đối thoại với tất cả các nước lớn.
Từ thực tế đã phân tích trên đây cho thấy việc sử dụng Ngoại giao
phòng ngừa trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã chứng tỏ
được vai trò và hiệu quả của nó, đây chính là một trong những biện pháp hữu
hiệu nhằm xử lý và ngăn chặn các cuộc xung đột khu vực cường độ thấp, nhất là
ở những nơi có điều kiện chính trị, xã hội và địa lý phức tạp. Ngoại giao phòng
ngừa là giai đoạn nằm giữa giai đoạn xây dựng lòng tin và giai đoạn giải quyết
xung đột. Xây dựng lòng tin là giai đoạn đầu tiên, làm cơ sở nền tảng cho đối
thoại bằng cách giảm căng thẳng, tăng cường lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau,
tạo bầu không khí thuận lợi cho đối thoại. Tiếp đó, ngoại giao phòng ngừa được
coi là giai đoạn “giữ nguyên trạng”, không để cho xung đột hay tranh chấp vốn
có nổi lên và leo thang thành đối đầu vũ trang. Các cuộc tranh chấp và đụng độ
xảy ra giữa các quốc gia luôn có thể xảy ra và đe dọa nghiêm trọng tới hòa bình
và an ninh khu vực. Trong mọi thời đại có một chân lý có thể khẳng định luôn
đúng, đó là “phòng còn hơn chống”, cũng như trong ngoại giao phòng ngừa, điều
quan trọng là ngừa, chứ không phải chữa, tức là ngăn chặn không để nó xảy ra
chứ không phải chờ đến lúc nó xảy ra rồi mới tìm kiếm các giải pháp khắc phục
hậu quả, do đó vấn đề này cần được thực hiện tốt nhất trước khi xảy ra xung đột.
Trước những vấn đề đó, ngoại giao phòng ngừa sẽ được áp dụng ngày
càng nhiều và triệt để hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tầm quan
trọng của nó bên cạnh những hoạt động ngoại giao khác. Cũng bởi lẽ, vì ngoại
giao phòng ngừa có tác dụng quan trọng là củng cố nền hòa bình lâu dài theo
phương cách phù hợp với đặc trưng của từng nước và của khu vực nên nó sẽ còn
tiếp tục được phát triển và củng cố trong tương lai. Phương hướng phát triển hoạt
động ngoại giao phòng ngừa cần được vạch định rõ để mở rộng triển vọng của
nó trong một tương lai sắp tới. Để làm được điều này, trước hết phải có một cơ
chế cảnh báo sớm và thường xuyên thực hiện các bước xây dựng lòng tin. Ngoại
giao phòng ngừa đang trở thành một vấn đề được quan tâm đặc biệt tại khu vực
do tính hiệu quả cũng như tính cần thiết của nó trong việc bảo đảm an ninh hòa
bình ổn định ở Đông Nam Á.
Bước sang giai đoạn thứ ba, bên cạnh việc tiếp tục củng cố phòng ngừa
ngoại giao thì giải quyết xung đột cũng là một phương hướng mới của ARF.
ARF cũng chỉ là một “kênh” quan trọng về ngoại giao với mục đích phòng ngừa,
sẽ khó có thể ngăn chặn được hoàn toàn các cuộc xung đột kể cả vũ lực ở khu
vực có thể xảy ra trong tương lai nếu các bên vì quá tham vọng và thiếu thiện chí
(Tạp chí cộng sản số ngày 14/1/2010). Do đó không chỉ bản thân chính sách
ngoại giao phòng ngừa mà chính các thành viên cũng như các quốc gia hữu quan
phải có thiện chí và trách nhiệm thì chính sách này hoàn toàn có thể đạt được
hiệu quả và thành công trong một tương lai xa. Mặt khác, trong nền ngoại giao
trong một tương lai xa, khi sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau tăng cao trong mọi
mặt của đời sống, việc giữ gìn hòa bình an ninh cho phát triển, bảo đảm lợi ích
quốc gia cũng như trong khu vực sẽ trở nên cấp thiết nhưng cũng khó khăn hơn
trước. Vì vậy, sang giai đoạn mới PD được dự đoán sẽ phát triển thiên theo
phương hướng giải quyết xung đột hơn là chỉ củng cố ngoại giao phòng ngừa.
Bên cạnh đó, quá trình hình thành cho tới phát triển ngoại giao phòng ngừa của
ASEAN cũng như việc vận dụng nó trên thực tế trong những hoạt động của ARF
là những kinh nghiệm thực tiễn cần được nghiên cứu và có mối liên hệ trực tiếp
tới Việt Nam. Việt Nam đã, đang và tiếp tục khẳng định vị thế tích cực, có trách
nhiệm của mình trong Hiệp hội cũng như trong hoạt động ngoại giao phòng ngừa
nói riêng.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói, trong nền ngoại giao đương đại, khi sự liên kết và phụ
thuộc lẫn nhau tăng cao trong mọi mặt của đời sống, việc giữ gìn hòa bình an
ninh cho phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia trở nên cấp thiết nhưng cũng khó
khăn hơn trước. Điều đó khiến cho Ngoại giao phòng ngừa được áp dụng ngày
càng nhiều, khẳng định được vị trí và hiệu quả của nó bên cạnh các hoạt động
ngoại giao khác. Thực tế việc sử dụng các biện pháp Ngoại giao phòng ngừa
trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã chứng tỏ đây là biện
pháp hữu hiệu nhằm xử lý và ngăn chặn các cuộc xung đột khu vực cường độ
thấp, đặc biệt ở những nơi có điều kiện chính trị, xã hội và địa lý phức tạp, bởi lẽ
Ngoại giao phòng ngừa có tác dụng quan trọng là củng cố nền hòa bình lâu dài
theo phương cách phù hợp với đặc trưng của từng nước và của khu vực.