ĐẠI HỌC HOA SEN
LỚP TIN HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ ÁN
INTER
NET
ÂM NHẠC VIỆT NAM QUA
TỪNG GIAI ĐOẠN
ĐẠI HỌC HOA SEN
LỚP TIN HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ ÁN
INTER
ÂM NET
NHẠC
VIỆT
GVHD:
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THỰC HIỆN
Stt
1
2
3
4
5
Tên Thành Viên
Trần Kim Phúc Thảo (Trưởng nhóm )
Trần Nguyễn Bích Phương
Lâm Anh Diệu
Trần Ngọc Anh Thư
Hoàng Thị Thảo Vy
Tp.HCM, ngày 1 tháng 12 năm 2012
Ngày nộp báo cáo : 8/12/2012
Người nhận báo cáo (Ký tên và ghi rõ họ tên):
MSSV
2004853
2004970
Trích yếu
MỤC TIÊU CHÍNH của bài báo cào này là chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về lịch
sự phát triển cũng như ý nghĩa và tác động của âm nhạc qua từng chặng đường lịch
sử của đất nước cho đến nay. Chúng tôi đã vận dụng những kiến thức đã được học
để viết nên bài báo cáo này, ngoài ra chúng tôi còn sử dụng những thông tin khác
trên Internet hay những công cụ tìm kiếm để hộ trợ thêm.
CÁC PHƯƠNG PHÁP TÌM KIẾM THÔNG TIN ĐÃ SỬ DỤNG : search google ->
gõ từ khóa :
Âm nhạc dân tộc việt nam, các giai đoạn của âm nhạc, lịch sử hình thành âm nhạc
CÁC KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA BÁO CÁO TÌM RA :
Âm nhạc là sự sáng tạo của nhân loại. Qua thời gian, âm nhạc có sự hòa quyện cùng
nhau. Ta nên hiểu rõ âm nhạc của từng dân tộc, nhận ra tinh hoa của nó để tiếp thu
có chọn lọc trong quá trình giao lưu âm nhạc giữa các dân tộc trên thế giới. Cuối
cùng, hiểu rõ sự hình thành và phát triển của âm nhạc Việt Nam qua từng giai đoạn
CÁC KẾT LUẬN CHÍNH :
Nhạc Việt cũng bước qua từng thời kì lịch sử và ngày càng hoàn thiện
Mục lục
Trang
Trích yếu..............................................................................................II
Mục lục.................................................................................................III
1.
2.
Nhập đề.......................................................................................1
Nội dung......................................................................................2
2.1 Định nghĩa.........................................................................2
2.2 Lợi ích của âm nhạc..........................................................3
2.3 Âm nhạc qua các giai đoạn..............................................4
Chương mở đầu :
Nhạc xưa.................................................................................
Nhạc cổ điển...........................................................................
Cải lương................................................................................
Chương I : Thánh ca
1.
định nghĩa
2.
các cấp bậc khi tham gia hát thánh ca
3
các bản văn và các bài hát dùng trong thánh lễ
3.1 Các bản văn
3.1.1. Cố định
3.1.2. Uyển chuyển
3.2 Các bài hát
3.2.1. Ca nhập lễ
3.2.2. Kinh Thương xót
3.2.3. Kinh Vinh danh
3.2.4. Thánh vịnh đáp ca
3.2.5. Dâng lễ
3.2.6. Bài Thánh Thánh Thánh
3.2.7. Lạy Chiên Thiên Chúa
3.2.8. Ca hiệp lễ
3.2.9. Kết lễ
Chương II : Tình khúc 1954-1975
1 Bối cảnh ra đời
2 Tình khúc 1954-1975 và nhạc vàng
3 Các nhạc sĩ tiêu biểu
4 Trước 1975 tại miền Nam
5 Sau 1975
5.1 Tại hải ngoại
5.2 Tại Việt Nam
6. Nhận định
Chương III : Nhạc vàng
1 Lịch sử
1.1 "Nhạc vàng" ở phía Nam vĩ tuyến 17
1.2 "Nhạc màu vàng" ở phía Bắc vĩ tuyến 17
1.3 Nhạc vàng sau năm 1975
1.3.1 Thời kỳ cấm đoán
1.3.2 Hạn chế nhưng không còn cấm toàn bộ
Chương IV : Nhạc phản chiên của Trịnh Công Sơn
1 Phản ứng của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam
Cộng hòa
Chương V : Phong trào du ca Việt Nam
1 Tổ chức
2 Thành phần nhạc sĩ
3 Nhạc tính và nội dung
Chương VI : Nhạc tiền chiến
1 Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến
2 Ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương
3 Tân nhạc hình thành 1938
4 Các nhóm nhạc
4.1 Nhóm Myosotis
4.2 Nhóm Tricéa
4.3 Nhóm Đồng Vọng
4.4 Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
5 Giai đoạn 1945-1954
6 Sau 1954 ở miền Nam
7 Số phận nhạc tiền chiến sau 1975
7.1 Tại Việt Nam
7.2 Ở hải ngoại
Chương VII : Tân nhạc
1 Bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ 20
2 Giai đoạn tượng hình
3 Giai đoạn thành lập 1938-1945
3.1 Nhạc tiền chiến
3.2 Các nhóm nhạc
3.3 Các nhạc sĩ độc lập
4 Giai đoạn kháng chiến 1945-1954
5 Giai đoạn 1954-1975
5.1 Miền Bắc
5.2 Miền Nam
5.2.1 Dòng nhạc tiền chiến
5.2.2 Tình khúc
5.2.3 Nhạc vàng
5.2.4 Nhạc trẻ
5.2.5 Nhạc phản chiến
5.2.6 Phong trào du ca
5.2.7 Các nhạc sĩ khác
6 Giai đoạn sau 1975
6.1 Giai đoạn 1975-1996
6.1.1 Trong nước
6.1.2 Hải ngoại
6.2 Giai đoạn 1996 đến nay
6.2.1 Hải Ngoại
6.2.2 Trong nước
7 Tân nhạc Việt Nam đương đại
Chương VIII : Nhạc đỏ
1 Giai đoạn 1945-1954
2 Giai đoạn 1954-1975
3 Giai đoạn sau 1975
4 Chủ đề sáng tác
Chương IX : Ca ngợi Hồ Chí Minh
Chương X : Ca ngợi Đảng
Chương XI : Tình yêu
Chương XII : Nhạc hải ngoại
1 Trào lưu dòng nhạc hải ngoại
1.1 Đề tài hoài niệm
1.2 Đề tài phản kháng, đấu tranh
1.3 Tình ca tái xuất hiện
1.4 Sinh hoạt ca
1.5 Thể nhạc mới
2 Thể loại và những nghệ sĩ tiêu biểu
2.1 Nhạc cổ truyền / Dân ca dân nhạc
2.2 Nhạc giao hưởng, nhạc kịch Tây phương
2.3 Nhạc mới, nhạc đương đại
2.4 Nhạc nước ngoài lời Việt
2.5 Tân nhạc / Tình ca
2.5.1 Nối kết nhạc trong nước
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Kết luận.......................................................................................
Hướng dẫn cách tìm kiếm các website lien quan đến đề tài.....
Phương pháp tìm thông tin.........................................................
Danh mục hình ảnh và bài hát....................................................
Danh mục các website liên quan................................................
Lời cảm ơn..................................................................................
Phụ lục.........................................................................................
1.NHẬP ĐỀ
m nhạc đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong
cuộc sống của con người. Âm nhạc có thể chia sẻ với
chúng ta rất nhiều điều : Giải quyết những khó khăn
trong cuộc sống, vơi đi những hờn giận vu vơ, đưa
người về dĩ vãng, tìm lại tuổi thơ yêu dấu, nghe lòng bồi hồi, xao
Â
xuyến với tình yêu quê mẹ, với nắng ấm quê cha, sống dậy lòng
tự hào dân tộc, khát vọng tìm về chân lý…
Ngay từ thời thượng cổ, âm nhạc đã được ra đời cùng với
đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất của các cộng đồng người
nguyên thuỷ. Kể từ đấy, âm nhạc đã không ngừng được phát
triển và hoàn thiện cùng năm tháng. Quả thật, âm nhạc có sức
ảnh hưởng lớn đến con người, đến sự hình thành và phát triển
nhân cách nơi mỗi người.
Như các loại hình nghệ thuật khác, nội dung âm nhạc cũng
phản ánh hiện thực của cuộc sống. Bằng nét đặc thù riêng của
mình, âm nhạc đã phản ánh hiện thực cuộc sống một cách ước lệ
và trừu tượng. Âm nhạc mô tả các sự vật, hiện tượng trong cuộc
sống. Âm nhạc còn có thể thể hiện quan điểm sống và chuyển tải
tư tưởng.
Đấy là những nội dung mà âm nhạc có thể chuyển tải. Có
một vai trò nữa của âm nhạc mà không ai có thể phủ nhận được,
đó là sự tham gia và hỗ trợ trong các dịp lễ hội và giải trí cộng
đồng, trong sự chuyển động của tập thể (diễu hành), dùng làm
phương tiện để nghỉ ngơi, giải trí.
2.Nội dung
2.1
Định nghĩa:
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn
đạt tình cảm, cảm xúc của con người. Nó được chia ra hai loại
chính: thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là âm nhạc dựa trên
lời hát thể hiện rõ ý tưởng và tình cảm. Còn khí nhạc là âm nhạc
dựa trên âm thanh thuần tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng,
gây cảm giác và sự liên tưởng.
Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu hiệu cũng như chữ viết
được dùng để ghi lại âm thanh với các đặc tính của chúng. Môn
ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký hiệu âm nhạc trên giấy.
Có các ký hiệu âm nhạc dùng để quy định cao độ, trường độ,
cường độ cho bản nhạc.
Hinh a .Một bản nhạc
2.2
Lợi ích của âm nhạc:
Nhiều người tin rằng âm nhạc có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển về mặt thể chất, cảm xúc, nhận thức, xã hội và cải
thiện chất lượng cuộc sống. Sau đây, Tôi xin liệt kê một số lợi
ích mà âm nhạc mang lại cho chúng ta:
- Giảm stress: Stress có liên quan đến nhiều căn bệnh, bao
gồm một số bệnh về tâm thần mà dường như chỉ xảy ra ở những
người vượt quá mức độ căng thẳng. Âm nhạc sẽ giúp giảm đáng
kể mức độ căng thẳng, lo âu của họ.
- Giảm đau: Âm nhạc có khả năng giảm đau qua việc sản
sinh một lượng lớn endorphins như một thuốc giảm đau tự nhiên.
Nghe nhạc còn làm mọi người cảm thấy kiểm soát được nỗi đau
của họ, giảm trầm cảm.
- Kích thích tế bào não: Nghiên cứu đã chỉ ra rằng âm
nhạc với một nhịp mạnh có thể kích thích nguồn xung điện trong
não để cộng hưởng đồng bộ với nhịp, với nhịp đập nhanh hơn
mang lại sự tập trung nhạy bén hơn. Mặt khác, nghe nhạc cổ điển
nhẹ nhàng cải thiện khả năng tập trung trong một thời gian dài
hơn, mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thư thái.
- Lợi ích tim mạch: Nghe nhạc nhẹ nhàng giúp giảm huyết
áp, giảm nguy cơ đột quỵ và nhiều vấn đề sức khỏe khác.
- Nâng cao hiệu suất tập luyện thể dục: Nghe nhạc trong
khi bạn tập thể dục có thể có một tác động đáng kể về hiệu suất
tập luyện của bạn. Âm nhạc làm chệch hướng sự chú ý của bạn
trong các bài tập thể dục lặp đi lặp lại. Vì thế, nó giúp bạn xua
tan cảm giác kiệt sức, mệt mỏi và chán nản.
- Tăng lạc quan: Âm nhạc mang lại một tâm trạng phấn
chấn cùng với lối sống tích cực và năng động. Nhạc hay đem lại
một khoảnh khắc đáng nhớ. Âm nhạc còn giúp tăng thêm tự tin
trong cuộc sống.
- Thúc đẩy một giấc ngủ ngon: Nghe nhạc sẽ đưa chúng
ta vào giấc ngủ sâu, với một trạng thái thư giãn.
- Kết nối cộng đồng: Âm nhạc là cầu nối tuyệt vời cho mọi
người cùng kết bạn, cùng chia sẻ niềm đam mê.
- Hỗ trợ bệnh nhân ung thư: Giảm sự lo lắng ở những bệnh
nhân trong quá trình xạ trị cũng như giảm buồn nôn từ việc điều
trị bằng hóa chất liều cao.
Hình b.Giảm stress bằng việc nghe nhạc
Chương mở đầu :Nhạc xưa
Như vậy , để hiểu rõ hơn về âm nhạc Việt Nam hãy cùng bước chân theo
nhóm mình để tìm hiểu âm nhạc qua từng thời kỳ , từ những khoảng thời gian
xa xưa nhất
Những bài thánh ca được sáng tác để chuyển tải các thông điệp của Kinh
Thánh hoặc theo ý nghĩa của các thánh lễ như Tiệc Thánh hoặc Rửa tội.
Trong Công giáo Rôma, Chinh Thống giáo, và nhóm Công giáo Anh thuộc
Anh giáo có một số thánh ca dành cho các thánh, nhất là Đức Mẹ Maria.
Từ thời kỳ hội thánh sơ khai, hát thánh ca đã thủ giữ vai trò quan trọng trong
lễ thờ phượng.[1] Những bài thánh ca tôn vinh Chúa bởi giáo đoàn hoặc ca
đoàn, thường có phần nhạc đệm. Thời xưa, các nhạc cụ phổ biến là đàn harp,
đàn lyre và đàn lute được dùng để hỗ trợ khi hát thi thiên hoặc thánh ca. Ngày
nay các loại nhạc cụ này được thế chỗ bởi đàn dương cầm (piano) hoặc
phong cầm (organ), ngay cả là các dàn nhạc giao hưởng, được dùng để chúc
tụng và tôn thờ Thiên Chúa. Cũng có nhiều bài thánh ca được sáng tác để tôn
vinh Chúa Giê-xu.
Nhạc cổ điển là dòng nhạc nghệ thuật được sản xuất, hoặc được bắt nguồn từ
truyền thống tế lễ ở phương Tây và nhạc thế tục, bao gồm một khoảng thời
gian rộng lớn từ khoảng thế kỷ thứ 11 đến thời điểm hiện tại. Các tiêu chuẩn
chính của loại nhạc truyền thống này được hệ thống hóa giữa những năm
1550 và 1900Thể loại nhạc này cho phép mọi người có thể biểu diễn tùy
hứng và cải biên tự do, mà chúng ta thường xuyên được nghe trong những
dòng nhạc nghệ thuật không bắt nguồn từ châu Âu (như trong nhạc Ấn Độ cổ
điển và nhạc dân gian của Nhật Bản) và nhạc thị trường
Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam,
hình thành trên cơ sở dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ.
Giải thích chữ "cải lương" theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần Văn Khê cho
rằng: "cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn", thể hiện qua sân khấu biểu
diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài bản.
Về thời gian ra đời, theo Vương Hồng Sển: tuy "có người cho rằng cải lương
đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918", nhưng theo ông thì kể từ ngày 16
tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà Hát
Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới "bành trướng không thôi, mở đầu cho
nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân,
vừa cải cách...nên cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ..."
Nhạc tiền chiến là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm
hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930.
Các bài hát tiền chiến thường có giai điệu trữ tình và lời ca giàu chất văn học.
Ban đầu khái niệm nhạc tiền chiến dùng để chỉ dòng nhạc mới tiếng Việt theo
âm luật Tây phương trước khi nổ ra chiến tranh Việt - Pháp, sau khái niệm
này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong chiến tranh (1946–1954) cùng
phong cách trữ tình lãng mạn, như Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Sơn nữ ca
của Trần Hoàn, "Trăng Mờ Bên Suối" của [(Lê Mộng Nguyên)]... và cả sau
1954 đối với một số nhạc sĩ miền Nam như Phạm Đình Chương, Cung Tiến...
Chương I : CA HÁT TRONG THÁNH LỄ
1.Định nghĩa
Ca hát là một nhu cầu cần thiết và chính đáng trong thánh lễ. Thường có lễ là hát. Hát nhiều hay ít là tùy
cấp bậc của lễ. Huấn thị De musica in sacra liturgia (Về âm nhạc trong phụng vụ ngày 5.3.1967) .Tuy nhiên,
vì lý do lợi ích mục vụ, có thể đề ra những cấp bậc tham gia lễ hát, ngõ hầu từ nay về sau, mỗi cộng đoàn,
tùy phương tiện sẵn có, dễ dàng cử hành thánh lễ trọng thể hơn nhờ ca hát.
2. các cấp bậc khi tham gia hát thánh ca
Cách sử dụng các cấp bậc tham gia được qui định như sau. Bậc nhất có thể dùng riêng một mình,
bậc hai và bậc ba chỉ được dùng tất cả hay một phần chung với bậc nhất. Như vậy, các tín hữu sẽ
luôn luôn được khuyến khích dự phần ca hát một cách đầy đủ.
2.1 Bậc nhất gồm có :
* Trong nghi thức nhập lễ :
- Lời chào của linh mục và lời đáp của giáo dân
- Lời nguyện
* Trong phần phụng vụ Lời Chúa
- Các câu tung hô Tin Mừng
* Trong phần phụng vụ Thánh Thể
- Lời nguyện tiến lễ
- Kinh Tiền tụng với những câu đối đáp và Kinh Thánh Thánh Thánh
- Lời ca tụng kết Kinh Tạ ơn
- Kinh Lạy Cha với lời nhắn nhủ và lời cầu nguyện tiếp
- Lời chúc bình an
- Lời nguyện hiệp lễ
- Những công thức kết lễ
2.2 Bậc hai gồm :
- Kinh Xin Chúa thương xót, Kinh Vinh danh và Lạy Chiên Thiên Chúa
- Kinh Tin kính
- Lời nguyện giáo dân
2.3 Bậc ba gồm :
- Những bài hát lúc nhập lễ và rước lễ
- Bài hát sau bài Cựu Ước hoặc Thánh thư Ha-lê-lui-a trước khi đọc Tin Mừng
- Bài hát tiến lễ
- Các bài đọc sách thánh, trừ khi thấy nên đọc hơn là hát.
Tại một vài nơi được đặc quyền, người ta thường dùng những bài hát khác thay thế các bài ca nhập
lễ, tiến lễ và hiệp lễ trong sách Graduale. Có thể giữ như thế tùy phán quyết của Đấng Bản quyền
địa phương, miễn là những bài hát đó hợp với các phần trong thánh lễ và ngày lễ cũng như mùa
phụng vụ. Thẩm quyền địa phương phải phê chuẩn lời ca trong những bài hát đó.
Cộng đoàn tín hữu nên hết sức tham gia phần riêng lễ. Điều ấy có thể thực hiện được, nhất là khi
có những điệp khúc dễ hát và những hình thức âm nhạc thích hợp.
* Các nhạc sĩ và ca sĩ phải tránh chiếm cung thánh. Phải hết sức tỏ lòng tôn kính bàn thờ, giảng đài
và ghế của vị chủ tọa.
* Phải cất Mình Thánh Chúa đi nơi khác.
* Phải có lời giới thiệu trình bày nhạc phẩm sắp trình diễn không nguyên về phương diện lịch sử
nghệ thuật mà thôi, nhưng còn về phương diện tâm linh nữa, để thính giả có thể hiểu kỹ hơn và
tham dự thấm thía hơn.”
Khi nói đến phụng vụ ca hát là có ý nói riêng đến việc hát trong thánh lễ, trong các giờ kinh phụng
vụ hay trong khi cử hành các bí tích, vì theo đúng nghĩa, chỉ những bài hát dùng trong ba địa hạt
này mới gọi là phụng vụ.
Thường người ta chưa phân biệt rõ thánh ca phụng vụ với thánh ca nói chung, đành rằng thánh ca
hiện nay bao gồm nhiều thứ như ca khúc bình dân tôn giáo, nhạc có khởi hứng và tâm tình đạo,
nhạc đa âm hợp xướng, nhạc phụng vụ. Các loại nhạc thánh ca khác có thể được hát trong nhà thờ
ngoài khung cảnh phụng vụ mà chưa chắc đã được hát trong thánh lễ, vì muốn được hát trong
thánh lễ thì những bài đó phải hợp với phụng vụ, nghĩa là lời rút ra từ các bản văn Kinh thánh và
phụng vụ, đã được Hội thánh chọn lọc, lại phải hợp với phần đoạn của thánh lễ, ví dụ đem bài hát
về Đức Mẹ hay kính các thánh mà hát vào lúc rước lễ hay sau khi rước lễ là không hợp rồi.
Nhiều nơi đã đưa vào hát trong nhà thờ các bài Wedding, One day, Hymne à la joie, Uống nước
nhớ nguồn, Ơn nghĩa sinh thành, v.v. .. Hát trong nhà thờ thì chắc chắn là không được rồi, có
chăng là hát tại lễ gia tiên ở nhà hay ở các phòng lễ hội cho vui chứ không phải ở nhà thờ.
3:các bản văn và các bài hát dùng trong thánh lễ
3.1 Các bản văn
3.1.1. Cố định
Có hai loại bản văn dùng trong thánh lễ, một loại cố định còn một loại có thể thích nghi, uyển
chuyển. Loại cố định là lời văn trong Kinh Thương xót, Vinh danh, Tin kính, Thánh Thánh Thánh,
Lạy Chiên Thiên Chúa, Lời tiền tụng, Kinh Lạy Cha, Kinh nguyện Thánh Thể, các câu tung hô
xướng đáp.
3.1.2. Uyển chuyển
Phải hết sức cổ võ cho dân chúng hát, dù dưới những hình thức mới thích hợp với hồn dân tộc và
não trạng của người thời nay. Các Hội Đồng Giám mục sẽ cho làm một tuyển tập các bài hát để
dùng cho các nhóm riêng như thanh niên hay nhi đồng, nhưng phải liệu sao cho lời ca, âm nhạc,
nhịp điệu và nhạc khí phù hợp với vẻ trang trọng và thánh thiện của nơi thờ phượng và việc thờ
phượng.
3.2 Các bài hát
Các bài hát trong thánh lễ là ca nhập lễ, bộ lễ, dâng lễ, hiệp lễ và kết lễ. Thường trong các nhà thờ
của chúng ta vẫn thấy làm như thế. Có điều phải nói là quá ồn ào, bài hát chọn lựa không được kỹ
cho đúng với tinh thần của mùa phụng vụ và các phần đoạn của thánh lễ.
3.2.1. Ca nhập lễ
Mục đích của bài ca này là mở đầu thánh lễ, tạo bầu khí phấn khởi, cho thấy ý nghĩa của mùa
phụng vụ hay ngày lễ. Lý tưởng là cả nhà thờ cùng hát, nhất là khi có rước chủ tế ra hành lễ. Nên
chọn bài hát phổ thông để mọi người có thể cùng hát. Về cách hát thì có thể hát theo ba cách.
Cách thứ nhất là ca đoàn và cộng đoàn; cách thứ hai là một xướng ca viên và cộng đoàn; cách thứ
ba là toàn thể cộng đoàn. Nhưng thực tế thì xem ra người ta hay có thói quen để cho một mình ca
đoàn hát.
3.2.2. Kinh Thương xót
Đây là một bài hát xưng tụng và kêu cầu lòng thương xót của Chúa. Hình thức xứng hợp nhất để
hát kinh này là xướng đáp. Một người hay ca đoàn xướng rồi mọi người trong cộng đoàn đáp lại.
Lối xướng đáp ở đây có tính tung hô, nên phải đơn sơ dễ hát.
3.2.3. Kinh Vinh danh
Bản chất của bài này là ca tụng vinh quang Chúa Ba Ngôi. Đây là một bài thánh thi bằng văn xuôi
có nhịp điệu, nên phải hát thế nào để biểu lộ được niềm hân hoan và mối đồng tâm của những
người tham dự. Vì thế có thể hát chung với nhau hay chia làm hai bên luân phiên nhau, giữa ca
đoàn với cộng đoàn hay giữa hai bên cộng đoàn với nhau.
3.2.4. Thánh vịnh đáp ca
Chúa nói trong bài đọc 1. Hội thánh đã xem những bài đó và tìm ra những đoạn thánh vịnh tương
ứng đặt trong bài đáp ca.
3.2.6. Bài Thánh Thánh Thánh
Bài này là một bài tung hô mạnh mẽ phấn khởi, được thể hiện trong tư thế thờ lạy kính cẩn, nhấn
mạnh đặc biệt khi hát câu “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”
3.2.7. Lạy Chiên Thiên Chúa
Đây là bài hát của cộng đoàn dưới hình thức kinh cầu, diễn tả ý nghĩa của nghi thức bẻ bánh. Cử
chỉ bẻ bánh có liên hệ đến cuộc thọ hình của Chúa Giê-su. Người như tấm bánh được bẻ ra để phân
chia cho mọi người. Sự hy sinh của Người là dành cho mọi người, và ai cũng được thừa hưởng
công ơn của việc hy sinh này.
3.2.8. Ca hiệp lễ
Bài ca hiệp lễ có thể đi kèm với việc tiến lên rước lễ, bày tỏ mối dây hiệp nhất giữa những người
rước lễ và niềm vui trong tâm hồn. Có thể hát đối đáp giữa ca đoàn và cộng đoàn, giữa một xướng
ca viên và cộng đoàn hoặc dạo một bài đàn. Cũng không cần phải hát cho đầy trong suốt khoảng
thời gian rước lễ. Có thể có những lúc yên lặng, rồi một người nói lên một vài câu lấy từ trong bài
Tin Mừng hay các bài sách thánh ngày hôm đó. Lúc này chỉ hát những bài tạ ơn, ca tụng thờ lạy
Chúa chứ không hát về Đức Mẹ hay các thánh.
3.2.9. Kết lễ
Trong các nhà thờ ở Việt Nam, thường sau lời chúc bình an kết lễ, vẫn có thói quen hát một bài.
Bài này có thể bỏ, nếu muốn, và thay vào đó bằng một bản đàn. Có thể hát về Chúa, Đức Mẹ hay
các thánh tùy ýTrên đây là một vài nét về Phụng vụ ca hát trong thánh lễ, dựa vào các bản văn qui
định và những bản văn được phép thích nghi cùng những nhận xét và kinh nghiệm cá nhân của
người viết.
Tác giả: Đỗ Xuân Quế, Lm.
Nguồn: dunglac.org
Chương III : Tình khúc 1954-1975
Tình khúc 1954-1975 hay tình ca 1954-1975 là một dòng nhạc thuộc tân nhạc Việt Nam. Đây là khái niệm
không thật chính xác để chỉ một số các ca khúc được sáng tác tại miền Nam Việt Nam trong khoảng thời gian
từ 1954 đến 1975.
Những nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này có thể kể đến Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Lê Uyên
Phương, Vũ Thành An, Từ Công Phụng... với các ca khúc Trả lại em yêu, Áo lụa Hà Đông
Bối cảnh ra đời
Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, tạm thời chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập
trung quân sự tại vĩ tuyến 17. Tại miền Bắc Việt Nam, các nhạc sĩ không còn sáng tác tình ca và những
ca khúc tiền chiến viết trước đó không được lưu hành
Tại miền Nam Việt Nam, nền tân nhạc được phát triển tự do và đa dạng. Một số nhạc sĩ từ miền Bắc di cư
vào miền Nam. Họ cùng với các nhạc sĩ ở miền Nam hoặc từ miền Bắc vào trước đó đã viết các ca khúc
thuộc nhiều thể loại, khác biệt với dòng nhạc đỏ duy nhất ở miền Bắc.
Sau 1975
Tại hải ngoại
Sau sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm 1975, cũng như dòng nhạc vàng, tình khúc 1954-1975
đều bị cấm lưu hành tại Việt Nam. Nhưng những ca khúc này cũng với nhạc tiền chiến và nhạc vàng trở thành
dòng nhạc chủ đạo của người Việt tại hải ngoại. Một số các nhạc sĩ sang định cư ở nước ngoài vẫn tiếp tục sáng
tác và có những ca khúc thành công như Riêng một góc trời của Ngô Thụy Miên, Ngoài những ca sĩ thành danh
ở Sài Gòn trước 1975 như Khánh Ly, Lệ Thu, Tuấn Ngọc... tình khúc 1954-1975 tiếp tục được các ca sĩ trẻ của
hải ngoại như Trần Thái Hòa, Nguyên Khang,Thanh Hà... trình bày.
Tại Việt Nam
Tình khúc 1954-1975 và nhạc vàng không được lưu hành tại Việt Nam, cho tới khoảng đầu thập niên 2000, mới
dần dần được phép hát trở lại.
Gần đây nhiều ca sĩ trẻ như Quang Dũng, Hồ Ngọc Hà, Đức Tuấn... đã ghi âm nhiều ca khúc thuộc dòng nhạc
này và cùng với sự trở về của các ca sĩ hải ngoại Tuấn Ngọc, Elvis Phương, Duy Quang, tình khúc 1954-1975
đã được giới trẻ hiện nay yêu thích..
Nhận định
Đầ
u
th
ập
ni
ên
70
là
lú
c
N
hạ
c
Vi
ệt,
tro
ng
ph
ạ
m
vi
ca
kh
úc
,
ph
át
tri
ển
đế
n
tột
độ
.
Có
sự
th
àn
h
cô
ng
củ
a
nh
ữn
g
bà
i
há
t
th
ôn
g
th
ườ
ng
và
ch
ỉ
đư
ợc
co
i
là
nh
ạc
th
ươ
ng
ph
ẩ
m
-m
ện
h
da
nh
là
nh
ạc
và
ng
-vớ
i
nh
ữn
g
tìn
h
cả
m
dễ
dã
i
ph
ù
hợ
p
vớ
i
tu
ổi
ch
oa
i
ch
oa
i,
vớ
i
e
m
gá
i
hậ
u
ph
ươ
ng
và
lín
h
đa
tìn
h,
tu
y
kh
ôn
g
đư
ợc
co
i
trọ
ng
nh
ưn
g
lại
rất
cầ
n
thi
ết
ch
o
và
i
tầ
ng
lớ
p
xã
hộ
i
tro
ng
th
ời
ch
iế
n.
Rồ
i
có
ph
on
g
trà
o
du
ca
và
tâ
m
ca
vớ
i
nh
ữn
g
bà
i
há
t
ph
ith
ươ
ng
m
ại,
đi
kè
m
vớ
i
tìn
h
ca
qu
ê
hư
ơn
g
và
trư
ờn
g
ca,
nó
i
lê
n
đư