ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
ĐỊA VĂN HÓA THẾ GIỚI
SÔNG HẰNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA ẤN ĐỘ
GV: ĐINH THỊ DUNG
SV: NGUYỄN THỊ VÂN
MSSV: 1056140060
1
Lớp: Văn hóa học k04
TPHCM, tháng 1 năm 2013
MỤC LỤC
Mục lục hình ảnh
2
1. Lí do chọn đề tài
Ấn Độ xưa nay luôn được nhân loại xem là một trong những quốc gia huyền
bí nhất thế giới. Sự huyền bí ấy bao gồm cả thiên nhiên, con người, văn hóa… đặc
biệt là lãnh vực tín ngưỡng tâm linh. Và một trong những điểm tín ngưỡng nổi bật
của Ấn Độ hàng ngàn năm nay là tín ngưỡng sông Hằng.
Sông Hằng được xem là một trong những con sông nổi tiếng không chỉ vì nó
là một trong những con sông lớn nhất, dài nhất, mà vì nó là cội nguồn của Ấn giáo
(Hindu giáo), là tín ngưỡng thiêng liêng của gần một tỷ người; không những thế,
đây cũng là con sông được nhắc đến nhiều nhất trong kinh điển Phật giáo. trong
điểm đến đất nước tuyệt đẹp của Ấn Độ thì không thể kể đến sông Hằng được xem
như là dòng sữa mẹ linh thiêng, bắt nguồn từ dãy Hy Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết
phủ. Đây là một trong những con sông dài nhất thế giới, và theo thần thoại Hindu,
là con gái của Đức Chúa Trời núi Himalaya. Dọc theo con sông có những thành
phố để ngắm cảnh sông huyền bí . Sông Hằng được xem là một trong những cái
nôi văn hóa lâu đời nhất trong lịch sử loài người, đây là con sông thiêng liêng và
có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân Ấn Độ về cả kinh tế lẫn tôn giáo.
Tuy nhiên trong những năm gần đây Sông hằng đang dần trở thành một
bãi rác của Ấn Độ. Tập tục thả các xác chết trôi sông của người dân Ấn độ, cũng
như rác thải từ các nhà máy công nghiệp, cùng rác thải sinh hoạt thải ra sông đang
dần giết chết con sông xinh đẹp này. Cá nhân tôi rất thích văn hóa ấn Độ và cũng
rất yêu thích dòng sông Hằng cho nên tôi đề chọn đề tài: Sông Hằng trong đời
sống người dân Ấn Độ, làm đề tài cho tiểu luận giữa kì môn địa văn hóa để giúp
các bạn đọc hình dung được một phần nào ý nghĩa của con sông Hằng trong đời
sống người dân Ấn Độ.
3
2. Nội dung
2.1. Khái quát về vị trí địa lý của Đất nước Ấn độ và sông Hằng
2.1.1. Lịch sử hình thành và vị trí địa lí Ấn Độ
“Ấn Độ (tiếng Hindi: Bharat; Trung Quốc gọi là: Thiên Trúc , Quyên
Độc là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết bán đảo Ấn Độ. Ấn Độ có ranh giới
với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan.
Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và
đồng thời lớn thứ bảy về diện tích”1.
Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng
8năm 1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những
người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn
minh sôn Ấn phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng của
bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh.
Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc
Anh. Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi, người
được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh trao trả
độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng Anh đã
quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu là Ấn
Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm hai phần: phần
phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan sau này là Bangladesh, phần phía tây gọi
là Tây Pakistan Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay. Hai phần lãnh thổ này cách
nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ.
1 Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
4
2.1.2. Sông Hằng và vị trí
Ấn Độ có hai con sông lớn và rất nổi tiếng là sông Ấn và Sông Hằng là con
sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ.
Sông Hằng dài 2.510 km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn
Độ, chảy theo hướng Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào vịnh Bengal. Tên
của sông được đặt theo tên vị nữ thần Hindu Ganga. Sông Hằng có lưu vực rộng
907.000 km², một trong những khu vực phì nhiều và có mật độ dân cao nhất thế
giới. Sông có độ dài 2510 km , thượng nguồn sông băng Gangotri. Cửa sông là
vịnh Bengal.
Sông Hằng được tạo thành bởi
hai con sông đầu nguồn là sông
Bhagirathi và sông
Alaknanda ở
dãy
núi Himalaya của
bang Uttaranchal thuộc Ấn Độ. Nguồn
nước thường được mọi người thừa nhận
là sông Bhagirathi, một con sông bắt
nguồn từ một động băng tại độ cao 4.000 Hình
m và
là con sông nhỏ hơn trong hai chi
: Hình ảnh Sông Hằng buổi hoàng hôn
(trantrungdao.com)
lưu của sông Hằng. Sông Alaknanda bắt nguồn
từ khu vực nằm dưới đỉnh Nanda
Devi (7.817 m/25.646 ft) gần biên giớiTây Tạng. Được tạo thành từ những khối
băng tuyết tan ra từ các địa điểm như Gangotri và các đỉnh như Nanda
Devi và Kamet (7.756 m/25.446 ft), hai sông nhánh này chảy về phía Nam qua
trung độ Haymalaya đến nơi hội tụ của chúng để tạo nên sông Hằng.
Sau khi chảy hơn 200 km (125 dặm), sông Hằng đến thành phố
Haridwar (độ cao 310 m/1.020 ft), nơi nó xẻ dọc Dãy núi Siwalik và bắt đầu chảy
theo hướng nhìn chung là Đông-Nam qua Đồng bằng sông Hằng. Tại Haridwar,
một con đập đã chuyển hướng nước đến Kênh thượng lưu sông Hằng.
5
2.2. Ý nghĩa của sông Hằng trong đời sống người dân Ấn
2.2.1. Ý nghĩa về kinh tế
Lưu vực sông Hằng là khu vực đông dân nhất, sản xuất nông nghiệp lớn
nhất và rộng lớn nhất ở Ấn Độ. Ở châu Á, chỉ có vùng Bình nguyên Hoa Bắc của
Trung Quốc và đồng bằng sông Hồngcủa Việt Nam là có mật độ dân cư tương tự ở
lưu vực này. Ở phần phía Tây của đồng bằng sông Hằng, con sông này cung cấp
nước tưới và một hệ thống kênh rạch chằng chịt với các kênh huyết mạch chính
là Kênh Thượng lưu sông Hằng và Kênh Hạ lưu sông Hằng. Các loại lương thực
và hoa màu trồng trọt và thu hoạch ở khu vực này có: lúa, mía đường, đậu lăng, hạt
có dầu,khoai tây và lúa mỳ. Hầu như cả khu vực đồng bằng sông Hằng đã bị khai
hoang hết rừng cây và cỏ để phục vụ cho nông nghiệp. “Sông Hằng là con sông
lớn, lại chảy giữa lòng đất Ấn, vun bồi phù sa màu mỡ, bồi đắp hằng năm để tạo
thành một đồng bằng rộng lớn, một bình nguyên thoáng mát, trù phú, cung cấp
lương thực cho hàng trăm triệu người dân.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến người dân Ấn yêu quý, kính
ngưỡng và dần dần thần thánh hóa dòng sông. Sông Hằng không những là “vùng
đất hứa” cho người dân xứ Ấn mà còn thu hút người dân các nước khu vực như
Afganistan, Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả-rập, v.v… đến sinh sống đông đúc dọc theo
hai bên bờ”2. Chính sự gặp gỡ của người bản xứ và người nhập cư đã làm cho nền
văn hóa Ấn Độ càng đa dạng và phong phú hơn. Cho đến nay, số người sống ở
đồng bằng sông Hằng đã hơn ba trăm triệu người và đã được ghi vào sách Kỷ lục
thế giới về mật độ dân cư sống đông đúc nhờ vào nguồn lợi của dòng sông. Thông
2 5000 năm lịch sử văn hóa Ấn Độ
Chuyên mục: Văn hoá nghệ thuật - Du lịch Tác giả: Anjana Mothar Chandra
Nhà xuất bản: Nhà sách Văn Lang (xb: 2009)
6
thường, hai bên bờ sông Hằng có các vùng đầm lầy và các hồ nước. Ở các khu vực
đầm lầy và các khu vực ao hồ này, người ta trồng rau, lúa, ớt, cây mù
tạc, vừng (mè) và cây đay. Một số khu vực khác có rừng đước và có cá sấu sinh
sống.
Do sông Hằng được cấp nước từ các đỉnh núi phủ băng tuyết, lượng nước
của nó vẫn giữ mức cao quanh năm và dòng sông vẫn được sử dụng làm thủy lợi
thậm chí vào mùa khô và nóng từ tháng 4 đến tháng 6. Vào mùa mưa mùa Hè,
lượng mưa lớn có thể gây lũ lụt
hoành hành, đặc biệt là vùng
đồng bằng châu thổ.Bởi vậy
người dân ở hai bên đồng bằng
châu thổ sông Hằng vào thời gian
này luôn chuẩn bị để đối phó với
lũ lụt do con sông gây nên.
Phương pháp chính để chống lũ
Hình : Cư dân đôi bờ sông (nhavantphcm.com.vn)
lụt của người dân ở đây là xây dựng những
căn nhà kiên cố và sống chung với lũ.
Mặc dù hằng năm đều gây ra lũ lụt, nhưng cũng bồi đắp thêm cho đồng bằng
châu thổ them màu mỡ tạo điều kiện cho nền kinh tế ở dây phát triển.
2.2.2. Ý nghĩa đối với đạo Phật
“Nếu như dãy Himalaya là một biểu tượng cho sự vĩ đại và oai hùng của tinh
thần dân tộc, thì sông Hằng cũng được ví như một nữ thần từ ái, luôn dang rộng
đôi tay để bảo bọc, dưỡng nuôi và bồi đắp cho nền văn minh xứ Ấn suốt bao thiên
niên kỷ qua. Vì sông Hằng là con sông nổi tiếng và khi còn tại thế đức Phật đã
7
nhiều lần hoằng hóa ở khu vực đồng
bằng của con sông này nên dòng sông
này đã trở thành một ẩn dụ, một hình
tượng thường được nhắc đến trong
các pháp thoại của Ngài. Như trong
kinh Di Đà “hằng hà sa số chư
Phật””3.
Do bổn nguyện độ sanh của
mình, đức Như Lai không khởi tâm
phiền muộn, ưu sầu trước những xúc
não của hàng phàm phu. Vì là tánh
Hình : Các Chư Tăng dạo trên Sông Hằng
của đất, cát sông Hằng không mất đi tánh đất dù gặp phải lửa dữ. Cũng thế, pháp
thân của Như Lai không thể tan hoại trước lửa nhiệt não của hàng phàm phu ngu si.
Cũng như cát trong sông Hằng, hào quang của đức Như Lai là vô lượng. Trong bộ
kinh này, cát sông Hằng còn được ví như giáo pháp của đức Phật, bản thể của Phật
quả, và cuối cùng đức Phật còn dạy rằng: “Những ai thấy chư Phật như cát sông
Hằng, vốn bất hoại, bất biến, thì những người ấy mới thật sự thấy được các đức
Như Lai”.
Sông Hằng cũng là hình ảnh mà đức Phật dùng để giảng giải về tánh bất
sanh, bất diệt trong mỗi chúng sanh. Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, vua Ba-tư-nặc
khi nghe ngoại đạo nói rằng chết là mất hẳn, đã sinh tâm hồ nghi và đến bạch Phật.
Đức Phật lấy ví dụ rằng: năm lên ba tuổi nhà vua đã thấy được sông Hằng, cho đến
lúc đầu bạc, mặt nhăn vua cũng thấy sông Hằng. Tuy thân xác của vua có thay đổi,
biến hoại, nhưng cái tánh thấy thì không già, không trẻ, không biến hoại, không
3 (chuyên mục lắng nghe tiếng hát Sông Hằng)
8
sinh diệt. Khi nghe lời dạy đó, vua Ba-tư-nặc mới nhận chân được bản tánh bất
sanh, bất diệt trong chính mình.
“Từ thời đức Phật tại thế hay trải qua những giai đoạn sau đó, sông Hằng
vẫn luôn gắn liền với những sự kiện, và dòng lịch sử của Phật giáo. Một trong
những sự kiện đó là việc tôn giả A-nan viên tịch giữa dòng sông này. Khi tôn giả
sắp viên tịch, hai nước Tỳ-xá-ly và Ma-kiệt-đà đang có mối bất hòa nhưng dân
chúng hai bên đều mong được tôn thờ xá-lợi của Ngài. Vì thương tưởng cho dân
chúng hai nước này và cũng để hóa giải mối hiềm thù của họ, tôn giả A-nan đã ra
giữa dòng sông Hằng, con sông được dùng làm biên giới giữa hai nước, khuyên
dân chúng hai nước nên sống hòa thuận, tôn kính nhau và sau đó Ngài an trú tam
muội và viên tịch. Xá-lợi ngài được tôn thờ ở cõi trời, long cung, Tỳ-xá-ly và Makiệt-đà.
Theo kinh Đại Bát-niết-bàn (Trường Bộ kinh), một trong tám phần xá-lợi
của đức Phật được những người Koli xây tháp thờ tại Rāmagāma, một khu đô thị
nằm trên bờ sông Hằng. Theo bộ Đại Sử, chẳng bao lâu sau, vào mùa lũ nước sông
Hằng dâng cao ngập cả khu đô thị này và phần xá-lợi nơi này được đưa xuống long
cung. Điều này có lẽ đã được tiên đoán như trong phần kệ tụng cuối của kinh Đại
Bát-niết-bàn rằng bảy phần xá-lợi được tôn thờ tại Diêm-phù-đề và một phần khác
được Long vương thờ cúng tại Rāmagāma”4.
Đến thời vua A-dục, vua đã mang bảy phần xá lợi trong Diêm-phù-đề về
cung và sau đó đích thân vua xuống Long cung để thỉnh phần xá lợi còn lại. Theo
A-dục Vương truyện, khi đến Long cung, vua thấy Long-vương tôn thờ xá-lợi hết
mực cung kính và không muốn trao lại xá-lợi cho mình, nên vua chỉ chiêm ngưỡng
4 Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ Tác giả: Will Durant. - Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê. Nhà xuất bản:
Nxb Văn hóa Thông tin (xb: 2010)
9
mà không thỉnh về. Sau khi về cung, vua đã xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trong
vương quốc mình để tôn thờ bảy phần xá-lợi trên.
Sông Hằng và lịch sử của nó luôn gắn liền với những thăng trầm của nền
văn minh Ấn Độ và vận mệnh của Phật giáo tại xứ sở này. Mặc cho bao biến thiên
của thời cuộc, bao đổi thay của xã hội, dòng sông này, vào ngày Đông hay Hạ, mùa
lũ hay khi nước vơi, vẫn soi bóng những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo và văn hóa
tưởng chừng như không hề đổi thay suốt bao ngàn năm qua. Dấu ấn văn minh tự
ngàn xưa vẫn còn lưu giữ
trên từng dòng nước, từng
ngôi đền, từng cội cây,
hay từng nghi thức lễ bái
trên bến sông này.
Như dòng đời vẫn
cuộn trôi theo nhịp sóng
của vô thường, nước sông
Hằng vẫn âm thầm, lặng
lẽ trôi đi, ôm trọn trong
Hình : Các Phật Tử ấn Độ cầu Nguyện trên sông
mình cả một thế giới thiêng liêng, kỳ ảo mà bao đời nay loài người vẫn không thể
nào thấu hiểu được. Dòng sông vẫn như muốn nhắn nhủ với loài người về khát
vọng muôn thuở của họ, đó là khát vọng tìm về cội nguồn của chân hạnh phúc,
quay về với con sông trong chính mình để gạn lọc mọi nhiễm ô, triền phược, để
ngay trong bóng đêm của sanh tử dòng sông ấy có thể phản chiếu được ánh trăng
ngời sáng của tự tánh, hay những tinh tú, những dải ngân hà trên bầu trời xa xăm,
hay để chảy qua những quốc độ, những thế giới thanh tịnh. Những quốc độ và thế
giới thanh tịnh ấy, theo kinh Hoa Nghiêm, thì rất nhiều, nhiều như số cát trong
sông Hằng vậy.
10
2.2.3. Ý nghĩa về đạo Bà-La-Môn
Đối với Bà-la-môn giáo, dòng sông này là nơi lưu xuất các nhánh sông thiêng,
là một vị nữ thần có khả năng tịnh hóa mọi sự ô nhiễm của đời sống trần tục, và nó
cũng được ví như một bà mẹ với thần lực diệu kỳ mà các bộ thánh kinh Vệ-đà
hằng tôn vinh và ca ngợi.
Theo
các
bộ
sử
thi
Mahābhārata và Rāmāyaṇa,
giống dân Aryan thường cư
trú tại đồng bằng sông Hằng
vì dòng sông này là khởi
nguồn của bảy con sông
thiêng tại Ấn Độ.
Các huyền thoại khác
nhau về nguồn gốc của dòng
sông này được tìm thấy trong cácHình
sử :thi,
các bộ huyền sử cùng các kệ tụng bằng
Tín đồ đạo Bà La Môn tắm trên sông
Phạn ngữ. Một trong những huyền(tintuc.timnhanh.com.vn)
thoại phổ biến nhất kể lại như sau:
“Tương truyền vua Sagara có hai người vợ rất đáng yêu. Người vợ đầu sanh sáu
mươi ngàn người con và người vợ thứ hai chỉ sanh một người con. Trong một buổi
lễ nọ, vì mải đuổi bắt một con ngựa, sáu mươi ngàn vương tử đã quấy rầy sự yên
tĩnh của thánh Kapila nên vị này đã dùng lửa trong mắt mình thiêu sống tất cả các
vương tử kia. Về sau, Bhagiratha, người cháu nội của vua Sagara đã cầu thỉnh
được nữ thần sông Hằng và thần Śiva. Từ thiên giới, sông Hằng chảy xuống qua và
chân của thần Śiva trước khi chảy xuống mặt đất”5.
5 Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ Tác giả: Will Durant. - Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê.
Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa Thông tin (xb: 2010)
11
Theo tín đồ Ấn giáo, nơi mà sông Hằng chảy từ thiên giới xuống chân của
thần Śiva chính là khu vực Gangotri ngày nay. Vừa lúc sông Hằng chảy xuống mặt
đất, Bhagiratha liền lên ngựa quay về nơi các vương tử bị thiêu sống. Dòng sông
Hằng chảy theo chân của Bhagiratha đến nơi ấy và linh hồn các vị vương tử ấy
được siêu thoát. Nơi mà tro cốt của các vương tử được hòa trong sông Hằng chính
là đảo Sagar, từ nơi này sông Hằng bắt đầu đổ ra đại dương.
Với một niềm tin sâu đậm từ huyền thoại trên, tín đồ Bà-la-môn giáo ngày
xưa hay Ấn giáo ngày nay thường hành hương đến năm địa điểm quan trọng của
con sông này, đó là: Gangotri, nguồn của sông; Hardwar, nơi sông đổ vào đồng
bằng; Prayāg, nơi giao lưu của sông này với hai con sông lớn khác là Yamunā và
Sarasvatī; Kāsī (Ba-la-nại), trú xứ của thần Śiva; và Sagar, nơi sông Hằng đổ ra
biển. Khi đến những nơi ấy, người ta thường tắm rửa, uống nước, lễ bái và cầu
nguyện.
Hàng triệu người đến tắm trên sông Hằng mỗi ngày. Tín đồ Ấn giáo luôn tin
rằng những ai được tắm, hoặc thậm chí thấy tận mắt con sông này sẽ tiêu trừ được
tội lỗi và tiến gần đến bờ giải thoát. Những ai không đến được dòng sông này
thường hành lễ với nước sông được những người hành hương mang về.
“Trong số những nơi hành hương của người Ấn, có lẽ Ba-la-nại là nơi đông
đúc nhất. Ba-la-nại được mệnh danh là thành phố thiêng, nhưng nó cũng có tên là
thành phố hỏa táng. Người dân Ấn ở khắp nơi đổ về thành phố này để làm lễ hỏa
táng cho người thân. Thường thì tử thi được quấn trong những lớp vải trắng hoặc
đỏ, và được đưa lên đài hỏa táng đốt bằng củi sau vài lời cầu nguyện ngắn của
người dự lễ. Người dự lễ không tỏ ra đau xót hay than khóc, vì họ tin rằng sau khi
hoả táng, tro cốt của người chết sẽ được rải trên sông Hằng và nhờ đó họ được giải
thoát. Việc hỏa táng diễn ra suốt hai mươi bốn giờ trong ngày” 6. Tại những bến
6
Khám phá "Huyền bí sông Hằng" - VTV
12
sông ở thành phố này, có những đoạn dài chỉ khoảng bảy cây số nhưng có đến hai
ngàn ngôi đền lớn, nhỏ nằm san sát nhau.
Mỗi khi bình minh lên, tất cả những sinh hoạt tôn giáo nơi đây như bừng
dậy, sôi động và nhộn nhịp. Các đạo sĩ Bà-la-môn ra bến sông rung chuông và
nâng cao những cây đèn lửa hướng về phía mặt trời đang mọc, miệng lâm râm tụng
kinh, dân chúng đổ xuống sông tắm, kẻ đốt nến, người dâng hoa, lại có những
người ngồi theo tư thế Yoga dọc theo những hàng tâng cấp, từng đàn chim bay
lượn trên bầu trời mờ ảo, du khách phương xa đáp thuyền dạo sông, thả đèn trên
dòng nước và ngắm bình
minh đang lên bên kia bờ
sông. Trời càng về sáng, bến
sông càng đông đúc hơn,
thuyền bè bắt đầu rời bến,
người người chen nhau ra
sông tắm giặt, cầu nguyện, thả
tro cốt người chết và lấy nước
sông đem về.
Hình : Thả đèn cầu nguyện trên sông (dantri.com.vn)
Sông Hằng được nhắc đến nhiều lần trong các huyền thoại và truyền thuyết cổ xưa
của Ấn Độ trong mối liên hệ với nhiều vị thần khác như Śiva và Viṣṇu. Vào thời
trung cổ, hai nữ thần sông Hằng và sông Yamunā được khắc vào hai bên cổng vào
của các ngôi đền Ấn giáo. Nữ thần sông Hằng thường được khắc họa trong hình
dáng một người nữ cưỡi cá sấu, một biểu tượng cho sự nguy hiểm của chết chóc và
sự sung túc của cuộc sống.
www.baomoi.com
13
Những người dân tộc Hindu, dân tộc chiếm đa số trong dân số Ấn Độ, xem
sông Hằng là một dòng sông thiêng: Ganga là con gái của thần núi Himavan hay
Himalaya. Theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi
tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước
sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được
hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông. Những
người hành hương Hindu hành hương đến các thành phố thánh của Varanasi, nơi
các nghi lễ tôn giáo thường được cử hành; Haridwar được tôn sùng vì nó là nơi
sông Hằng rời dãy Himalaya; còn Allahabad, nơi dòng sông Saraswati huyền thoại
được người ta tin là chảy vào sông Hằng. Mỗi 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha
được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người
đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh
thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi
băng Gangotri.
Người Ấn giáo tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng, nước sông Hằng có thể
giúp họ rửa sạch mọi tội lỗi; tắm và uống nước sông Hằng có thể trừ mọi tật bệnh,
mang lại hạnh phúc và sức mạnh. Khi chết, nếu được ném xác hay tro cốt xuống
sông Hằng, linh hồn sẽ được lên thiên giới. Từ đó, đã tạo nên tín ngưỡng tắm, rước
nước, uống nước, nguyện cầu trên sông Hằng. Đặc biệt là những nghi lễ đốt xác và
ném tro xác xuống dòng sông… Vì thế, sông Hằng được mệnh danh là dòng sông
thiêng, dòng sông huyền bí.
2.3. Thực trạng Sông Hằng ngày nay
Sông hằng sự thiêng liêng luôn được tôn kính. Vấn đề tinh khiết của nước
sông Hằng, con sông linh thiêng nhất Ấn Độ, đang mang ý nghĩa chính trị sắc nét
nhất. Hôm thứ Hai, tại Varanasi, thành phố linh thiêng cho mỗi người dân Ấn độ
trên bờ sông Hằng, đã diễn ra cuộc biểu tình đại chúng “Ganga Mukti
14
mahasammelan” để lên tiếng về việc cứu vãn con sông vĩ đại này. “Những người
tham gia mit tinh – các
linh mục Ấn Độ giáo, các
thánh sadhus và cả những
nhà hoạt động xã hội nổi
tiếng đã thông qua yêu
sách đòi hỏi chính phủ
phải có biện pháp cấp bách
để bảo vệ con sông khỏi ô
nhiễm. Họ cũng thông báo
Hìnhtriệu
: Sông
Hằng
đang
bị-đầu-độc
(Tin180.com_0011)
rằng vào ngày 18 Tháng 6, hàng
nhà
hoạt
động
từ hơn
tiểu bang sẽ tuần hành
cuộc biểu tình mới để bảo vệ sông Hằng”7.
Có hơn 400 triệu người, tức là một phần ba dân số sinh sống trong lưu vực
sông Hằng. Cả những người mắc bệnh truyền nhiễm cũng thực hiện ngâm mình
trong nước sông Hằng.Việc tung nước thải thô không qua khử lọc vào dòng sông,
đồng thời với các hoạt động tôn giáo truyền thống như tung tro xác người chết
(thường là không cháy ra tro hẳn, và thậm chí đôi khi còn hoàn toàn không được
thiêu cháy) đã dẫn đến việc ô nhiễm nặng nề con sông ở đoạn trung nguồn. Và khi
sông chảy đến vùng đồng bằng ở Tây Bengal thì thật đáng sợ khi đến gần con sông
vì nó đã nhiễm bẩn một cách kinh khủng.
Việc làm sạch nước sông Hằng dĩ nhiên là hành động rất cao cả. Năm 1985,
Chính phủ Ấn Độ đã thông qua Kế hoạch hành động cứu sông Hằng (Ganges
Action Plan), chuyên gia Viện nghiên cứu chiến lược Nga Boris Volkhonsky cho
biết: “Trong khoảng thời gian 20 năm đưa kế hoạch vào thực hiện, 250 triệu đô la
Mỹ đã chi tiêu sử dụng. Tuy nhiên, theo ý kiến của phần lớn chuyên gia, kế hoạch
7 http:/www.baomoi.com/Nam-khuc-song-Hang/137/5657741.epi
15
đã thất bại –chỉ có 1/3 lượng nước ô nhiễm chảy vào sông được qua khử lọc. Vấn
đề bùng nổ dân số, sự thiếu năng lực các quan chức địa phương và việc sử dụng
không đúng chỗ các nguồn dự trữ sẵn có đã làm vô hiệu hóa tất cả những nỗ lực.
Năm ngoái, Chính phủ đã phát triển kế hoạch mới và thậm chí đã nhận được khoản
vay 1 tỷ USD từ Ngân hàng Thế giới
để triển khai thực hiện”.
Tuy nhiên phải nhớ rằng một quốc
gia đôi khi không thể đối phó với tất
cả phức tạp của vấn đề, đặc biệt là khi
bàn về những con sông xuyên biên
giới. Ấn Độ cảm thấy rõ nét nhất điều
này từ kinh nghiệm riêng của mình, -
Hình : dạo trên sông Hằng (xn--thngtintduy3eb69ah8e210q.vn)
ông Boris Volkhonsky phát biểu:
“Vấn đề ở chỗ là cả hai con sông vĩ đại của Nam Á - sông Hằng và sông Ấn,
đều là những con sông xuyên biên giới. Ấn Độ kiểm soát phần lớn các nguồn của
các con sông này và gần như toàn bộ sông Hằng. Vì vậy, bất kỳ động thái nào của
Ấn Độ trên thượng nguồn sông Hằng và sông Ấn đều gây ra phản ứng khó chịu từ
các nước láng giềng nằm dưới vùng hạ lưu sông là Pakistan và Bangladesh. Tuy
nhiên, dù là quốc gia "trên" đối với hai nước này, Ấn Độ lại là nước “dưới” so với
Trung Quốc. Vì Trung Quốc đang kiểm soát Brahmaputra, một trong những nhánh
chính quan trọng nhất của sông Hằng, (theo tiếng Tây Tạng là Yarlung- Tsangpo)”.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã bắt tay vào thực hiện một loạt các dự án
quy mô chuyển dẫn giòng nước sông của họ đến những khu vực khô cằn phía tây
bắc đất nước - khu vực tự trị Tân Cương Uygur, đồng thời cũng công bố về việc
xây dựng đập và nhà máy thủy điện trên sông Brahmaputra. Kết quả là, chính Ấn
Độ trở nên phụ thuộc do những hành động của phía Trung Quốc, và tình hình sinh
16
thái trong khu vực hạ lưu đạt sông Hằng có thể ngày càng trở nên tồi tệ hơn, ông
Boris Volkhonsky cảnh báo:
“Tình hình phức tạp ở chỗ là cả trong luật quốc tế lẫn trong quan hệ giữa các
quốc gia lân cận, cơ sở thỏa thuận pháp lý để giải quyết tranh chấp về ranh giới
nước rõ ràng là chưa đầy đủ. Trung Quốc hoặc bỏ qua hoàn toàn không kể đến lợi
ích của các nước nằm tại hạ lưu sông, hoặc giới hạn bằng những bản báo cáo xoa
dịu mà không tự ràng buộc mình bằng những tài liệu pháp lý bó buộc”.
Vì vậy, ngay cả khi kế hoạch mới của chính phủ Ấn Độ sẽ thành công hơn so
với kế hoạch năm 1985, điều này cũng không thể đủ để cứu vãn sông Hằng linh
thiêng.
3. Kết luận
Đối với cuộc sống của người dân Ấn Độ sông Hằng có một vị trí vô cùng
quan trọng, Ấn Độ rất ít sông ngòi, do vậy người Ấn rất coi trọng các con sông.
Với họ, dòng sông là người mẹ nuôi dưỡng và sinh ra thức ăn cho sự sống . Sông
hằng sự thiêng liêng luôn được tôn kính. Tuy nhiên Sông Hằng ngày nay đang cần
được bảo vệ hơn bao giờ hết, với sự gia tăng về ô nhiễm cũng như nguy cơ cạn kiệt
nguồn nước, diện tích của Sông đang bị thu hẹp dần. với tâm quan trọng không thể
thay thế trong đời sống . Người dân cũng như các nhà chức trách nên sớm tìm ra
biện pháp để bảo vệ con sông này.
17
Tài liệu tham khảo
1.Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2.http:/www.baomoi.com/Nam-khuc-song-Hang/137/5657741.epi)
3.Khám phá "Huyền bí sông Hằng" - VTV
www.baomoi.com ›hủ.
4.5000 năm lịch sử văn hóa Ấn Độ
Chuyên mục: Văn hoá nghệ thuật - Du lịch Tác giả: Anjana Mothar Chandra, Nhà
xuất bản: Nhà sách Văn Lang (xb: 2009)
5.Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ Tác giả: Will Durant. - Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê.
Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa Thông tin (xb: 2010)
6. Lịch sử văn hóa thế giới tác giả Lương Minh,NXB giáo dục, , (xb1999).
18