ĐHQG TP.HỐ HỒ CHÍ MINH - TRƯỜNG ĐH KHXH&NV
KHOA VĂN HÓA HỌC
VĂN HÓA SO SÁNH
TIỂU LUẬN
HÔN NHÂN VIỆT – ĐÀI Ở MIỀN TÂY NAM
BỘ DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
GVPT: NGUYỄN NGỌC THƠ
DANH SÁCH THÀNH VIÊN :
•
•
•
•
•
•
•
NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ – 1056140031
ĐỔ NGỌC PHƯƠNG QUỲNH – 1056140035
NGUYỄN KHIẾT TƯỜNG – 1056140057
PHẠM NGỌC KHÁNH VI – 1056140061
ĐẶNG THẾ HIỂN - 1056140072
HOÀNG KHÁNH HIỀN – 1056140073
NGUYỄN LÊ KIM PHƯỢNG - 1056140080
TIỂU LUẬN :
HÔN NHÂN VIỆT – ĐÀI Ở MIỀN TÂY NAM BỘ DƯỚI
GÓC NHÌN VĂN HÓA
Dẫn nhập:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam ra nhập WTO, quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt
Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á ngày một phát triển hơn. Cùng
với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các
nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia
tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực mà
nhất là những cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Đài Loan.
Theo thống kê của Văn phòng Kinh tế -Văn hóa Đài Bắc tại TP Hồ Chí Minh, từ năm 1995 đến
cuối tháng 10 năm 2004 có 84.479 phụ nữ Việt Nam kết hôn với đàn ông đến từ Đài Loan, được
phân ra từng năm như sau:
Năm
Số người
Năm
Số người
1995
1.476
2000
13.863
1996
3.351
2001
12.417
1997
4.827
2002
13.743
1998
5.035
2003
11.358
1999
8.482
Đến tháng10/2004
8.529
Nguồn: Phan An, Phan Quang Thịnh, Nguyễn Quới, Hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài
Loan, Nxb. Trẻ, 2004, tr.8-9.
Số liệu ở bảng trên cho thấy, từ năm 2000 số lượng các cặp hôn nhân cô dâu Việt, chú rể Đài
Loan tăng vọt so với những năm trước đó và tiếp tục như vậy cho đến năm 2003 với trên 11.000
người mỗi năm.
Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn
phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, từ
năm 1994 đến năm 2000, tỷ lệ cô dâu Việt Nam so với cô dâu các nước Đông Nam Á ở Đài
Loan tăng khá nhanh. Năm 1994, cô dâu người Việt Nam chiếm 10,8%, năm 1995 chiếm 26,0%,
năm 1997 là 36,7%, năm 1998 là 52,3%, năm 1999 là 54,8% và năm 2000 là 61,6%.
Hôn nhân giữa những cô gái Việt Nam với người Đài Loan, là những cuộc hôn nhân xuyên quốc
gia, theo quy luật, ngày càng phát triển theo xu thế toàn cầu hóa, xu hướng hội nhập của Việt
Nam với thế giới bên ngoài là cần thiết để phát triển.Luật pháp Việt Nam không ngăn cản việc
kết hôn giữa người Việt Nam với người nước ngoài, và trong cái nhìn cởi mở, dư luận không quá
khắt khe đối với những cô gái lấy chồng ngoại. Ở đây không riêng gì đối với người Đài Loan,
hiện tượng hôn nhân giữa các cô gái Việt Nam với người Hàn Quốc cũng đang rộ lên ở cả miền
Bắc lẫn miền Nam, đối với người Nhật Bản và với công dân các quốc gia khác cũng vậy nhưng ở
mức độ khiêm tốn hơn. Nhìn chung hôn nhân Việt- Đài vẫn dẫn đầu các cuộc hôn nhân xuyên
quốc gia ở cả Việt Nam lẫn Đài Loan và các hệ quả xã hội thì ngày ngày vẫn là vấn đề muôn
thuở.
Chính vì vậy, nghiên cứu hôn nhân Việt- Đài vẫn tiếp tục là vấn đề thời sự cấp thiết, giúp định
hướng quản lý, phát triển nhiều lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa của mỗi bên, góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác giữa hai bên. Bài viết xin được tập trung vào hôn nhân Việt –Đài ở miền
Tây Nam Bộ như một trường hợp điển hình.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Miền Tây Nam Bộ là vùng đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 12 tỉnh ( An Giang, Bến Tre,
Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà
Vinh, Vĩnh Long ) và 1 thành phố trực thuộc trung ương ( Thành phố Cần Thơ). Theo thống kê
đến 89% trong số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan là từ miền Tây Nam Bộ và hiên tượng
này cũng đang dần nổi lên ở phía Bắc.
Sau năm 1997, số lượng các cô gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan đột ngột gia tăng ở một vài địa
phương thuộc đồng bằng Nam bộ như: Tây Ninh, Cần Thơ, Đồng Tháp…Một số tỉnh đã rộ lên
“cơn sốt” lấy chồng ngoại. Lấy ví dụ ở tỉnh Tây Ninh (một tỉnh giáp với Cămpuchia, khá xa
TP.Hồ Chí Minh), theo thống kê của Hội phụ nữ tỉnh và Sở Tư pháp, năm 1995 mới chỉ có 78 vụ
kết hôn giữa cô dâu Việt và chú rể Đài Loan. Sau đó, con số này cứ tăng dần, tăng dần… Một số
xã, phường của tỉnh Cần Thơ có số người “lấy chồng ngoại”nhiều hơn chồng nội, như chẳng hạn
xã Tân Lập thuộc huyện Thốt Nốt còn được người dân gọi là “đảo Đài Loan”.
Xem hôn nhân Việt- Đài ở miền Tây Nam Bộ như một tiểu văn hóa , chúng tôi phân tích, lý giải
các thành tố văn hóa của hiện tượng và quan hệ giữa chúng. Văn hóa nhận thức về hôn nhân
xuyên quốc gia là nền tẳng chi phối, quyết định văn hóa tổ chức cũng như văn hóa ứng xử trong
hôn nhân xuyên quốc gia. Trong giới hạn phạm vi đề tài chúng tôi xin tập trung trước hết vào hai
thành tố- văn hóa nhận thức và văn hóa tổ chức.
Trường hợp nghiên cứu được đặt trong phối cảnh so sánh. So sánh nội văn hóa ( giữa Nam Bộ và
Bắc Bộ, giữa miền Tây Nam Bộ và miền Đông Nam Bộ) và so sánh xuyên văn hóa ( giữa Việt
Nam và Đài Loan, giữa Đài Loan và Hàn Quốc ) không chỉ giúp lý giải hôn nhân Việt- Đài ở
miền Tây Nam Bộ mà còn góp phần soi sáng những quy luật chung với hôn nhân Việt- Hàn ỏ
đây, đồng thời dự báo được xu hướng hình thành, phát triển của hôn nhân xuyên quốc gia ở Bắc
Bộ.
2. Hôn nhân Việt-Đài ở miền Tây Nam Bộ nhìn từ văn hóa nhận thức:
“Văn hóa nhận thức là một hệ thống hữu cơ những giá trị văn hóa trong kho tàng kinh nghiệm,
tri thức được con người sáng tạo, tích lũy qua quá trình nhận thức vũ trụ và nhân sinh.” [ Dựa
theo Trần Ngọc Thêm 2006: 25,28]. Nhận thức về hôn nhân xuyên quốc gia giữa Việt Nam và
Đài Loan đã được thể hiên qua nhiều hình thức, từ tục ngữ, ca dao cho đến văn học nghệ thuật,
phong tục tập quán có lien quan về giới, hôn nhân gia đình, ý thức về sự phân biệt bản địa và
ngoại lai (in-group và out group). Nhận thức về hôn nhân xuyên quốc gia của người Việt và
người Đài Loan có thể thấy rõ qua các cuộc điều tra, khảo sát của ngành xã hội học, phỏng vấn
sâu các đối tượng liên quan và phân tích dư luận xã hội và báo chí , truyền thông.
2.1 Cái nhìn của người trong cuộc về hôn nhân xa xứ, hôn nhân ngoại tộc:
a. Việt Nam:
Ở vùng nông thôn Bắc Bộ, với dặc điểm tĩnh của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, suốt truyền
thống lâu dài, lấy chồng gần hơn lấy chồng xa được hình thành suốt hàng nghìn năm từ phong
kiến: Có con mà gả chồng gần/ Có bát canh cần nó cũng đem cho hay Có con mà gả chồng
xa/Một là mất giỗ, hai là mất con. Ngưới Việt trong quá khứ không muốn lấy chồng xứ lạ, cha
mẹ không muốn gả con gái cho “thiên hạ”, mà chỉ mong sum vầy trong cùng một lũy tre làng.
Hơn nữa, định kiến với dân ngụ cư, sự phân biệt đối với các cặp kết hôn khác làng (phải nộp
cheo cao hơn) khiến cho cư dân hướng tới hôn nhân với người cùng làng: Ta về ta tắm ao ta/ Dù
trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Khi người Pháp vào Việt Nam, vấn đề hôn nhân không chỉ dừng lại ở gần hay xa trong một làng,
một vùng miền mà đã vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia, vượt ra ngoài vấn đề dân tộc. Nhưng với
quan niệm phong kiến về lấy chồng gần xa, văn hóa và phong tục xa xưa khinh thị những người
lấy chồng Tây, gọi những người lấy Tây là “me Tây” và thường không gần gũi với họ.
Ở Nam Bộ thì hoàn toàn khác hẳn, làng xã không có đất công để ban cấp, ai có sức khai phá thì
biến đất hoang thành của riêng mình, không phân biệt dân chính cư hay dân ngụ cư. Tất cả đều là
gốc lưu dân, ly hương; mặc dù vẫn muốn cưới gần ( Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu, vượn hú
biết nhà má ở đâu), nhưng người dân ở đây vẫn không ngại ngần cưới xa, không ngại di chuyển,
sẵn sang chấp nhận thay đổi, khả năng thích ứng cao: Ra đi gặp vịt cũng lùa/ Gặp duyên cũng
kết, gặp chùa cũng tu. Bên cạnh đó, Nam Bộ có cấu trúc mở, tính cách người Nam Bộ phóng
khoáng, nên vùng này dễ tiếp nhận những yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài, kể cả phong tục cưới
hỏi.
Thành phần dân cư ở Bắc Bộ chủ yếu là người Việt, trong khi đó ở Nam Bộ là sự chung sống
của nhiều dân tộc, chủ yếu là người Việt-Hoa-Chăm và Khmer.
Dân số
Việt
Khmer
Chăm
Hoa
Bắc Bộ
16.833.837
16.721.047
302
29
4.504
Tây Nam Bộ
16.130.675
14.884.515
1.025.861
13.766
199.778
Đông Nam Bộ
11.709.923
10.708.118
27.297
97.476
581.950
Văn hóa giữa các dân tộc ở Nam Bộ hòa nhập được như ngày nay cũng phải trải qua một quá
trình lâu dài, gần như ngay từ đầu thời kì khai khẩn đất đai. Thành phần dân cư ở Nam Bộ hay
biến động, người dân không bị gắn chặt với quê hương như ở Bắc Bộ. Tính cách người dân Nam
Bộ do vậy cũng trở nên phóng khoáng hơn. Chính vì vậy, trong việc cưới chồng không có sự
khắt khe giữa cưới chồng gần hay xa như ở Bắc Bộ.
Hôn nhân xuyên chủng tộc chủ yếu giữa người Việt với người Hoa, còn hôn nhân Việt-Chăm,
Việt-Khmer rất ít khi xảy ra, khá ngoại lệ. Nguyên nhân nảy sinh vấn đề này là do Việt-Hoa có
nền văn hóa tương đối tương đồng với nhau, phong tục tập quán có nhiều nét tương đồng với
nhau như các ngày lễ Tết, hoặc trong các nghi lễ…., có cùng nền tảng tôn giáo ( Nho giáo, Phật
giáo Đại thừa và Đạo giáo), còn đối với Khmer là Phật giáo Tiểu thừa và Chăm là Hồi giáo/ Bà
La Môn giáo. Trong thời kì Trung Hoa đô hộ nước ta, người Việt cũng chịu ảnh hưởng về tư
tưởng, nhận thức cũng như lối sống của người Hoa. Ngoài ra, Việt-Hoa cùng chung một truyền
thống đón là văn hóa gia đình phụ hệ, không giống như người Chăm là văn hóa gia đình mẫu hệ,
người Khmer là không hẳn phụ hệ hay mẫu hệ, mà lại mang đặc điểm song hệ.
Người Hoa vào Nam Bộ vào thế kỉ XVII, với nhiều đợt sóng di cư có số lượng lớn mà cụ thể là 4
đợt. Người Hoa ở Đông Nam Bộ phần lớn là từ Quảng Đông, còn ở Tây Nam Bộ thì chủ yếu là
từ Triều Châu, Phúc Kiến, Khách Gia , Hakka và chung nguồn gốc với người Đài Loan.
Có thể thấy người Hoa ở Nam Bộ chiếm một số lượng lớn dân cư ( chỉ thua người Việt), chính
vì vậy mà sự tiếp xúc giữa người Việt và người Hoa rất dễ dàng, gần gũi và khá là thân thích.
Người dân ở nơi đây có thể nói cũng hiểu một phần tính cách cũng như văn hóa của người Hoa ở
Nam Bộ, và tất nhiên người Việt cũng chịu ảnh hưởng từ lối sống, tín ngưỡng, văn hóa của họ.
điều này chắc hẳn đã tạo nên “lực hút” khiến cho các cô gái ở Tây Nam Bộ, đặc biệt phụ nữ
người Hoa/gốc Hoa sinh sống ở nơi đây, kết hôn với người Đài Loan ( hơn 40% số phụ nữ ở
Tây Nam Bộ lấy chồng Đài Loan là người Hoa/ gốc Hoa). Không chỉ có phụ nữ người Hoa/ gốc
Hoa mà ngay cả phụ nữ Việt cũng không ngoại lệ, số phụ nữ Việt ở Tây Nam Bộ lấy chồng Đài
Loan chiếm 79% so với cả nước.
So vói Bắc Bộ, Nam Bộ cũng là nơi tiếp xúc trực tiếp sớm hơn và mật thiết hơn suốt chiều dài
lịch sử với Pháp và Mĩ. Hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở nơi đây từ lâu là một thực tế. Do xu
hướng hội nhập và giao lưu quốc tế mở rộng, người nước ngoài đến Việt Nam, trong đó có cả
Đài Loan ngày càng nhiều, vì vậy tình yêu giữa người Việt và người nước ngoài cũng không còn
là điều hi hữu. Vì vậy, hôn nhân giữa người Việt với Đài Loan cũng không nằm ngoài vòng này,
và ngày càng nhiều, được coi như là một chuyện bình thường, hiện tượng lấy chồng Đài Loan ở
Tây Nam Bộ khá phổ biến.
Bên cạnh đó không thể không nhắc đến hôn nhân với Việt kiều- dù cùng dân tộc nhưng ở chừng
mực nào đó Việt kiều cũng có liên quan đến nước ngoài như ăn, mặc, ở, lối sống…., gắn với
“giấc mộng Hoa Kỳ” - từ sau năm 1975, đã không ngừng là một dòng chảy mạnh mẽ, đồng hành
và chia sẻ khá nhiều điểm chung với làn sóng kết hôn với đài Loan, Hàn Quốc.
b. Đài Loan:
Đài Loan tuy cũng có sự đa dạng nhưng không mang tính đa văn hóa, đa chủng tộc như ở Nam
Bộ, mà ở Đài Loan lại có sự thuần nhất, thuần chủng cao. Điều này thể hiện rõ ở chỗ mọi dân tộc
sinh sống trên Đài Loan đều có cùng nguồn gốc từ Trung Hoa mà ra, cho nên họ cùng một nền
văn hóa với nhau, tuy rằng ở Đài Loan cũng có sự riêng biệt nhưng văn hóa chung vẫn là chủ
yếu.
Dù giữa thế kỉ XVII bị Tây Ban Nha, Bồ đào Nha nhòm ngó và trở thành thuộc địa của Hà Lan,
đến thế kỉ XIX thì bị Nhật chiếm đóng 50 năm, nhưng Đài Loan vẫn là một hòn đảo tương đối
biệt lập. Dân cư nơi đây đa số là người Hán, chủ yếu đến từ Khách Gia, Phúc Kiến, Hakka…
Nhìn chung, văn hóa Đài Loan ít có sự phóng khoáng, ít chịu tiếp nhận những cái bên ngoài, ít
dung hợp với tha nhân, tha tính hơn ở Nam Bộ Việt Nam. Về vấn đề hôn nhân với nước ngoài ở
Đài Loan chỉ mới có trong thời gian ngắn ngủi ( khoảng giữa thập niên 90 của thế kỉ XX đến nay
), tất nhiên vấn đề này vẫn còn rất mới lạ đối với người dân Đài Loan, họ vẫn chưa thể chấp nhận
mấy chuyện người nước ngoài về làm dâu trong họ, có sự khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, phong
tục tập quán…., có lẽ vì thế mà người dân Đài Loan có một cái nhìn tiêu cực đối với hiện tượng
này, thậm chí bày tỏ thái độ phân biệt chủng tộc. Vì thế, không phải cô dâu Việt nào cũng sung
sướng và may mắn khi làm dâu nơi xứ người, đã có rất nhiều vấn nạn xảy đến với những cô dâu
Việt mà báo chí, phương tiện truyền thông đã đưa tin.
2.2. Cái nhìn của người trong cuộc về động cơ kinh tế gắn với chữ hiếu
a. Việt Nam
Phân tích kết quả phỏng vấn sâu của nhóm Trần Thị Kim Xuyến đối với 51 người phụ nữ Tây
Nam Bộ về sự hài lòng trong hôn nhân của họ với người Đài Loan, có thể thấy 3 trong 4 tiêu chí,
ở những mức độ khác nhau, đều liên quan đến kinh tế (A, B,D), chiếm tới 71%. Một nữa người
phỏng vấn trả lời họ hài lòng vì hôn nhân với người Đài Loan giúp họ có tiền giúp đỡ gia đình
mình ở Việt Nam. Như vậy, đa số xem trong động cơ kinh tế gắn với chữ Hiếu.
Tiêu chí về sự hài lòng
Tỉ lệ %
A- Có tiền giúp đỡ gia đình ở Việt Nam
50
B- Chồng người Đài Loan giàu có, rộng rãi
7,1
C- Chồng người Đài Loan thương và tôn trọng
21,4
vợ
D- Cuộc sống tốt và thoải mái hơn
14,3
E- Không tả lời
7,1
Điều phụ nữ miền Tây Nam Bộ hài lòng trong hôn nhân với người Đài Loan (xử lý tư liệu phỏng
vấn sâu 51 người- theo đề tài nghiên cứu của nhóm Trần Thị Xuân Kim)
Sự thẳng thắng, bộc trực, tính cách thực tế, thực dụng của người Việt miền Tây Nam Bộ phần
nào thể hiện ở đây. Khác với ca dao tục ngữ Bắc Bộ thường diễn đạt tâm lý coi nhẹ nghề buôn,
khinh thường những người xem trọng đồng tiền, Tây Nam Bộ chấp nhận, khuyến khích buôn
bán, có cái nhìn tích cực chứ không tiêu cực đối với đồng tiền. Chữ Hiếu là truyền thống đạo lý
của dân tộcViệt nói chung. Song chữ Hiếu ở Nam Bộ cũng có sắc thái riêng. Với ảnh hưởng của
Nho giáo thoáng mở hơn, tư tưởng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” vào đến Nam bộ không
còn cứng nhắc. Trách nhiệm nuôi dưỡng mẹ cha, phụ đỡ gia đình không chỉ có trưởng nam mà
người gái cũng đau đáu lo toan. Nhiều người con gái tạm gác tình duyên riêng mình để báo đền
cha mẹ, nuôi dưỡng bầy em {Ba má sinh em ra / Má em nhai cơm lừa đá, nhai cá lừa xương /
Anh ơi em lo đền, nghĩa em chưa trọn ỉ Anh biếu em kết nghĩa tào khương sao đành – Ân cha
nghia mẹ chưa đền ỉ Bậu mong ôm gối cuốn mền theo ai?}
Cô dâu Việt Nam là những người phụ nữ dịu dàng, nữ tính, ấm áp. Được biết, đa số các cô gái
Việt sang làm dâu tại Đài Loan đều còn rất trẻ, tuổi trung bình là 21, trình độ học vấn trung bình
là lớp 3.
Quan niệm lấy chồng nước ngoài để được xuất ngoại, được thay đổi hoàn cảnh sống, mong
muốn có cuộc sống sung túc hơn và có điều kiện giúp đỡ gia đình đã tác động vào tâm lý, trở
thành động lực thúc đẩy nhiều cô gái Việt Nam muốn được kết hôn với người Đài Loan, dẫn đến
sự gia tăng mạnh về số lượng và tạo nên "phong trào" lấy chồng Đài Loan của các cô gái ở các
tỉnh phía Nam, trở thành một hiện tượng xã hội thu hút sự quan tâm của nhiều cấp nhiều ngành.
Có một lý do rất đáng quan tâm là phần lớn những cô gái khi vẫn thường xuyên bị gia đình phía
Việt Nam thúc ép gửi tiền về để gia đình trang trải những khó khăn hàng ngày.
Phần lớn các cô gái Việt Nam kết hôn với người Đài Loan đều xuất thân từ gia đình có hoàn
cảnh khó khăn, trình độ học vấn thấp, không có nghề nghiệp ổn định; nhiều gia đình mắc nợ
không có khả năng chi trả nên luôn hy vọng vào một cuộc sống khác sau khi con gái họ lấy
chồng Đài Loan...
Có thể hiểu sự khó khăn, khổ tâm và hiểu được một phần nỗi khổ và những sai lầm mà những cô
gái còn quá trẻ phải xa quê, không những mưu cầu cuộc sống riêng mình nơi tha hương, mà còn
cả gánh nặng gia đình nơi cố quốc.
Đám cưới tập thể của các cô dâu Việt và chú rể Đài Loan
Một khía cạnh giúp các cô gái Việt Nam có ý định lấy chồng Đài Loan hiểu rõ những khó khăn,
trở ngại trong cuộc sống mà họ sẽ gặp phải khi làm dâu tại Đài Loan. Phần lớn các cô gái Việt
Nam kết hôn với người Đài Loan đều xuất thân từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trình độ học
vấn thấp, không có nghề nghiệp ổn định; nhiều gia đình mắc nợ không có khả năng chi trả nên
luôn hy vọng vào một cuộc sống khác sau khi con gái họ lấy chồng Đài Loan... Đa số các cô gái
Việt Nam lấy chồng Đài Loan có trình độ văn hóa thấp nên trình độ ngoại ngữ rất hạn chế,
không thạo tiếng địa phương, không hiểu biết về lối sống, phong tục tập quán, chính sách pháp
luật của Đài Loan trước khi lấy chồng nên các cô dâu Việt Nam rất khó hòa nhập vào đời sống
cộng đồng. Cá biệt, một số cô gái Việt Nam lấy phải chồng già, chênh lệch tuổi tác quá lớn nên
giữa 2 vợ chồng rất khó có sự hòa hợp, đồng cảm.Có được cuộc sống ổn định tại Đài Loan
không phải là chuyện dễ dàng với tất cả những cô dâu sang lấy chồng tại đây bởi hầu hết các cô
gái Việt Nam khi có ý định lấy chồng Đài Loan đều không được tư vấn, không có sự tìm hiểu,
chuẩn bị và trang bị cho mình những kiến thức cần thiết khi đi làm dâu xứ người, họ không hề
biết rằng cuộc sống tương lai của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Nghề nghiệp của cô dâu Việt Nam ở Đồng Tháp và chú rể Đài Loan
Nghề nghiệp của cô dâu (%)
Nghề nghiệp của chú rể (%)
Nội trợ
82,6
Làm công
43,83
Làm ruộng
12,5
Công nhân
43,36
Thợ may
2,60
Buôn bán
4,93
Chăn nuôi
0,98
Nông dân
2,63
Công nhân
0,32
Chủ xưởng
0,32
Nghề khác
1,00
Nghề khác
4,93
Cho dù ai cũng biết, những cô dâu Việt tuy học vấn thấp, cuộc sống nghèo khổ song điều đó
không ảnh hưởng đến sự hội nhập, trí thông minh và tính cần cù của người phụ nữ. Nhưng trong
một xã hội tiêu thụ và giàu có, hào nhoáng như Đài Loan, phải chăng sức hút mạnh mẽ của cuộc
sống vật chất có thể là lý do chính khiến nhiều cô gái Việt đánh mất mình?
b. Đài Loan:
Nho giáo ảnh hưởng tới Đài Loan, như vậy về cơ bản là Tống nho và tôn ti xã hội nặng nề trọng
nam khinh nữ.
Đài Loan có phong tục người cha cô dâu hắt chén nước theo xe hoa trong ngày cưới với cô con
dâu chỉ toàn tâm toàn ý phục vụ nhà chồng.Chữ Hiếu của người con dâu Việt Nam với cha mẹ để
ở quê nhà, do vậy, không những không nhận được nhiều cảm thông ở Đài Loan mà còn bị xem là
một gánh nặng vô lý, một sự lợi dụng nhà chồng. Những con dâu phải tốn tiền cưới về bị xem
thường, đặc biệt khi đó lại là những nữ ngoại nhân từ một nước nghèo.
Mục đích lấy vợ của những "đức lang quân" Đài Loan này chủ yếu là để có người chăm sóc,
phục vụ cuộc sống nên những cô dâu này bị quản lý rất khắt khe, chặt chẽ, họ không được giao
tiếp và không được gặp gỡ bạn bè, đồng hương hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác vì gia
đình nhà chồng sợ các cô dâu bỏ trốn. Có một thực tế làm tăng thêm sự khó khăn cho họ nữa là
đa số các cô dâu này có con rất sớm, nhiều cô mang thai trước khi đến đất Đài Loan. Các chú rể
cố tình buộc các cô bằng cách có con trước khi biết rõ hoàn cảnh gia đình và thân thế họ tại quê
nhà do một số không ít các chú rể không thể cưới được vợ tại Đài Loan mà phải sang Việt Nam
nhờ công ty môi giới để có vợ vì không có công ăn việc làm; không có uy tín trong cộng đồng do
lối sống không phù hợp, thậm chí thiếu lành mạnh tại quê nhà.
2.3. Cái nhìn của dư luận và truyền thông:
a. Việt Nam:
Làng Bắc Bộ có tính cộng đồng cao và tính tự trị cao{phép vua thua lệ làng}. Nhiều làng có
hương ước chặt chẽ, ở nhiều làng sống tập trung những dòng họ lớn nên lại thêm những tập tục
của dòng họ. Áp lực dòng họ rấy lớn{Trong họ ngoài làng- ba bề bổn bên hàng xóm láng giềng.
Sống vì danh vì tiếng không ai vì cả miếng ăn- Cọp chết đế da, người ta chết để tiếng…}.
Trường họp chấp nhận rể ngoại quốc để hổ trợ kinh tế cho gia đình, cha mẹ cô dâu sẽ bị dư luận
cũng như chính các cô dâu phê phán, trách móc là “gà bán con”{ Mẹ em tham thung xôi rền /
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng / Em đã bảo mẹ rằng đừng / Mẹ hẩm, mẹ tứ, mẹ bưng
ngay vào / bây giờ chồng thấp vợ cao / Như đôi đũa lệch, so sao cho bằng – mẹ em tham khúc cá
thu / gả em về biến mịt mù tăm tăm}.
Chính các cô dâu cũng chịu áp lực dư luận, đúng như Neil Ljamieson, một người Mỹ từng
nghiên cứu nhiều năm ở Việt Nam viết trong cuốn sách Understanding Vietnam rất nổi tiếng của
ông: khi một cô gái Việt lấy một người nước ngoài, cô gái ấy cảm thấy cho dù vị thế cô ta có ra
sao. Hành động lấy chồng Tây bị xem như một hành động mất gốc, hành động làm lạc của một
người đã hủy hoại nguồn cội của mình. Có thể thấy điều ấy được thể hiện rất rõ qua giọng điệu
châm biếm qua phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng nói về những phụ nữ lấy chồng
người phương Tây những năm 30 của thế kỷ XX (Những cuộc phối hợp của một số đông phụ nữ
nước nhà với những người Tây phương liệu có đáng là những cuộc hôn nhân hẳn hoi không?
Hay đó chì là…, chỉ như…, chỉ hao hao giống…, chỉ phảng phất…đáng gọi là một thứ kĩ nghệ?).
Ở vùng đất mới vùng đất Nam Bộ, phần nhiều thôn áp quy mô nhỏ rải rác theo những triền sông,
ven bờ kênh rạch, tổ chức cộng đồng thoáng mở hơn Bắc. “Rất nhiều làng không có hương ước,
cũng không có thần tích, thần phả(…)Dân làng nói chung không bị những quy ước những lệ làng
rằng buộc, câu thúc như ở Trung và Bắc Bộ”[Thạch Phương 1992:55]. “ Ở đây quan hệ cá nhân
là mạnh mẽ ”. “ Không như những người Việt tiền bối từ bắc vào trung bộ thường di dân theo
từng làng xóm, dòng họ, vào nơi đất mới chừng nào vẫn giữ truyền thống quê hương xưa, từ việc
đặt tên làng, tên xã đến các lề tục mang từ quê cha, đất tổ, những người tới Nam Bộ thường là đi
riêng lẽ từng cá nhân, ra đi là vứt bỏ những lề tục xưa cũ…”[ Ngô Đức Thịnh 2004: 267]. Áp lực
ở Nam Bộ nhìn chung không căng thẳng như ở Bắc Bộ.
Xử lý kết quả điều tra xã hội học từ đề tài nghiên cứu “thực trạng phụ nữ kết hôn với người Đài
Loan ở đồng bằng sông Cửu Long”(do vụ gia đình – viện dân số gia đình trẻ em và khoa xã hội
học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp thực hiện tại tỉnh Cần Thơ, Đồng
Tháp, Tiền Giang, Hậu Giang,An Giang, Vĩnh Long –Tháng 3/2004), Phạm Thị Thúy Trang ghi
nhận: “nếu như cách đây 10 năm, việc lấy chồng Đài Loan bị phê phán thì giờ đây ở cộng đồng
đã không còn coi đây là hiện tượng bất thường. Dư luận ở đồng bằng sông Cửu Long hiện đang
chuyển từ chỗ phản đối sang thái độ cảm thông và dần dần đồng tình”. Trong 635 bậc cha mẹ có
con lấy chồng Đài Loan được hỏi, 632 người cho rằng được họ hàng, hàng xóm đồng tình, 630
người cho rằng được chính quyền đồng tình, 73,7% trong số 460 thanh niên từ 15 đến 25 tuổi
cho rằng hiện tượng lấy chồng Đài Loan là bình thường. [Phạm Thị Thúy Trang 2004]. Ở miền
Tây Nam Bộ gần đây, câu ca dao “Má ơi đừng gả con xa…” được cải biến thành “con xin má gả
Đài Loan/ Tiền nhiều bạc lắm hân hoan trong lòng.
Góp phần làm nên sức hấp dẫn Đài Loan còn phải kể đến ảnh hưởng truyền thông. Những phim
truyện Đài Loan chinh phục cư dân Nam Bộ nhiều hơn Bắc Bộ( số giờ phát sóng trên truyền
hình nhiều hơn, nhiều đất hơn tren các tập chí sân khấu điện ảnh, mốt, thời trang của các địa
phương). Thập niên 90 của thế kỉ XX, dòng phim tình cam lãng mạn{Câu chuyện Đài Bắc, Dòng
sông ly biệt, Xóm vắng, Hải Âu phi xứ, bên dòng nước…}với những kịch bản cảm động, những
diễn viên xuất sắc (Lưu Tuyết Hoa, Tần Hán…) đã lấy không biết bao nhiêu nước mắt của các
khán giả nữ. Từ năm 2001, dòng phim thần tượng kết hợp sức mạnh những kịch bản chuyển thể
từ truyện tranh manga ăn khách của Nhật Bản(Vườn Sao Băng, Thơ Ngây, HanaKimi, công tử
nhà nghèo, nàng juliet Phương Đông…) với những diễn xuất của những “công chúa, hoàng tử”
điện ảnh[ nhiều người đồng thời là diễn viên người mẫu , ca sĩ nổi tiếng Đài Loan ( như nhóm
F4- Ngô Thừa Húc, Châu Du Dân, Chu Hiếu Thiên…)hoặc kết hợp Đài Loan – Hàn Quốc( Lâm
Chí Dĩnh – Lưu Ha Na )]lại đặc biệt thu hút các khán giả tuổi teen. Phim thần tượng Đài Loan có
giai đoạn (như năm “bội thu 2007”) lấn lướt cả Hàn lưu{hallyu- làn sóng gắn với phim truyền
hình Hàn Quốc). Hình tượng Đài Loan, qua sự thể hiện của văn hóa đại chúng, như một “ con
rồng châu Á” kinh tế phát triển thịnh vượng đồng thời như một xứ sở tình yêu lãng mạn, đã trở
thành giấc mộng của nhiều cô gái Tây Nam Bộ.
Phim truyền hình Đài loan không chỉ được chiếu trên truyền hình mà còn phát hành rộng rãi qua
băng đĩa DVD do đó đến được đông đảo cư dân Tây Nam Bộ. Trong khi đó, ở Tây Nam Bộ báo
chí và phim truyện cũng như phim tài liệu Việt Nam lại là những phương tiện truyền thông hạn
chế hơn. Những khía cạnh tiêu cực, những câu chuyện bi kịch trong hôn nhânViệt Đài được phân
tích qua hằng trăm bài báo ( trong đó đặc biệt nổi bật phóng viên Trang Hạ báo Thanh Niên)
hoặc được dựng thành phim (điển hình như phim truyện Những cuộc tình trắng đen) hầu như có
rất ít ảnh hưởng.
Siết chặt các quy định kết hôn với người nước ngoài, quy định chặt chẽ để bảo vệ cô dâu Việt,
tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội, vai trò của gia đình.
Ở Việt Nam, từ nhiều năm trước dư luận xã hội và báo chí cũng đã nhiều lần lên tiếng và cảnh
báo trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài ngày càng gia tăng. Từ năm 1995 đến nay,
hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều tra các đường dây tuyển các thôn nữ đem về Tp. HCM
nuôi nhốt trong những phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Trung Quốc,
Đài Loan đến tuyển lựa. Chưa kể hàng trăm bài báo mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Trung Quốc,
Đài Loan bị ngược đãi, làm vợ tập thể,...phải trốn về nước (Phụ nữ, 28.4.2006).
Có thể nói, qua báo chí đã cho thấy một sự biến đổi chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội trong quan
niệm của các thôn nữ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long về hôn nhân với người nước ngoài,
qua việc cải biên câu hát “Má ơi đừng gả con xa...” thành “Con xin má gả Đài Loan, tiền nhiều
bạc lắm hân hoan trong lòng”. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người nước ngoài
hiện nay là “Xu hướng lấy chồng Đài Loan tăng lên, trẻ hoá cô dâu.
b. Đài Loan:
Dư luận Đài Loan có những cái nhìn tiêu cực đối với những cô dâu đến từ Việt Nam cũng như
đến từ các nước châu Á khác.
Biển môi giới hôn nhân với cô dâu Việt tràn lan ở Đài Loan
Nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân gia đình là những lý do chính yếu khiến cô dâu Việt ở Đài
Loan chấp nhận đi đến giới hạn chịu đựng tối đa để có cuộc sống “dễ thở” hơn, ít nhất là về mặt
tiền bạc. Một bộ phận bị chủ nợ, chồng hờ, bị lừa v.v... ép bán dâm.
Quảng cáo xúc phạm:Việc quảng bá môi giới kết hôn với cô dâu Việt tại Đài Loan không chỉ còn
giới hạn trong các trung tâm môi giới hôn nhân hoặc các công ty du lịch, mà được phát triển tới
mức như một sản phẩm chào bán rộng rãi trên kênh truyền hình mua sắm ở Đài Loan. Kênh này
đã phát sóng rộng rãi hình ảnh các cô gái Việt e lệ trong bộ áo dài truyền thống khi đang học
tiếng Hoa, học nấu đồ ăn Đài Loan và học cách ứng xử trong một gia đình Đài Loan kèm theo
những lời giới thiệu: “Da trắng, thân thế gia đình trong sạch, không mắc bệnh phụ khoa, tính nết
dịu dàng…”.
Show quảng cáo cô dâu Việt trên một kênh truyền hình Đài Loan
Nhiều người dân Đài Loan cho biết họ không lạ lẫm gì về việc môi giới hôn nhân với cô dâu
Việt. Bởi ngoài quảng cáo trên kênh mua sắm, các bảng hiệu giới thiệu về cô dâu Việt đầy rẫy
khắp nơi với những lời quảng cáo coi thường nhân phẩm như: “Lấy cô dâu Việt chỉ cần từ
18.000-20.000 Đài tệ (129-144 triệu đồng), cam kết 4 điều: bảo đảm còn trinh; bảo đảm 3 tháng
cưới được về nhà; bảo đảm không tăng giá; trong một năm nếu cô dâu bỏ chạy, bảo đảm đền một
cô khác”. Chính những lời lẽ quảng cáo này đã khiến người dân Đài Loan có cái nhìn khinh miệt
và rẻ rúng cô dâu Việt.
Một quảng cáo kết hôn với phụ nữ Việt Nam
Ngay cả báo Văn Hối (Hồng Kông) ngày 26.12.2006 cũng viết một bài cám cảnh cho các cô dâu
Việt với nhan đề Vì cuộc sống, cô dâu Việt tại Đài Loan đánh bạc cả tính mạng. Theo bài báo,
phong trào lấy cô dâu nước ngoài bắt đầu rộ lên ở Đài Loan từ năm 1994 và vẫn phát triển liên
tục cho tới nay, tuy từng bị phản đối mấy năm vừa qua bởi sự lo ngại về một thế hệ tương lai Đài
Loan có dân trí thấp và hôn nhân không bền vững.
Theo một số phóng sự truyền hình, chỉ riêng năm 2003, số cô dâu Việt được gả sang Đài Loan
lên tới 10.000 người và phần lớn gặp cảnh ngộ không may. Tháng 6 vừa qua, chỉ vì tranh chấp
nuôi con sau khi ly dị vợ Việt, một ông chồng Đài Loan đã đâm trọng thương vợ ngay trên phố
và một ông chồng khác đã tẩm xăng hỏa thiêu đứa con gái 2 tuổi ngay tại nhà. Ông Ngô Triệu
Quân - một nhà tâm lý học ở Đài Loan - thừa nhận thực chất của việc môi giới hôn nhân chính là
sự mua bán.
Quảng cáo môi giới cô dâu Việt Nam là một tờ rao vặt dán trên tường
Gần đây, truyền thông Đài Loan đã có những nỗ lực để cải thiện tình thế. Năm 2007, cuộc thi
viết tiếng Lòng của cô dâu di dân do Đảng Dân tiến và Hội phụ nữ Tân Cảnh Giới của Đài Loan
tổ chức, tạo cơ hội cho các cô dâu ngoại đươc nói lên tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ.
Cũng năm này, bán nguyệt sang Bốn phương (song ngữ Việt- Hoa) ra mắt, như một diễn đàn
giúp các cô dâu Việt hòa nhập văn hóa Đài Loan hiệu quả hơn. Năm 2008, chương trình cô dâu
Việt ở Đài Loan chính thức được phát sóng vào tối thứ bảy hàng tuần. Nói về ý nghĩa của
chương trình ,steve Wu, giám đốc Dịch vụ truyền hình Đài Loan nhấn mạnh: “chúng ta đã đạt
được sự thần kì về kinh tế, (…) giờ đây chúng ta bước vào thời kì mới, trở thành một xứ sở của
những người nhập cư. Chúng ta chào đoán các người nhập cư vào các gia đình, sự hiện diện của
họ sẽ giúp cho Đài Loan thêm phong phú. Chương trình này là nhằm thể hiện lòng yêu mến của
chúng ta với các cô dâu nhập cư”. Phụ nữ Việt Nam chiếm tỉ lệ lớn trong các cô dâu nhập cư, là
“những cô gái đáng yêu nhất châu Á” [Mai Trang 2007].
3. Hôn nhân Việt – Đài ở miền Tây Nam Bộ nhìn từ văn hóa tổ chức:
3.1 Vấn đề môi giới và thị trường hôn nhân :
Những cô gái trẻ VN, đặc biệt là ở những vùng quê nghèo khó, mong muốn được nhanh chóng
“đổi đời” bằng cách kết hôn với người Đài Loan. Nếu bỏ qua những hệ quả vĩ mô như tình trạng
“chảy máu chất xám” khi “chất lượng” phụ nữ VN kết hôn với nam Đài Loan, sự mất cân đối về
giới ở VN và Đài Loan, thì ở tầm vi mô chúng ta cũng có thể thấy được một thực trạng khá buồn
là hầu như tất cả các cô gái trẻ VN lấy chồng ĐL là vì lý do kinh tế.
Hơn 100 cô gái nhốn nháo tại ngã tư Tạ Uyên - Nguyễn Chí Thanh (phường 15, quận 5, TP
HCM), rồi lần lượt xếp hàng vào khách sạn Hoàng Hậu để vài chàng Đài Loan coi mắt. Và rồi
từng tốp 3-5 cô gái buồn bã trở ra, leo lên những chiếc xe máy lao đi. Đó là khung cảnh của chợ
môi giới lấy chồng Đài Loan.
Từ sau Tết Tân Tỵ, đàn ông Đài Loan sang Việt Nam lấy vợ thưa dần, trong khi số lượng các
thiếu nữ muốn lấy chồng ngoại không giảm. Vài ba ngày lại diễn ra một đợt coi mắt. 5, 6 người
Đài Loan tha hồ lựa chọn trong số hàng chục, hàng trăm “ứng cử viên”. Đợt ồn ào ở nhà hàng
Ngân Sương, công an phường 15, quận 5 đã vào cuộc nhưng cũng không thể tìm thấy dấu hiệu gì
của sự phạm pháp. Và tất nhiên không xử lý được. Chủ nhà hàng chỉ thừa nhận mình có “bán”
một bữa tiệc với chỗ ngồi và các món ăn. Còn thực khách là ai và họ làm gì trong buổi tiệc ấy,
nếu không phạm pháp thì đâu thể cấm họ được.
Tiếp xúc với các cô gái đi coi mắt, họ rất dè dặt, có cô thì lịch sự nói: “Đến đây chơi thôi, không
có chuyện gì”, có cô gạt phăng: “Đi đâu kệ người ta hỏi làm gì?”. Nhiều cô đã kịp khoác lên
mình những bộ trang phục theo mốt của dân thành thị nhưng trông dáng điệu thì biết là gái quê.
Đa số họ còn rất trẻ.
Theo những người am hiểu thì trước đây, "hội chứng" lấy chồng Đài Loan đã bùng nổ, song,
cách coi mắt, chọn đối tượng của các đôi nam nữ khi ấy còn e dè, thậm chí được che đậy khéo
léo bởi những bữa tiệc sinh nhật, tiệc cưới của người quen. Từ hơn một năm nay, nhiều nơi trên
địa bàn TP HCM xuất hiện những "hội thi kén vợ" công khai, thậm chí gây ồn ào mất an ninh
trật tự. Bên cạnh những địa điểm bắt chợt, thỉnh thoảng mới diễn ra một lần, các "phiên chợ tình"
ở khu vực cư xá Bình Thới (phường 8, quận 11) được xem là thường xuyên và quy mô nhất.
Công an phường từng có những báo cáo cho thấy số "ứng cử viên" của mỗi lần coi mắt tại đây
lên đến 200-300 cô. Những ông mai, bà mối đã sục sạo về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và
tạm ứng trước tiền cho những cô gái lấy chồng Đài Loan. Sau đó, họ dắt các cô lên TP HCM,
cho tá túc tại các khu nhà cho thuê chờ ngày mở "hội coi mắt". Đầu tháng 5, trong vòng hai tuần
lập lại trật tự tại khu cư xá Bình Thới, cơ quan chức năng đã xử phạt hàng chục xe Honda ôm
chở 3-4, gần 50 cô gái tụ tập không có chứng minh nhân dân.
Những cô gái này đều không có giấy tờ tùy thân, thậm chí không có 50.000 đồng để đóng tiền vi
phạm hành chính. Bên cạnh những công ty môi giới chuyên nghiệp, còn có cả đội ngũ "cò" và
những tổ chức "nuôi" gái. Để lọt vào mắt xanh của chú rể, các cô gái phải trải qua một cuộc thi
thân thể, bị đối xử khá tàn tệ. Nếu bị thi trượt những nàng dâu hụt thường bị ép bán dâm. Theo
một phụ nữ hành nghề môi giới cho biết: “Môi giới ở Việt Nam chỉ thuộc dạng cò con, trong khi
đó bên Đài Loan ra nhiều công ty môi giới hiện đại hơn, đưa hình lên Internet, còn bảo đảm
trong vòng 1 năm các cô dâu không trốn... Các công ty ra giá mềm nên hốt hết khách. Phí trọn
gói cho việc lấy một cô vợ Việt Nam giờ chỉ còn khoảng 180.000 - 200.000 Đài tệ.”. Môi giới
thành công một đám cưới, người môi giới sẽ được hưởng từ 200 đến 300 USD.
Bản thân môi giới không gây phản ứng tiêu cực ở Tây Nam Bộ. Vấn đề ở chỗ, khác với mai mối
truyền thống vốn là hình thức giúp cho cô dâu, chú rể và hai bên thông gia tương lai có điều kiện
hiểu biết nhau thì môi giới hôn nhân Việt – Đài giờ đây, trong nhiều trường hợp, mang rõ tính
chất buôn người, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam và tạo nên những tiền đề tệ hại, không
thể cứu chữa cho cuộc hôn nhân về sau.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, từ năm 1998- 31/12/2010 đã có 294.280 phụ nữ Việt Nam kết
hôn với người nước ngoài có quốc tịch trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhiều nhất là với đàn
ông Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Canada, Pháp, Hoa Kỳ…
Trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long có số cô dâu Việt lấy chồng nước ngoài có tỷ lệ cao vượt
trội. Năm 2003, cả nước có 11.358 cô gái kết hôn với người Đài Loan thì ở các tỉnh ĐBSCL là
7.285 người. Trong đó, Cần Thơ, Đồng Tháp là những điểm nóng của tình trạng này, sau đó là
An Giang, Vĩnh Long.
Đặc biệt là xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, Cần Thơ còn được gọi là "Đảo Đài Loan". Những cô
gái lấy chồng Đài Loan có độ tuổi trung bình từ 18- 48 tuổi. Trong đó người chồng Đài Loan có
độ tuổi từ 22-78 tuổi. Có những cô còn chấp nhận kết hôn với người đáng tuổi cha chú của mình.
Đa phần việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài chủ yếu xuất phát từ mục đích
kinh tế thông qua môi giới, vội vàng.
Những người đàn ông nước ngoài muốn lấy vợ Việt Nam phải trả phí khoảng 10.000 USD cho tổ
chức môi giới. Khi được chọn, cô dâu sẽ gửi một bộ hồ sơ sang quốc gia của chú rể. Cặp đôi này
được ĐKKH vắng mặt ở nước ngoài, sau đó chú rể mới sang Việt Nam gặp cô dâu và trải qua
một cuộc phỏng vấn với Sở Tư pháp để đủ điều kiện được cấp "Giấy ghi chú kết hôn" ở trong
nước.
Quá trình nhiều kẽ hở này đang bị lợi dụng, không ít cô dâu Việt đã rơi vào hoàn cảnh bi đát, bất
hạnh, chỉ một số ít cô may mắn tìm được hạnh phúc. Đã từng có rất nhiều cô dâu Việt bị sát hại,
tự tử hoặc
Theo số liệu tổng kết của TAND Tối cao năm 2010, cả nước có 88.591 vụ ly hôn, tăng đáng kể
so với năm 2009 79.769 trường hợp và 65.351 trường hợp vào năm 2008.
Nghiên cứu quốc gia về gia đình mới nhất cho thấy mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng
đầu (27,7%) dẫn đến ly hôn. Các yếu tố tiếp theo là ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực
gia đình (6,7%), lý do sức khỏe (2,2%) và do xa nhau lâu ngày (1,3%).
Sự phát triển nhanh về kinh tế đã mang lại cho phụ nữ nhiều cơ hội để có thu nhập tốt hơn, độc
lập hơn, ít bị ảnh hưởng bởi các giá trị truyền thống hơn dẫn đến tình trạng ly hôn ngày càng
nhiều hơn.
3.2 Vấn đề xuất nhập cảnh cô dâu :
a. Đài Loan
Hết sức nhanh chóng trong thủ tục nhập cảnh nhưng hết sức chậm chạp trong thủ tục nhập tịch.
Theo thống kê của Văn phòng Kinh tế -Văn hóa Đài Bắc tại TP Hồ Chí Minh, từ năm 1995 đến
cuối tháng 10 năm 2004 có 84.479 phụ nữ Việt Nam kết hôn với đàn ông đến từ Đài Loan.
Về phía Đài Loan, vấn đề kết hôn giữa đàn ông Đài Loan với các cô gái Việt Nam đã được Văn
phòng Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan thống kê sớm nhất vào năm 1994 với 530 người, và
những số liệu từ năm 1997 trở về trước được thống kê đầy đủ hơn so với số liệu của Văn phòng
Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc ở thành phố Hồ Chí Minh. Trái lại, số liệu của Văn phòng kinh tế
-Văn hóa Đài Bắc ở TP Hồ Chí Minh từ những năm 1998 lại đây lại có xu hướng đầy đủ, tỷ mỉ
hơn so với số liệu thống kê của Cục Lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan. Theo thống kê của Cục
Lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan từ năm 1994 đến năm 2000, tỷ lệ cô dâu Việt Nam so với cô
dâu các nước Đông Nam Á ở Đài Loan tăng khá nhanh. Năm 1994, cô dâu người Việt Nam
chiếm 10,8%, năm 1995 chiếm 26,0%, năm 1997 là 36,7%, năm 1998 là 52,3%, năm 1999 là
54,8% và năm 2000 là 61,6%.
Về con số cụ thể của Cục lãnh sự Bộ ngoại giao Đài Loan đã cấp cho các cô dâu thuộc các nước
Đông Nam Á di trú đến Đài Loan thông qua hôn nhân từ năm 1994-2000 như sau:
Số lượng visa của Đài Loan đã cấp cho cô dâu các nước Đông Nam Á
di trú đến Đài Loan(1994-2000)
Các số liệu thu thập được trong những năm qua cho thấy số lượng cô gái Việt Nam kết hôn với
người Đài Loan phát triển mạnh vào năm 2000 và sau đó giảm đôi chút vào năm 2001 nhưng đến
2002 lại tăng trở lại. Từ năm 2003 số cuộc kết hôn Đài - Việt có giảm hơn, trong quý I/2004 vẫn
có 2.423 phụ nữ kết hôn với người Đài Loan.
Tuy nhiên, pháp luật “Hạn chế di dân mới” có những quy tắc ràng buộc cực kì nghiêm ngặt
như: trước khi lấy được chứng minh thư thì quyền lưu trú của các cô gái nước ngoài không được
đảm bảo, chỉ cần mảnh giấy nhỏ cũng có thể buộc họ quay về nước,…Tất cả những điều này làm
tăng trở ngại cho quá trình hoà nhập văn hoá, càng khó khăn cho việc xây dựng tình nghĩa vợ
chồng vốn thiếu nền tảng yêu đương,…Họ sẽ phải cố gắng chịu đựng để lấy được chứng minh
thư nhưng không hiếm trong số họ sẽ xem đó là thời điểm thanh lý hợp đồng đối với cuộc hồn
nhân mà họ không tìm thấy được hạnh phúc.
Quan hệ nghịch lý này khiến trong suốt một thời gian dài, kết hôn Việt – Đài tăng số lượng ào
ạt, nhưng mang sẵn những tiềm năng tiêu cực, kể cả tạo kẽ hở cho cuộc hôn nhân giả.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nội chính và Cục Di dân Đài Loan, tính tới tháng 2.2011, số cô
dâu Việt ở vùng đô thị mới Đài Bắc là 14.209 người, ở TP.Cao Hùng: 9.860 người, ở TP.Đài
Bắc: 4.513 người, ở TP.Đài Trung: 8.642 người, ở TP.Đài Nam: 6.651 người.
b. Việt Nam
Theo số liệu của Cục Di dân, Bộ Nội chính Đài Loan, tính tới cuối tháng 10.2011, tổng số cô dâu
Việt Nam ở Đài Loan đã lên tới 85.990 người, chiếm 18,82% cô dâu nước ngoài ở Đài Loan
Theo nghiên cứu mới nhất, được tác giả Trần Hồng Vân công bố tại hội thảo Việt Nam học lần
thứ 2, "phong trào" lấy chồng Đài Loan trong phụ nữ các tỉnh phía Nam ngày càng "nóng". Chỉ
từ tháng 1/1995 đến tháng 10/2005 số đôi vợ chồng Việt - Đài được cấp phép nhập cảnh đã đạt
tới 72.411 cặp, đa số là chồng Đài già - vợ Việt trẻ.
Phụ nữ ở Đồng bằng sông Cửu Long lấy chồng là người nước ngoài có nhiều quốc tịch khác
nhau, nhưng chủ yếu vẫn là người Đài Loan. Tỷ lệ cô dâu Việt kết hôn với người Đài Loan ở các
tỉnh ĐBSCL cao vượt trội so với toàn quốc. Năm 2003, cả nước có 11.358 cô gái kết hôn với
người Đài Loan thì ở các tỉnh ĐBSCL là 7.285 (chiếm 64,14%). Trong đó, Cần Thơ, Đồng Tháp
là những điểm nóng của tình trạng này, sau đó là An Giang, Vĩnh Long.
Độ tuổi trung bình của cô dâu có chồng Đài Loan ở Đồng Tháp là 21 tuổi, còn tuổi trung bình
của chú rể là 36 tuổi. Trong đó, cô dâu cao tuổi nhất là 39 tuổi, thấp nhất là 18 tuổi. Chú rể cao
tuổi nhất là 80 tuổi, thấp nhất là 21 tuổi. Như vậy, cũng giống các tỉnh khác thuộc ĐBSCL, các
cặp kết hôn ở Đồng Tháp có sự chênh lệch tuổi rất lớn.
Về nghề nghiệp, những người tham gia vào hôn nhân Đài - Việt phần lớn thuộc về tầng lớp lao
động. Các chú rể Đài Loan đa phần là người làm công, công nhân, còn các cô dâu Việt Nam
thường xuất thân trong gia đình nông dân, làm nông nghiệp hoặc chỉ ở nhà làm nội trợ. Không cả
nghề nghiệp phụ, nguồn thu nhập hầu như không có hoặc nếu có thì rất thấp, đây là lý do chính
để phụ nữ mong muốn kết hôn với người nước ngoài.
Chính sách ở Việt Nam thiếu những quy định chặt chẽ đối với những cuộc hôn nhân xuyên quốc
gia.
Những cô dâu Việt Nam khi lấy chồng xuất ngoại sang Đài Loan, hầu hết các cô đều mong muốn
có thể giữ lại quốc tịch Việt Nam của mình trong khi họ đã được cấp chứng minh thư Đài Loan.
Lý do thật đơn giản: quốc tịch Việt Nam như một bước lùi an toàn, một “bùa hộ mệnh” cho họ
nếu chẳng may cuộc sống của họ ở Đài Loan gặp trắc trở.
Nhiều cô dâu Việt muốn bỏ về nước để thoát khỏi cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nhưng
phần lớn họ đều không nỡ rời bỏ con mình, do ly dị xong, họ sẽ bị mất quyền nuôi con bởi không
có công ăn việc làm và kinh tế ổn định. Tuy vậy, cũng có một số trường hợp do không thể chịu
đựng nổi, sau nhiều lần hòa giải không được, cũng quyết tâm dứt áo ly dị, bỏ về Việt Nam, để lại
con cho chồng. Nhiều cô dâu sang Đài Loan sinh sống được nhiều năm, thì mấy năm phải chăm
sóc phục dịch người chồng bị bệnh rất vất vả. Nhưng cuối cùng mẹ chồng vẫn đuổi đi, không
cho ở chung vì không thích họ. Chồng bất lực không dám bênh vực do cuộc sống hiện tại hoàn
toàn phải nương tựa vào mẹ. Vậy là sau bao nhiêu năm làm dâu xứ người, các cô lại quay về
xuất phát điểm ban đầu: không tiền bạc, không con cái, không chồng và giờ tự kiếm việc nuôi
thân. Chính quyền Việt Nam nên kiểm soát chặt chẽ hơn đối với quyền lợi người con gái Việt
Nam và hơn thế nữa là những đứa trẻ tương lai mang dòng máu Việt khỏi những bi kịch hôn
nhân.
3.3 Vấn đề khắc phục rào cản ngôn ngữ và văn hoá:
Từ góc độ văn hoá, vấn đề là cần chuẩn bị hành trang tối thiểu cho các cô gái muốn lấy chồng
Đài Loan như bổ túc ngoại ngữ tối thiểu trong giao tiếp, tìm hiểu sơ đẳng về phong tục tập quán
Đài Loan, hiểu biết tối thiểu về Luật hôn nhân và gia đình của hai bên và khi cần thiết thì liên hệ
với những cơ quan hữu trách nào... Mặt khác, chúng ta cũng cần có văn bản dưới luật yêu cầu
người Đài Loan muốn lấy vợ Việt Nam phải tuân theo, phải tham gia khoá học bổ túc tối thiểu
tìm hiểu những điều luật và phong tục tập quán Việt Nam.
Quan niệm về lấy chồng xa hay gần, trong nước hay ngoài nước đã và đang thay đổi trong thời
kỳ hội nhập. Sự thay đổi về quan niệm này có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, tình cảm của cô
dâu, chú rể cũng như gia đình đôi bên. Nó từng bước xoá nhoà ranh giới xa gần về địa lý trong
suy nghĩ về tình yêu và hôn nhân giữa các đôi trai gái không cùng một vùng miền, một quốc tịch.
Trước khi dẫn đến hôn nhân, lẽ thường tình là cô dâu chú rể tương lai cùng gia đình hai bên đều
muốn tìm hiểu về đối tượng của mình. Trong vấn đề hôn nhân quốc tế, ngoài bản thân đối tượng
sắp hôn nhân ra, phong tục tập quán, đất nước, con người xứ lạ cũng là điều các đối tượng hôn
nhân quan tâm. Tuy văn hoá Việt Nam - Đài Loan có nhiều nét tương đồng, những cũng không ít
dị biệt. Vấn đề giới thiệu và phổ biến văn hoá Việt Nam và Đài Loan ở hai bên, đặc biệt là phong
tục tập quán, trong đó có phong tục hôn nhân chưa làm được bao nhiêu, nếu không nói là quá ít.
Bởi vậy, những cuốn sách mỏng giới thiệu đại cương so sánh văn hoá hai bên cần gấp rút ra mắt
bạn đọc, không chỉ so sánh nét tương đồng mà còn nêu cả nét khác biệt.
Khó khăn lớn nhất của các cô dâu Việt Nam là bất đồng ngôn ngữ, vốn sống ít, học vấn và đời
sống trước kết hôn thấp, lại không nghề nghiệp và chưa hiểu biết pháp luật, phong tục tập quán
Đài Loan. Chưa kể, nhiều cô không biết cách liên lạc hoặc không quen "kêu cứu" với cơ quan
chức năng..., dù trước khi về nhà chồng đã được Văn phòng kinh tế Đài Bắc tại Hà Nội và TP
HCM phát Sổ tay hướng dẫn về an toàn bản thân phụ nữ và các số điện thoại cứu giúp khẩn cấp
bằng tiếng Việt. Nhiều cô đã không thể tự bảo vệ khi bị ngược đãi, mất quyền phân chia tài sản
và nuôi con khi ly hôn.
Để giảm số cô dâu Việt Nam bất hạnh, bảo vệ quyền lợi và giúp họ sống bình đẳng như phụ nữ
bản xứ, Chính phủ Đài Loan đã đầu tư khoảng 300 triệu USD cho các hoạt động trợ giúp, như
dạy "làm dâu", dạy nghề và tiếng, mở chương trình phát thanh tiếng Việt cho cộng đồng các cô
dâu Việt. Ở Đài Loan hiện có 3 tổ chức lớn có thể giúp đỡ, bênh vực các cô dâu nước ngoài là
Sở Tư pháp, Sở Xã hội và Sở Dân chính (chưa kể nhiều tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cho các cô
dâu nước ngoài nói chung, Việt Nam nói riêng).
Rất cần thiết những khoá học ngôn ngữ cũng như về văn hoá cho cá cô dâu Việt Nam trước cũng
như sau khi sang Đài Loan. Bản thân các cô dâu cần được giảng giải để hiểu biết được tầm
quan trọng của khoá học. Nội dung các khoá học, một mặt cần thiết thực, một mặt cần sử dụng
những thành tựu nghiên cứu , đặc biệt là những nghiên cứu so sánh sâu sắc của các học giả Việt
Nam và Đài Loan tập trung trí tuệ và tâm huyết cho vấn đề.
Để giảm bớt rào cản văn hoá, bản thân các cô dâu cũng nên tích cực hoà nhập và học hỏi nền
văn hoá của Đài Loan. Nhìn chung, việc này cũng khá thuận lợi do văn hoá Việt Nam và Đài
Loan có nhiều nét tương đồng. Tuy nhiên ở Đài Loan, tính tôn ti trật tự gia đình có tính nghiêm
ngặt hơn, khoảng cách quyền lực giữa người trên và người dưới lớn hơn, mức độ nam tính cao
hơn. Trong khi đó, ở Việt Nam, cụ thể là người dân Tây Nam bộ lại dân chủ và thoải mái, sống
thiên về tình hơn.
Và trong những cuộc hôn nhân xuyên quốc gia này, việc khắc phục những rào cản ngôn ngữ và
khác biệt văn hoá như thế đòi hỏi không chỉ với người vợ Việt Nam mà còn với người chồng Đài
Loan.
Kết luận:
Trên thực tế, quan hệ kinh tế, văn hoá và hợp tác lao động giữa Đài Loan và Việt Nam không
ngừng được tăng cường đã giúp cho việc đi lại, giao lưu giữa hai bên được thuận tiện và đơn
giản hơn, nữ Việt Nam và nam Đài Loan cũng vì vậy mà có điều kiện để tiếp xúc, tìm hiểu và đi
đến hôn nhân.
Mặc khác, điểm tương đồng về cơ bản giữa văn hóa Việt Nam và Đài Loan ( di sản của nho giáo
với sự coi trọng gia đình, đức hạnh của người phụ nữ) là những “ lực hút” khiến cho hôn nhân
Việt- Đài trở thành hôn nhân xuyên quốc gia quan trọng nhất đối với cả hai nước. Tuy nhiên,
những đặc trưng khác biệt về mức độ, cách thế cụ thể trong văn hóa truyền thống cũng như quá
trình hện đại hóa Việt Nam và Đài Loan cũng tạo ra những trở ngại cho hôn nhân Việt – Đài.
Việt Nam, mà nhất là Nam Bộ, đa dạng chủng tộc hơn do đó ý thức văn hóa cởi mở hơn trong
khi Đài Loan trên nền tảng thuần chủng lâu dài phân biệt cứng rắn hơn giữa trong nhóm và ngoài
nhóm, giữa văn hóa chủ lưu và các yếu tố ngoại biên. Một cách tương đối, ở Đài Loan xã hội
mang tính chất trục tung hơn, với tôn ti nghiêm ngặt hơn, khoảng cách quyền lực rộng hơn, nam
tính hơn, trong khi ở Việt Nam nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, xã hội mang tính chất trục
hoàng hơn, với tính dân chủ mềm mại hơn, khoảng cách quyền lực hẹp hơn, nữ tính hơn.
Đề tài có sự kết hợp giữa nghên cứu lịch đại và đồng đại, việc tiếp cận từ góc nhìn văn hóa như
một hệ thống và sự tích hợp kiến thức và phương pháp của các ngành khoa học liên quan, mà nổi
bật lên trong đó vẫn là yếu tố so sánh với cái nhìn đa diện, nhiều chiều đã góp phần làm rõ hơn
vấn đề hôn nhân xuyên quốc gia ở miền Tây Nam Bộ dưới góc nhìn văn hóa.
Ngày nay, hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan hiện nay đã không còn là một vấn
đề thời sự nóng bỏng nhưng vẫn cần những nghiên cứu và biện pháp đúng đắn để nâng cao chất
lượng những cuộc hôn nhân với người Đài Loan nói riêng và người nước ngoài nói chung, đưa
những cuộc hôn nhân này trở về đúng ý nghĩa mà nó cần có.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Mạnh Cát, “Hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và người Đài Loan”, Đề tài cấp Viện năm
2006, tr.31.
2. Lý Xuân Chung – Đinh Thị Dung, “Vấn đề Cô dâu Việt Nam và chú rễ Đài Loan từ góc nhìn
văn hóa”, năm 2007.
3. Phan Thị Thu Hiền, “Hôn nhân Việt – Đài miền Tây Nam Bộ dưới góc nhìn văn hoá, đề tài
Hội thảo So sánh nhân văn Việt – Đài”, năm 2010.
4. Đinh Văn Quảng, “Thực trạng phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, các giải pháp và đề xuất
phối hợp giải quyết”.
5.Gs. Vương Hồng Nhân, “Học giả Đài Loan sang VN bàn về cô dâu Việt”