Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Benh_lien_cau_khuan_o_lon.doc.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.38 KB, 9 trang )

Bệnh liên cầu khuẩn ở lợn (Streptococcus suis)
Khái niệm: Streptoccocus suis nhiễm phổ biến ở lợn con một vài tuần
tuổi đến sau cai sữa vài tuần. Đặc trưng lâm sàng của bệnh là nhiễm
trùng huyết, viêm màng não, viêm khớp và viêm phế quản phổi.
Streptoccocus suis típ 2 có thể gây bệnh cho người.
Dịch tễ học
Sự xuất hiện bệnh: Bệnh gây ra do Streptoccocus suis xảy ra ở
những nơi nuôi lợn trên khắp thế giới. Lợn con sơ sinh đến 22 tuần
tuổi có thể bị mắc. Nhiều trường hợp xảy ra sau khi cai sữa liên quan
đến yếu tố stress như vận chuyển, xáo trộn đàn, mật độ quá cao,
không đủ thông gió. Streptoccocus suis típ 2 gây ra nhiều ổ dịch viêm
màng não lợn con 10 – 14 ngày sau cai sữa. Gần đây, bệnh hay xảy
ra ở lợn sau cai sữa chăn nuôi tập trung với mật độ cao.
Vi khuẩn còn phân lập được ở bò, dê, cừu, ngựa khi viêm màng não.
Sự lưu hành vi khuẩn: bằng nhiều phương pháp khác nhau người ta
đã xác định được sự lưu hành của vi khuẩn trong đàn lợn như nuôi
cấy phát hiện vi khuẩn từ các mô lấy từ lò giết mổ, từ lợn con theo
mẹ các lứa tuổi và phản ứng huyết thanh học đối với lợn lớn.
Streptoccocus suis típ 2 được phát hiện ở hầu hết các nước có chăn
nuôi lợn. Một nghiên cứu ở lò mổ lợn của Úc và Niu-di-lân cho thấy ở
hạch amidan đã phát hiện thấy 54% số mẫu nhiễm Streptoccocus
suis típ 1 và 73% nhiễm với Str. suis típ 2; 3% phát hiện thấy vi
khuẩn này trong máu lợn khi giết mổ. Có thể phân lập được vi khuẩn
ở nhiều mô khác nhau, trong đó có cả ở đường sinh dục con cái,
nhưng không thấy ở con đực. Vi khuẩn có thể phân lập từ âm đạo
con nái điều này làm cho con non bị nhiễm trong khi sinh. Nhiễm từ
môi trường bên ngoài cũng chiếm tỷ lệ cao.
Năm 1990, đã xác định có ít nhất 23 serotip. Ở Canada phân lập
được tất cả 23 típ, trong đó típ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất với 32%. Str.
suis típ 2 lưu hành phổ biến ở các nước. Trong một nghiên cứu điều
tra ở Quebec đối với lợn con khoẻ mạnh về lâm sàng 4 – 8 tuần tuổi


cho kết quả 94% số lợn phân lập được vi khuẩn và 98% số trại bị
nhiễm. Những serotip thường thấy theo thứ tự giảm dần là 3, 4, 8 và
2; có 32% số lợn con phát hiện nhiễm 2 serotip phân biệt, nhiễm 3
serotip là 1%. Serotip 1 và 2 phân lập từ lợn con viêm màng não và
viêm phổi hoá mủ. Ở Đan Mạch serotip 7 phát hiện nhiều hơn các
serotip khác, chiếm 75%. Ở Phần Lan, phân lập từ lợn chết thấy
nhiều nhất là serotip 7 sau đó là 3 và 2, thường phân lập từ lợn viêm
phổi. Ở Hà Lan, Str Suis típ 2 phân lập phổ biến nhất ở lợn viêm
màng não. Xét nghiệm từ hạch amidan lợn ở lò mổ (lợn khoẻ mạnh)
ở vùng trước đó có nhiễm liên cầu típ 2 thấy 45% số mẫu dương
tính, ở vùng không có bệnh là 38%. Ở Úc liên cầu típ 9 và típ 2 cho là
nguyên nhân gây ra nhiễm trùng huyết và viêm màng não ở lợn cai
sữa. Ở Canada trong số lợn bệnh phát hiện thấy nhiều nhất là Str.
suis típ 2 sau đó là típ 3, 5 và 7.
Tỷ lệ mắc và chết
Tỷ lệ mắc có biểu hiện lâm sàng từ 0 đến 15%. Điều tra tại một trại
giống trong 2 năm cho thấy tỷ lệ mắc liên cầu típ 2 là 3,8%, tỷ lệ
chết là 9,1%. Ở Anh quốc, tỷ lệ mắc bệnh tăng đáng kể trong những
năm gần đây.
Cách truyền lây
Vi khuẩn khu trú ở hạch amidan và mũi lợn khoẻ, vi khuẩn từ con
khoẻ này truyền cho lợn không bị nhiễm có thể xảy ra trong vòng 5
ngày sau khi nhốt chung. Việc đưa những con nái hậu bị từ đàn
nhiễm bệnh có thể gây bệnh cho lợn con theo mẹ và lợn choai ở đàn
tiếp nhận. Có thể phát hiện tỷ lệ mang trùng ở lợn các lứa tuổi khác
nhau từ 0 đến 80% và cao nhất ở nhóm tuổi sau cai sữa từ 4 đến 10
tuần tuổi. Trong một đàn có thể có tới 80% số lợn nái là con mang
trùng không thể hiện triệu chứng bệnh. Những con mang trùng đã cai
sữa sẽ truyền vi khuẩn cho những con không bị nhiễm khác khi nhập
đàn. Vi khuẩn tồn tại ở hạch amidan lợn mang trùng hơn 1 năm,

ngay cả khi có các yếu tố thực bào, kháng thể và bổ sung kháng sinh
phù hợp trong thức ăn. Điều này cho thấy vi khuẩn mang tính địa
phương ở một số đàn nhưng không thể hiện bệnh lâm sàng. Ruồi nhà
có thể mang vi khuẩn ít nhất 5 ngày có thể gây nhiễm vào thức ăn ít
nhất 4 ngày.
Streptoccocus suis típ 2 có thể phân lập được từ các mẫu thu thập ở
đàn nhiễm khuẩn tại các lò mổ lợn. Trong một số điều tra ở lò mổ cho
thấy tỷ lệ mang trùng từ 32 – 50% lợn từ 4 đến 6 tháng tuổi. Điều
này có thể giải thích tỷ lệ mắc viêm màng não cao ở người Hà Lan do
Streptoccocus suis típ 2. Vi khuẩn này là nguy cơ lớn đối với công
nhân giết mổ lợn, đặc biệt là những người xử lý nội tạng, người cắt
bỏ thanh quản và phổi. Họ phơi nhiễm cao hơn so với những công
nhân giết mổ khác.
Streptoccocus suis típ 2 cũng được phát hiện từ lợn viêm phế quản
phổi, như vai trò thứ phát đối với bệnh suyễn, viêm khớp, viêm âm
đạo, thai bị sẩy, lợn sơ sinh 1 – 2 ngày tuổi bị chết do nhiễm trùng
huyết. Ở Bắc Mỹ vi khuẩn phát hiện thấy nhiều hơn trong bệnh viêm
phổi so với các nước khác.
Yếu tố nguy cơ
Yếu tố vật chủ làm cho lợn mắc bệnh lâm sàng còn chưa biết. Người
ta cho rằng các chủng Str. suis típ 2 có khác nhau về khả năng gây
bệnh, đồng thời sự xuất hiện bệnh phụ thuộc vào sự phơi nhiễm với
chủng gây bệnh và những tác nhân bội nhiễm còn chưa xác định. Lứa
tuổi mắc cao nhất từ 5 đến 10 tuần tuổi, như vậy có thể các tác nhân
stress của cai sữa đã làm cho tính mẫn cảm với bệnh tăng lên.
Tác nhân môi trường: Tỷ lệ mắc bệnh lâm sàng phụ thuộc vào tác
nhân môi trường như không đủ thông thoáng, mật độ đàn cao và các
stress khác. Việc xáo trộn và vận chuyển lợn cũng hay làm bệnh phát
ra. Sự lây lan được truyền trực tiếp từ con mẹ mang trùng cho lợn
con, từ lợn con này lại truyền cho lợn con mẫn cảm khác.

Yếu tố mầm bệnh: Hiện được biết có ít nhất 28 serotip Str. suis. Vi
khuẩn được chia ra thành các nhóm serotip đặc trưng bởi kháng
nguyên vỏ bọc polysaccharide. Ở Canada, 94% lợn con 4 -8 tuần tuổi
khoẻ mạnh về lâm sàng có chứa vi khuẩn ở xoang mũi.
Str. suis típ 2 có thể sống trong phân ở nhiệt độ 0oC tới 104 ngày, 10
ngày ở 9oC, 8 ngày ở 22 – 25oC; có thể sống ở bụi 25 ngày ở 9oC,
nhưng không phân lập được ở bụi nhiệt độ trong phòng (18 - 20oC)
trong 24 giờ. Vi khuẩn bị vô hoạt nhanh chóng bằng các thuốc sát
trùng dùng phổ biến ở các trại chăn nuôi. Nước xà phòng nồng độ
1/500 có thể diệt vi khuẩn trong vòng 1 phút. Vi khuẩn có thể sống
trong xác lợn chết ở 40oC trong 6 tuần, đây có thể là nguồn lây
nhiễm cho con người.
Có sự khác nhau về khả năng gây bệnh giữa các serotip; ở Anh quốc,
khả năng gây bệnh của típ 1 và 2 khác nhau, típ 1 gây bệnh ít trầm
trọng ở lợn con, trong khi đó típ 2 gây bệnh nặng hơn và gây bệnh
cấp tính ở lợn lớn hơn và lợn nuôi vỗ béo. Sự phân biệt giữa các
chủng của Str. suis típ 2 là về khả năng gây viêm màng não.
Yếu tố độc lực của vi khuẩn bao gồm cấu trúc các protein hoạt hoá
men muramidasa và thành phần mặt ngoài màng tế bào vi khuẩn. Sự
phân biệt độc lực giữa các chủng của cùng serotip dựa trên có hay
không protein hoạt hoá men muramidase. Chất liệu vỏ bọc của vi
khuẩn tạo ra sự khác biệt giữa các serotip về hình thái học. Một số
chủng có đặc tính ngưng kết hồng cầu. Liên cầu típ 2 có yếu tố bám
dính phát hiện ở phổi lợn. Kỹ thuật phân tích nhân sử dụng để xác
định cấu trúc gen vi khuẩn.
Yếu tố độc lực của vi khuẩn Str. suis típ 2 được xác định là do protein
có trọng lượng phân tử 44 kDa, sự có mặt của kháng thể chống lại
protein này có thể bảo vệ con vật chống lại bệnh.
Sự nhiễm bệnh trên người
Người nhiễm phổ biến với Str. suis típ 2 và thường xảy ra với người

tiếp xúc với lợn hoặc sản phẩm tươi sống của chúng. Ở Anh quốc tỷ
lệ nhiễm Str. suis típ 2 cao nhất là người bán thịt lợn và công nhân
giết mổ lợn, lây truyền chủ yếu qua vết thương xây sát trên da. Biểu
hiện lâm sàng ở người bao gồm viêm màng não, nhiễm trùng huyết
kèm theo viêm khớp, nội võng mạc và viêm tắc mạch máu. Viêm nội
tâm mạc và viêm dạ dày ruột cấp tính cũng có thể xảy ra. Trong số
35 người mắc bệnh viêm màng não do Str. suis típ 2 ở Anh quốc cho
thấy 50% số bệnh nhân bị điếc, 30% chóng mặt và mất phối hợp,
53% viêm khớp; 13% tử vong. Vi khuẩn ở trong đại thực bào xâm
nhập vào dịch não tuỷ, theo cơ chế “nội công” (ý nói vi khuẩn ở trong
đại thực bào mới vào được dịch não tuỷ). Điếc là do vi khuẩn xâm
nhập từ bề mặt dưới lưới nhện vào phần dịch ở chỗ phân cách màng
và xương búa của tai trong. Lợn nhiễm khuẩn không thể hiện lâm
sàng đưa vào lò giết mổ là nguồn lây nhiễm tiềm tàng cho công nhân
giết mổ; những người xử lý nội tạng, cắt bỏ phổi và thanh quản có
nguy cơ cao hơn so với công nhân giết mổ khác. Trong các đàn lợn
nhiễm bệnh ở Niu-di-lân, tới 100% lợn mang trùng, việc lây nhiễm
Str. suis típ 2 có thể là một trong những vi khuẩn lây bệnh cho người
cao nhất ở Niu-di-lân, mặc dù rất ít khi gây bệnh có biểu hiện lâm
sàng. Tỷ lệ nhiễm không thể hiện lâm sàng, nhưng có phát hiện
kháng thể hàng năm ở công nhân chăn nuôi lợn khoảng 28% ở Niu-
di-lân.
Cách sinh bệnh
Vi khuẩn khu trú ở các hốc của hạch amidan, sau đó xâm nhập vào
hệ tuần hoàn gây ra bệnh ở một số lợn. Lợn con thường bị chết do

×