Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Vấn đề tiếp cận vốn tín dụng vi mô của người nghèo thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.17 KB, 101 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
AAV
ADB
BRI
CEP
CGAP
FAO

Cụm từ tiếng việt
Tổ chức Hành động Viện trợ
Anh
Ngân hàng phát triển Châu Á
Ngân hàng Rakyat Indonesia
Quỹ trợ vốn cho người nghèo
tự tạo việc làm của LĐLĐ
Thành phố Hồ Chí Minh
Nhóm tư vấn hỗ trợ những
người nghèo nhất
Tổ chức lương thực Thế giới

FFH
M7MFI

The Consultative Group to
Assist the Poor
Food and agriculture
Organization of the United
Nations
Freedom from Hunger


Tổ chức tài chính vi mô trách
nhiệm hữu hạn Thanh Hóa

MFO
NGOs

Cụm từ tiếng anh
ActionAid International
Vietnam
Asian Development Bank
Bank Rakyat Indonesia

Microfinance Organization
Non – governmental
Organizaton

Tổ chức phi chính phủ

NHCSXH
NHNN

Ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nông nghiệp và
NHNo&PTNT
phát triển nông thôn
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
SCUK
Quỹ Nhi đồng Anh

SHG
Nhóm tự quản
SIDA

Tổ chức hợp tác phát triển
quốc tế Thủy Điển

TCTCVM

Tổ chức tài chính vi mô

TCTD
TCVM
TDVM
TYM
UBND

Tổ chức tín dụng
Tài chính vi mô
Tín dụng vi mô
Quỹ tình thương
Ủy ban nhân dân
Chương trình phát triển Liên
hợp quốc
Quỹ Dân số của Liên hợp quốc

UNDP
UNFPA

1


The self – help group
Swedish International
Development Cooperation
Agency
Microfinance institutions
(MFIs)

United Nations Development
The United Nations Popu;ation


UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc

World Bank

Ngân hàng thế giới

2

Fund
The United Nations Children’s
Fund


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH VI MÔ VÀ NGHÈO ĐÓI..........1
1.1. Tài chính vi mô...........................................................................................1
1.1.1. Khái niệm tài chính vi mô....................................................................1
1.1.2. Tín dụng vi mô.....................................................................................1
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng.....................................................................1
1.1.2.2. Khái niệm tín dụng vi mô...........................................................2
1.1.2.3. Tín dụng vi mô theo quan điểm cũ.............................................2
1.1.2.4. Tín dụng vi mô theo quan điểm hiện đại....................................3
1.1.3. Tổ chức tài chính vi mô.......................................................................3
1.1.3.1. Khái niệm tổ chức tài chính vi mô..............................................3
1.1.3.2. Đặc điểm và các hoạt động của tổ chức tài chính vi mô............4
1.1.3.3. Vai trò của tổ chức tài chính vi mô.............................................7
1.2. Khái niệm và thước đo nghèo đói.............................................................7
1.2.1. Khái niệm về nghèo đói.......................................................................8
1.2.2. Các đặc điểm của nghèo đói..............................................................10
1.2.3. Thước đo nghèo đói ở Việt Nam.......................................................13
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU......................................................19
2.1. Sự phát triển của tài chính vi mô............................................................19
2.1.1. Sự phát triển của tài chính vi mô trên thế giới ..................................19
2.1.2. Muhammad Yunus và Ngân hàng Grameen......................................23
2.1.3. Sự phát triển của tài chính vi mô ở Việt Nam....................................25
3


2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ tín dụng cho người
nghèo của tổ chức tài chính vi mô.......................................................................30
2.2.1. Chính sách tài chính vi mô.................................................................30
2.2.2. Mạng lưới tín dụng vi mô hoạt động và phát triển rộng rãi...............36
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến người nghèo tiếp cận vốn tín dụng vi mô
...........................................................................................................................43

2.3.1. Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội.............................43
2.3.2. Nhóm yếu tố liên quan đến cộng đồng..............................................45
2.3.3. Nhóm yếu tố nhân khẩu học:.............................................................46
2.3.4. Nhóm yếu tố kinh tế...........................................................................47
2.3.5. Nhóm yếu tố xã hội............................................................................50
CHƯƠNG 3: THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU.....................................51
3.1. Giới thiệu mô hình...................................................................................51
3.1.1. Cỡ mẫu của mô hình..........................................................................51
3.1.2. Mô hình hồi quy.................................................................................52
3.2. Kết quả hồi quy của mô hình..................................................................58
3.3. Kiểm định mô hình...................................................................................59
3.3.1. Kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi quy......................................59
3.3.2. Kiểm định phương sai sai số thay đổi................................................62
3.3.3. Sai số ngẫu nhiên không tuân theo quy luật phân phối chuẩn...........64
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP..65
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


APPENDIX
APPENDIX 1: 16 Decisions of Grameen...........................................................1
APPENDIX 2: 10 Indicators..............................................................................2
APPENDIX 3: 6 Credit Delivery System...........................................................3
APPENDIX 4: 10 Method of Action .................................................................5
APPENDIX 5: Mẫu hồi quy...............................................................................6
APPENDIX 6: Bảng hỏi điều tra lần 1...............................................................8
APPENDIX 7: Bảng hỏi điều tra lần 2.............................................................10
APPENDIX 8: Bảng hỏi điều tra lần 3.............................................................12

APPENDIX 9: Kết quả hồi quy mô hình..........................................................14
APPENDIX 10: Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi White (no cross)
...........................................................................................................................15
APPENDIX 11: Kết quả kiểm định dạng hàm tổng quát Ramsey....................16

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính vi mô

4

Bảng 1.2: Luật các tổ chức tín dụng Điều 119, 120, 121, 122

5

Bảng 2.1: Thống kê kết quả hoạt động của Grameen Bank

24

Bảng 2.2: Thống kê chỉ số nghèo theo vùng kinh tế

44

Bảng 2.3: Thống kê chỉ số nghèo theo dân tộc

46

Bảng 2.4: Thống kê chỉ số nghèo theo giới tính chủ hộ và quy mô hộ


47

Bảng 2.5: Thống kê chỉ số nghèo theo nghề nghiệp của chủ hộ và các nhóm chi tiêu
48
Bảng 2.6: Thống kê chỉ số nghèo theo học vấn của chủ hộ

51

Bảng 3.1: Thống kê mẫu trên các địa bàn khảo sát

53

Bảng 3.2: Kết quả kiểm định mức ý nghĩa của các biến độc lập

61

DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 2.1: Khái niệm tổ chức tài chính vi mô được cấp phép tại Việt Nam

31

Hộp 2.2: Năm lĩnh vực ưu tiên

35

Hộp 2.3: Điều kiện hộ nghèo được vay vốn

36


Hộp 2.4: Thủ tục vay vốn

37
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng chính thức với hộ nông dân

38

Hình 3.1: Kết quả hồi quy mô hình

59

Hình 3.2: Kết quả kiểm định dang hàm tổng quát Ramsey

62

Hình 3.3: Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi White (no cross)

63

Hình 3.4: Kết quả kiểm định sai số ngẫn nhiên thay đổi Jacque – Bera

65

6


LỜI MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của đề tài

Đói nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu, diễn ra trên khắp các châu lục và
đang trở thành mối lo ngại lớn đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc xóa đói giảm
nghèo luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu
trọng điểm xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chính sách, biện
pháp khác nhau để giải quyết vấn đề đói nghèo. Một trong những biện pháp giải
quyết vấn đề đó là phát triển tài chính vi mô, cung cấp nguồn vốn tín dụng quy mô
nhỏ với lãi suất thấp nhằm hỗ trợ người nghèo sản xuất và tăng thu nhập. Đây được
coi là nguồn bổ sung tài chính quan trọng bên cạnh nguồn chi từ ngân sách nhà
nước.
Hiện nay, chương trình tài chính vi mô đã cung cấp dịch vụ cho hơn 500.000 hộ
gia đình trên tổng số 1.78 triệu hộ nghèo (Anh Duy, 2015). Thực tiễn đã khẳng
định được vai trò to lớn của tài chính vi mô trong công cuộc giải quyết vấn đề
nghèo đói ở nước ta. Tuy nhiên, hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế. Việc đưa nguồn vốn tính dụng vi mô đến với người nghèo và khả
năng tiếp cận được với nguồn vốn này của người nghèo còn gặp nhiều khó khăn.
Vậy, những khó khăn trong việc tiếp cân vốn tính dụng vi mô của người nghèo là
gì? Và những giải pháp nào có thể giúp người dân giải quyết những khó khăn này?
Để giúp trả lời những câu hỏi trên, nhóm nghiên cứu đã thu thập và xử lý tài liệu để
phần nào đó giúp giải quyết được các vấn đề còn tồn tại trong việc tiếp cận vốn tín
dụng vi mô của người nghèo.
2.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này có 3 mục tiêu cơ bản sau:

(i)

Tìm hiểu chung về tín dụng vi mô ở Việt Nam.
7


(ii)

Phân tích thực trạng (thuận lợi và khó khăn) của người nghèo trong việc

(iii)

tiếp cận vốn tín dụng vi mô.
Đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp để giảm bớt, giải quyết những khó
khăn trên.

3.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Là thực trạng tiếp cận vốn tín dụng vi mô của người
nghèo trong 3 năm gần đây (2010 - 2013).
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu tập trung tại các tỉnh Hà Nội, Vinh,
Vĩnh Phúc và Hà Giang.
4.

Phương pháp nghiên cứu

-


Phương pháp tiếp cận tài liệu: Bao gồm hai nhóm tài liệu thứ cấp và sơ cấp

Tài liệu thứ cấp là các số liệu thu thập từ báo cáo về ngành tài chính nói chung
và ngành tài chính vi mô nói riêng của các tổ chức tài chính vi mô, từ các bài báo,
tạp chí, các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, các nhà thực hành tài chính vi mô
trong và ngoài nước đã công bố, các trang Web.
Tài liệu sơ cấp là các thông tin lấy trực tiếp từ 40 hộ nghèo từ các huyện.
-

Phương pháp phân tích: phân tích biểu đồ, số liệu, sử dụng mô hình kinh tế
lượng để đưa ra các nhận xét.

5.

Mô hình nghiên cứu:

Sử dụng mô hình kinh tế lượng OLS đánh giá mức độ ảnh hưởng đến khả năng
tiếp cận vốn tín dụng vi mô của người nghèo.
6.

Các bước nghiên cứu

Bài viết bao gồm 2 bước nghiên cứu:
* Nghiên cứu sơ bộ
- Nghiên cứu tổng quan về tài chính vi mô trên thế giới và ở Việt
Nam.
- Tham khảo qua các sách, bài báo, tạp chí, nghiên cứu viết về tài
chính vi mô và vốn tín dụng vi mô ở Việt Nam.
8



* Nghiên cứu chính thức:
- Trực
- Thu

tiếp khảo sát 40 hộ nghèo và sử dụng mô hình kinh tế lượng

thập số liệu từ các tổ chức tín dụng vi mô ở Việt Nam
Mặc dù vậy, bài viết còn nhiều hạn chế: do chỉ nghiên cứu với số mẫu tối thiểu,

ở nhiểu khu vực nên bài viết không thể đánh giá đúng hết được các ảnh hưởng đến
khả năng tiếp cận vốn tín dụng vi mô.

9


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH VI MÔ VÀ NGHÈO ĐÓI
1.1. Tài chính vi mô
1.1.1. Khái niệm tài chính vi mô
Khái niệm tài chính vi mô (TCVM) đã được rất nhiều nhà kinh tế học cũng
như các tổ chức tài chính khác nhau định nghĩa. Theo J.Ledgerwood (1999):
“TCVM được coi là một phương pháp phát triển kinh tế dựa vào các dịch vụ tài
chính để đem lại lợi ích cho dân cư có thu nhập thấp”. Theo định nghĩa của ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB) năm 2000: “TCVM là sự cung cấp dịch vụ tài chính
như tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và tiền bảo hiểm cho người
nghèo và hộ gia đình có thu nhập thấp hoạt động kinh doanh cá thể và các doanh
nghiệp nhỏ của họ”. Còn theo Nhóm tư vấn hỗ trợ những người nghèo nhất
(CGAP), “TCVM là việc cung cấp các dịch vụ tài chính cơ bản đáp ứng nhu cầu
của người nghèo bao gồm: Dịch vụ gửi tiết kiệm, tín dụng, lương hưu, chuyển tiền,

bảo hiểm… ”.
Tổng hợp từ những định nghĩa trên, có thể hiểu TCVM là việc cung cấp các
khoản vay nhỏ cho những người nghèo, thậm chí là những người rất nghèo, với
mục tiêu giúp họ tiếp cận được vốn vay ưu đãi để phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh và nâng cao điều kiện sống.
1.1.2. Tín dụng vi mô
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng. “Tín dụng” xuất phát từ chữ
latin là Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Còn theo
ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Có thể nói tín
dụng là quan hệ vay mượn bằng tiền hoặc hàng hóa theo nguyên tắc phải hoàn trả
cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định giữa người đi vay và người cho vay. Hay
nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử sụng một lượng giá
10


trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó
hoàn trả với một lượng lớn hơn.
Tín dụng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa. Trong
điều kiện nền kinh tế còn tồn tại song song hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ thì
sự tồn tại của tín dụng là một yếu tố khách quan.
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình
tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho
quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
1.1.2.2. Khái niệm tín dụng vi mô
Theo Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Tín dụng vi mô (TDVM) tại
Washington tháng 2 năm 1997: “TDVM là việc cung cấp các khoản vay quy mô
nhỏ đến đối tượng nghèo với mục đích giúp những người thụ hưởng thực hiện các
dự án sản xuất kinh doanh để tạo lợi nhuận từ đó nâng cao chất lượng đời sống cho
cả người vay vốn và gia đình của họ”. (Microcredit Summit, 1997).

TDVM khác TCVM ở chỗ TCVM đề cập đến các hoạt động cho vay, tiết
kiệm, bảo hiểm, chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm tài chính khác đến nhóm
khách hàng có thu nhập thấp. Trong khi đó, TDVM chỉ đơn giản là một khoản vay
nhỏ, do ngân hàng hoặc một số tổ chức nào đó cấp và thường dành cho cá nhân
vay, không cần tài sản thế chấp, hoặc thông qua việc cho vay theo nhóm. Có thể
nói, TDVM là một mặt cho vay của TCVM.
1.1.2.3. Tín dụng vi mô theo quan điểm cũ
Theo quan điểm lạc hậu, TDVM được coi là dịch vụ tài chính có tính chất từ
thiện, được tài trợ từ chính phủ hoặc các tổ chức xã hội. “Vào thế kỷ thứ 19, tín
dụng vi mô đã được ra đời ở Châu Âu. Ở Đức, thời chiến tranh thế giới lần thứ I có
tới 1.4 triệu người nghèo hưởng lợi từ dịch vụ tín dụng này. Còn ở Ấn Độ con số
này lên tới 9 triệu dân vào năm 1946.” (Lương Hồng Vân, 2009).
11


Trên thực tế, Chính phủ phải mất rất nhiều tiền vào dịch vụ tài chính này do
chi phí giao dịch quá cao vì địa bàn rộng, phải quản lý rất nhiều khoản vay nhỏ, và
phát sinh hiện tượng “xin – cho” (phải có đút lót, quà cáp cho cán bộ tín dụng thì
mới vay nhanh và nhiều, tỷ lệ thu hồi nợ cực thấp).
Người nghèo theo quan điểm lạc hậu về TDVM bị đánh giá tiêu cực như:
không có trình độ học vấn, không biết cách sử dụng tài chính một cách hợp lý, và
thậm chí còn cho rằng người nghèo mãi mãi là người nghèo. Từ những quan điểm
sai lệch trên làm cản trở sự phát triển của TDVM, khiến TDVM trở thành hoạt
động không hiệu quả, không có khả năng sinh lời.
1.1.2.4. Tín dụng vi mô theo quan điểm hiện đại
Việc ngân hàng Grameen của giáo sư Muhammad Yunus ra đời ở đã làm
thay đổi hoàn toàn quan niệm TDVM. Bản chất TDVM theo quan điểm mới là
TDVM không phải là làm từ thiện mà thực chất là dịch vụ tài chính có sinh lời. Bởi
với người nghèo, nếu họ có cơ hội làm ra tiền họ sẽ thanh toán nợ (mặc dù tâm lý
xù nợ ở người nghèo là có, nhưng sẽ có cách kiểm soát). Lúc này TCVM sẽ hoạt

động như một trung gian tài chính để đưa vốn đến cho người nghèo.
Ngoài ra tín dụng vi mô nên là tư nhân, tránh sử dụng trợ giá của nhà nước
để không sa vào hoạt động kém hiệu quả do tham nhũng, cho vay nhầm đối tượng
để hưởng chênh lệch lãi suất và tạo sân chơi bình đẳng cho các tổ chức TCVM
khác.
1.1.3. Tổ chức tài chính vi mô
1.1.3.1. Khái niệm tổ chức tài chính vi mô
Tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) (microfinance institutions – MFIs) là tổ
chức cung cấp dịch vụ tài chính cho những người nghèo hay nói cách khác là
những người có thu nhập thấp. Do đó mức rủi ro của họ cao hơn so với các khách
hàng ngân hàng truyền thống. Hầu hết các TCTCVM đều cho vay tín dụng vi mô
12


và chỉ nhận tiền gửi những khoản tiết kiệm rất nhỏ từ người vay chứ không phải từ
công chúng. Các đơn vị cung cấp dịch vụ TCVM thuộc ba nhóm: nhóm chính thức,
nhóm bán chính thức và nhóm phi chính thức. Hiện nay, các TCTCVM đã phát
triển rộng và đa dạng.
Danh sách các đơn vị cung cấp dịch vụ TCVM theo nhóm được liệt kê trong
bảng sau đây:
Bảng 1.1: Các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính vi mô
Khu vực chính thức

Khu vực bán chính thức

- Các ngân hàng thương
mại, đầu tư, tiết kiệm,
phát triển
- Các ngân hàng phục vụ
nông thôn

- Các ngân hàng theo mô
hình hợp tác xã
- Các tổ chức phi ngân
hàng khác
- Các công ty tài chính
- Các công ty bảo hiểm
- Các thị trường (thị
trường cổ phiếu, trái
phiếu)
- Các tổ chức tài chính vi
mô chính thức đăng ký
theo luật TCTD

- Các hợp tác xã tín dụng
và tiết kiệm
- Các hiệp hội tín dụng
- Các ngân hàng nhân dân
không đăng ký chính thức
là TCTD
- Các ngân hàng hợp tác

- Các ngân hàng làng xã
không đăng ký chính thức
là TCTD
- Các quỹ tiết kiệm tạo
việc làm
- Các dự án phát triển, các
tổ chức phi chính phủ
cung cấp dịch vụ tài chính
vi mô

- Các nhóm tương hỗ
(Nguồn: Legerwood, 2013).

Khu vực phi chính thức
- Các hiệp hội tiết kiệm
- Các hiệp hội tín dụng và
tiết kiệm quay vòng và
biến thể của nó
- Các công ty tài chính,
đầu tư phi chính thức
- Những người cho vay cá
nhân thương mại (ví dụ:
cho vay nặng lãi); và phi
thương mại (họ hàng, bạn
bè, hàng xóm…)
- Các thương gia và chủ
hiệu

1.1.3.2. Đặc điểm và các hoạt động của TCTCVM
TCVM cung cấp dịch vụ tài chính quy mô nhỏ chủ yếu là tín dụng và tiết
kiệm. Đối tượng phục vụ của TCVM là người nghèo, chủ yếu là những người có
nguồn thu nhập thấp hay có kế kiếm sống nhất định, nếu được cung cấp tài chính sẽ
có thể vươn lên. Ở Việt Nam, khách hàng của TCVM là người nghèo tại thời điểm
13


vay vốn có thu nhập dưới 400 nghìn đồng/ tháng ở nông thôn và 500 nghìn đồng/
tháng ở thành thị. (Quyết định 09/2011/QĐ-TTg).
Mặt khác, TCVM chủ yếu cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo,
không cần tài sản đảm bảo, tự lao động phát triển kinh tế gia đình (chăn nuôi, buôn

bán nhỏ, sản xuất hàng thủ công...) và thu hút người nghèo tham gia vào hoạt động
tín dụng và tiết kiệm.
Phương pháp TCVM được xây dựng đáp ứng cho từng cá nhân hay nhóm
khách hàng tham gia. Cụ thể, TCVM cung cấp các dịch vụ tài chính cho từng hộ
hoặc nhóm hộ để tạo ra thu nhập và sẵn sàng trả các khoản vay, lãi vay. Đồng thời
cung cấp cho nhóm khách hàng (nhất là những người cực nghèo) thông qua các
nhóm tín dụng và tiết kiệm.
Ngoài ra, TCVM cung cấp các dịch vụ tài chính ngay tại địa bàn mà người
vay và tiết kiệm sinh sống do đó thu hút được nhiều người tham gia, giảm chi phí
tín dụng và tăng tính tiết kiệm.
Các hoạt động TCVM yêu cầu về các thủ tục vay vốn, hồ sơ, thủ tục và quá
trình thẩm định các khoản vay diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh đó, hoạt động của
TCVM không chỉ cho vay mà còn tập huấn các hoạt động sản xuất, sinh hoạt cộng
đồng, trang bị kiến thức xã hội cho khách hàng... Vì vậy mà tỷ lệ hoàn trả vốn rất
cao mặc dù lãi suất có thể bằng hoặc thậm trí cao hơn lãi suất thị trường.
Ở Việt Nam, theo Luật 47/2010/QH12, Luật các tổ chức tín dụng quy định
về các hoạt động của TCTCVM hiện nay bao gồm:
Bảng 1.2: Luật các tổ chức tín dụng Điều 119, 120, 121, 122
Điều 119. Huy động 1. Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam dưới các hình thức sau
vốn của tổ chức tài đây:
chính vi mô
a) Tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô;
b) Tiền gửi của tổ chức và cá nhân bao gồm cả tiền gửi tự
14


nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi nhằm mục
đích thanh toán.
2. Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, và các cá
nhân, tổ chức khác trong nước và nước ngoài theo quy định của

pháp luật.
Điều 120. Cấp tín 1. Tổ chức tài chính vi mô chỉ được cấp tín dụng bằng đồng
dụng của tổ chức tài Việt Nam dưới hình thức cho vay. Việc cấp tín dụng của tổ
chính vi mô
chức tài chính vi mô có thể được bảo đảm bằng tiết kiệm bắt
buộc, bảo lãnh của nhóm khách hàng tiết kiệm và vay vốn.
2. Tổ chức tài chính vi mô phải duy trì tỷ lệ tổng dư nợ các
khoản cấp tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp,
doanh nghiệp siêu nhỏ trong tổng dư nợ cấp tín dụng không
thấp hơn tỷ lệ do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Điều 121. Mở tài 1. Tổ chức tài chính vi mô được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân
khoản của tổ chức tài hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại.
chính vi mô
2. Tổ chức tài chính vi mô không được mở tài khoản thanh toán
cho khách hàng
Điều 122. Hoạt động 1. Ủy thác, nhận ủy thác cho vay vốn.
khác của tổ chức tài 2. Cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính liên quan đến lĩnh vực
chính vi mô
tài chính vi mô.
3. Cung ứng dịch vụ thu hộ, chi hộ và chuyển tiền cho khách
hàng tài chính vi mô.
4. Làm đại lý cung ứng dịch vụ bảo hiểm
1.1.3.3. Vai trò của tổ chức tài chính vi mô:
Tăng cường, mở rộng tiếp cận tài chính cho khu vực nông thôn, nhất là
người nghèo. Đa số người nghèo Việt Nam sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp với
năng suất lao động thấp và ít được tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Do vậy, tổ
chức TCVM ra đời nhằm cung cấp các loại hình dịch vụ và sản phẩm tài chính cho
cộng đồng người nghèo sẽ giúp người nghèo cải thiện đời sống, phát triển kinh tế
và đóng góp cho xã hội. Mặc dù vốn vay của TCVM không lớn như ngân hàng
thương mại hay ngân hàng chính sách nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi

những khoản vay này đến được với người nghèo và nghèo nhất vào đúng thời điểm
15


cần thiết nhất, giúp họ khởi tạo sản xuất kinh doanh, tạo dựng tài sản, ổn định chỉ
tiêu và bảo vệ họ khỏi nghèo đói mặc dù việc này cần thời gian, góp phần tích cực
xoá đói giảm nghèo TCVM giúp những hộ nghèo vươn lên trong cuộc sống và tự
bảo vệ trước những rủi ro.
Tăng cường sự tham gia và đóng góp của người nghèo trong các hoạt động
kinh tế. Việc các hộ có thu nhập thấp sử dụng dịch vụ tài chính kết hợp với sự cải
thiện đời sống kinh tế và công việc kinh doanh ổn định, phát triển từ đó thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó đời sống được cải thiện giúp các hộ gia
đình có nhiều điều kiện để quan tâm đến dinh dưỡng, cải thiện điều kiện sống, chủ
động tìm kiếm và chi trả cho dịch vụ y tế thay vì đến các cơ sở y tế khi tình trạng
sức khỏe trở nên tồi tệ. Tăng thu nhập đồng nghĩa với việc hộ gia đình có thể cho
con của họ tiếp cận dịch vụ giáo dục với thời gian dài hơn và đầu tư nhiều hơn vào
giáo dục cho con cái.
1.2. Khái niệm và thước đo nghèo đói:
1.2.1. Khái niệm về nghèo đói:
Người nghèo là những đối tượng nhạy cảm nhất đối với nền kinh tế, nền kinh
tế chỉ cần thay đổi nhẹ cũng có thể bần cùng hóa mà cũng có thể giúp họ thoát
nghèo. Do đó, nghèo đói luôn là vấn đề mà các quốc gia quan tâm và chú trọng giải
quyết. Nhưng hiện nay lại không có một khái niệm thống nhất nào về nghèo đói mà
chỉ định nghĩa nghèo đói thông qua các chỉ tiêu của các quốc gia và các tổ chức
quốc tế.
Quan niệm trước đây về nghèo đói bị đánh đồng với người có thu nhập thấp
hay nói cách khác người có thu nhập thấp là người nghèo. Thu nhập trở thành tiêu
chí để đánh giá nghèo đói, chính vì vậy, tiêu chuẩn đánh giá, phân hóa nghèo trở
nên đơn giản và dễ xác nhận. Song quan niệm này không đánh giá được mức độ
khó khăn trong cuộc sống của người nghèo, không xác định đúng mức đối tượng

16


nghèo. Một cách đơn giản hơn, người có thu nhập thấp chưa chắc đã nghèo, người
có thu nhập cao hơn chưa hẳn là không nghèo. Vì vậy, khi cuộc sống ngày càng
phát triển quan niệm về nghèo đói dần thay đổi không còn phiến diện nữa.
Hiện nay, nghèo đói được đánh giá trên nhiều tiêu chí với nhiều chi tiết sâu
rộng hơn. Tháng 9/1993, Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương xác
định: “Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy
được xã hội thừa nhận”. Theo quan điểm của Liên hợp quốc năm 2008: “Nghèo là
thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có
nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được đi khám, không
có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không
được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa sự không an toàn, không có quyền, và
bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa dễ bị bạo
hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp
cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn.” (Liên Hợp Quốc, 2008). Ngân hàng
thế giới (World Bank) lại đưa ra một quan điểm khác về khái niệm nghèo: “Nghèo
đói là sự thiếu thốn rõ rệt trong nhu cầu, và bao gồm nhiều khía cạnh. Nó bao gồm
thu nhập thấp và không có khả năng để có được các hàng hóa và dịch vụ cơ bản cần
thiết để tồn tại đầy đủ. Nghèo cũng bao gồm mức độ thấp của y tế và giáo dục,
người nghèo tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi trường, an ninh vật lý không
đầy đủ, thiếu tiếng nói, không đủ năng lực và cơ hội để sống một tốt hơn.” (World
Bank, 2011).
Những tiêu chí đánh giá nghèo đa chiều dần xuất hiện và được công nhận tại
nhiều quốc gia trên thế giới, theo đó các thước đo nghèo đói cũng thay đổi từ đơn
chiều thu nhập sang đa nhiều nhiều khía cạnh dựa trên cơ sở các nhu cầu cơ bản


17


của con người xã hội. Trong tình hình đó, Việt Nam cũng đã thay đổi cách tiếp cận
nghèo trở thành cách tiếp cận đa chiều dựa trên cách tiếp cận của thế giới.
Ở Việt Nam, nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt đối,
nghèo tương đối và nghèo có nhu cầu tối thiểu. Trong đó, nghèo tuyệt đối là tình
trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu
tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại... Họ là những người thiếu thốn nhất
trong xã hội. Bên cạnh đó, tình trạng nghèo tương đối lại xảy ra ở một bộ phận dân
cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa
phương đang xét. Theo đó, mỗi vùng, mỗi địa phương lại có một tiêu chuẩn đánh
giá cho đối tượng nghèo tương đối khác nhau. Dù là nghèo tương đối hay tuyệt đối
thì cuộc sống của họ cũng không đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu. Những đối tượng
nghèo có cuộc sống đáp ứng nhu cầu tối thiểu là một bộ phận dân cư có những đảm
bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng
ngày nhưng ở mức tối thiểu, họ cũng là đối tượng nghèo cần được quan tâm.
Trên cơ sở các định nghĩa về nghèo, ở Việt Nam còn định nghĩa bộ phận dân
cư có mức sống dưới mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy
trì cuộc sống hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt
bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ, là những hộ đói và những
hộ gia đình chỉ thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện là hộ
nghèo.
Ngoài ra còn có khái niệm xã thôn đặc biệt khó khăn với các chỉ tiêu tỷ lệ hộ
nghèo, tình trạng cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí… được quy định trong Quyết định
30/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ.
1.2.2. Các đặc điểm của nghèo đói:

18



Theo tài liệu nghiên cứu năm 1999 của World bank, đặc điểm phân tích về
người nghèo được chia làm ba nhóm đặc điểm vật chất, tâm lý và cấu trúc tài sản.
Trong đó đặc điểm được quan tâm nhất là cấu trúc tài sản và đặc điểm mà xã hội
còn chưa thực sự quan tâm đến là tâm lý của người nghèo.
Đặc điểm vật chất của người nghèo là lương thực thực phẩm và việc làm.
Vấn đề lương thực thực phẩm của người nghèo được quan tâm nhất trong các đặc
điểm của người nghèo. Những người nghèo nhất là những người không đủ lương
thực thực phẩm và tình trạng này đã rất nghiêm trọng ở Việt Nam những năm 90.
(Deepa Naraya, 1999). Bên cạnh vấn đề lương thực, đặc điểm nghề nghiệp của
người nghèo cũng được quan tâm. Người nghèo thường có thu nhập thấp từ nghề
nghiệp bấp bênh dẫn tới tình trạng cuộc sống khó khăn do thiếu hụt tài sản. Nguyên
nhân của thu nhập thấp là do đặc điểm công việc của họ mang lại. Những công viêc
của người nghèo thường thiếu ổn định, lao động sức lực nhiều tiền lương thấp, có
tính rủi ro, nguy hiểm cao. Chính công việc và thu nhập này đã kéo theo hàng loạt
các hệ lụy về hầu hết các nhu cầu cơ bản của con người. Các nhu cầu không được
đảm bảo dẫn tới suy giảm sức khỏe, giảm sức lao động, giảm thu nhập… Người
nghèo lại tiếp tục bị giảm thu nhập và bần cùng hóa sẽ không thể thoát ra khỏi vòng
quy luật luẩn quẩn. Họ mất dần các tài sản hiện có mà không có khả năng có được
tài sản mới.
Đặc điểm tâm lý của người nghèo bao gồm quyền lực – tiếng nói và quan hệ
xã hội. Cả hai đặc điểm này rất dễ nhận ra ở người nghèo, người nghèo không có
quyền lực, tiếng nói và thường tự tin, ít quan hệ xã hội.
Quyền lực trong xã hội là khả năng hoàn thành các công việc đáp ứng nhu
cầu của các đối tượng khác trong xã hội. Trong khi các nhu cầu cơ bản của bản
than không được đáp ứng, bên cạnh đó họ còn bị đối xử bất công do công việc, vị
trí xã hội thấp, học vấn thấp. Họ dần bị gạt ra ngoài xã hội do các mối quan hệ dần
bị tách rời trong xã hội. Khi bị đối xử bất công người nghèo thường cam nhịu vì
19



tâm lý tự ti, lo sợ vì cuộc sống bấp bênh và phụ thuộc, họ dần mất đi khả năng kiểm
soát cuộc sống.
Không có quyền lực dẫn tới họ không có được sự giúp đỡ qua các mối quan
hệ kinh tế xã hội, ít được bảo vệ và bị đối xử bất bình đẳng, họ không có quyền
quyết định và phụ thuộc hoàn toàn vào người khác, dẫn tới áp bức, bóc lột và ngày
càng khốn khổ hơn.
Đặc điểm cấu trúc tài sản được quan tâm nhất trong bài phân tích với các yếu
tố tài sản vật chất, tài sản nhân lực, tài sản vốn, tính dễ bị tổn thương và dễ bị ảnh
hưởng xấu. Người nghèo thiếu thốn về tài sản vật chất như nhà ở, đất đai, đồ dùng
sinh hoạt thiết yếu… vốn là những đặc điểm thường được đề cập đến trong các
thước đó nghèo bởi nó dễ nhận ra nhất. Những thiếu thốn này xuất phát từ thu
nhập, lịch sử để lại và cách chi tiêu của người nghèo và vấn đề này làm người
nghèo khó khăn trong thoát nghèo.
Ngoài những vấn đề tài sản cơ bản đó, tài sản nhân lực có lẽ dễ gây mâu
thuẫn nhất khi người nghèo thường có số nhân khẩu lớn. Song trong gia đình người
nghèo thường có tỷ lệ lao động thấp và lao động có đào tạo lại càng thấp hơn.
Chính vì vậy nghề nghiệp của lao động trong gia đình mang lại thu nhập thấp và
bấp bênh làm cho cuộc sống khó khăn. Vấn đề nhu cầu cá nhân không được đảm
bảo ảnh hưởng đến sức khỏe làm người nghèo dễ bị mắc bệnh và giảm khả năng
lao động, giảm nguồn thu nhập.
Sự dễ tổn thương của người nghèo do chính các đặc điểm của người nghèo
gây ra. Trình độ học vấn thấp, thu nhập thấp dẫn tới người nghèo không có cơ hội
tiếp cận với các cơ hội tăng trưởng kinh tế nhưng lại bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các
cú sốc kinh tế hay khủng hoảng kinh tế bởi tính bấp bênh, phổ thông trong công
việc của họ. Trong các thời kỳ khó khăn, đối tượng lao động phổ thông là đối tượng
đầu tiên bị cắt giảm nhân công và tiền lương, bên cạnh đó lạm phát, giá cả tăng, thu
nhập ít ỏi của họ ngày càng trở thành vấn đề lớn, các khoản nợ gia tăng, lãi sinh lãi,
20



tình hình kinh tế của họ khó khăn hơn bất kỳ đối tượng nào trong xã hội. Không chỉ
vậy, công việc mang tính rủi ro cao kèm theo thiếu hụt về y tế dẫn tới các bệnh
nghiêm trọng khiến họ rơi vào tình cảnh không đủ tiền khá chữa bệnh, nghèo càng
nghèo hơn.
Do người nghèo dễ bị tổn thương dẫn tới tâm lý bất ổn định nên họ lo sợ các
rủi ro vì vậy họ né tránh các rủi ro bao gồm cả các cơ hội có thể mang lại lợi ích
lớn cho họ. Họ bị dẩy dần ra khỏi thị trường và càng bần cùng hơn.
Do các nhu cầu cơ bản không được đáp ứng, người nghèo dễ bị mắc phải các
bệnh thông thường, bên cạnh đó tình trạng sức khỏe không tốt, điều kiện việc làm
không tốt dẫn tới các vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Một phần dẫn tới tình trạng
này là do nhận thức không đầy đủ của người nghèo về các vẫn đề y tế, sức khỏe, vệ
sinh… Họ bị lừa gạt hay cố tình chạy chữa bằng các phương pháp chữa trị chi phí
thấp không đảm bảo chất lượng dẫn tới tình trạng trầm trọng hơn. Nhận thức thấp
do sự giáo dục không đầy đủ.
Hầu hết người nghèo thất học do không đủ khả năng chi trả các khoản tiền
học dẫn tới thất học, mù chữ. Dù nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục song
vấn đề sức lao động và chi phí dẫn học tập khiến họ không thể tiếp tục tới trường.
Giáo dục thấp dẫn tới khả năng tìm kiếm việc làm và làm việc thấp, họ chỉ có thể
làm các công việc đơn giản và cực nhọc với tiền lương thấp, quy luật luẩn quẩn lại
tiếp tục dẫn tới nghèo càng nghèo thêm.
1.2.3. Thước đo nghèo đói ở Việt Nam:
Ở Việt Nam nghèo đói được phân theo chuẩn nghèo quốc gia, nghĩa là dựa
vào thu nhập bình quân khẩu/tháng. Do vậy, từ năm 1993 đến cuối năm 2005 Việt
Nam đã bốn lần nâng mức chuẩn nghèo. Ngày 27/09/2001, Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 20012005”, những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn,
21



miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người 100.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (Chính phủ, 2001).
Năm 2005, chuẩn nghèo mới của chính phủ được ban hành để áp dụng cho
giai đoạn 2006 - 2010. Theo đó, ở khu vực nông thôn, những hộ gia đình có thu
nhập bình quân đầu người 200.000 đồng/người/tháng trở xuống hộ nghèo, ở khu
vực thành thị, những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người 260.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
2005).
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất thay đổi chuẩn nghèo năm
2010 với mức thu nhập bình quân 300.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực
nông thôn và 390.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành thị là hộ nghèo.
Song theo Quyết định 09/2011/QĐ - TTg của Chính phủ, mức chuẩn nghèo được
đưa ra là 400.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực nông thôn và 500.000
đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Mức chuẩn nghèo này được duy trì trong
giai đoạn 2011 – 2015 (Chính phủ, 2011).
Hiện nay, dựa trên các thước đo đa chiều trên thế giới, Việt Nam đang thay
đổi chuẩn nghèo, xây dựng theo chuẩn nghèo đa chiều, nhiều khía cạnh để đáp ứng
nhu cầu xã hội hiện đại.
Cách tiếp cận đo lường nghèo đa chiều ở Việt Nam
Về nguyên tắc chung, cách tiếp cận nghèo đa chiều tại Việt Nam là cách tiếp
cận theo quyền nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Các nhu cầu
cơ bản này được coi là quan trọng ngang bằng nhau và con người có quyền được
đáp ứng tất cả các nhu cầu này để có thể đảm bảo một cuộc sống bình thường. Cách
tiếp cận này khác một cách cơ bản với cách tiếp cận đơn chiều dựa trên thu nhập
trong đó coi thu nhập bằng tiền là tiêu chí duy nhất đại diện cho nhu cầu của con
22


người. Văn bản pháp luật cơ bản làm cơ sở định hướng cho xây dựng phương pháp

tiếp cận nghèo đa chiều ở Việt Nam là Hiến pháp sửa đổi năm 2013, trong đó Điều
34 có quy định “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”.
Trong Nghị quyết 15/NQ/TW, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khoá XI, về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020: đưa ra các nhiệm vụ về
đảm bảo an sinh xã hội trong đó có đáp ứng các nhu cầu tối thiểu về y tế, giáo dục,
việc làm, nhà ở và thông tin. Nghị quyết 76/2014/QH13 của Quốc hội chỉ đạo định
hướng "xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo
đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản". Trong quá trình
chuyển đổi phương pháp tiếp cập đo lường nghèo từ đơn chiều sang nghèo đa
chiều, chuẩn nghèo đa chiều và chuẩn nghèo thu nhập sẽ được sử dụng song song.
Chuẩn nghèo đa chiều sử dụng để phản ánh ngưỡng thiếu hụt về các nhu cầu cơ
bản của con người Việt Nam. Chuẩn nghèo thu nhập thể hiện mức sống bằng tiền.
Chuẩn thu nhập sẽ được dùng làm như tiêu chí bổ sung để phân loại đối tượng
nghèo đa chiều thành cách đối tượng ưu tiên chính sách.
Khi tiếp cận nghèo đa chiều cần phân tách rõ ràng 3 công việc: đo lường giám sát nghèo, xác định hộ nghèo và xác định đối tượng thụ hưởng chính sách. Đo
lường và giám sát nghèo sẽ được tiến hành độc lập bởi cơ quan thống kê, cơ quan
này sử dụng các chuẩn nghèo khách quan được xây dựng trên cơ sở khoa học nhằm
giám sát và đánh giá sự thay đổi tình trạng nghèo qua thời gian, không gian, và đối
tượng, cung cấp thông tin cho hoạch định chính sách vĩ mô. Cơ quan thống kê sẽ
chịu trách nhiệm công bố tỷ lệ nghèo hàng năm, giai đoạn của cả nước cũng như
từng địa phương. Việc nhận diện và lập danh sách phục vụ cho công tác quản lý,
xác định đối tượng thụ hưởng và hoạch định chính sách của các cấp trung ương và
địa phương đều được tiến hành bởi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Mục tiêu của phương pháp đo lường nghèo đa chiều ở Việt Nam
23


Ba mục tiêu cơ bản của phương pháp đo lường này là đo lường quy mô và
mức độ nghèo, xác định đối tượng nghèo, xác định đối tượng thụ hưởng của chính
sách. Sử dụng kết quả đo lường mức độ nghèo để theo dõi tiến trình giảm nghèo và

đánh giá tác động của các chương trình, chính sách giảm nghèo và phát triển xã hội
qua thời gian, giữa các vùng, các nhóm dân cư, đặc biệt là theo các chiều nghèo,
đồng thời phục vụ cho hoạch định chương trình, chính sách phù hợp. Việc xác định
đối tượng hộ nghèo, đặc biệt là những hộ nghèo nhất và các thiếu hụt của họ để đặt
mục tiêu, thiết lập ưu tiên, xây dựng và thực hiện các chương trình, chính sách
giảm nghèo và an sinh xã hội hiệu quả, phù hợp với các đối tượng và nhu cầu khác
nhau. Thông tin về tình trạng nghèo và đối tượng nghèo kết hợp với các tiêu chí bổ
sung khác sẽ giúp từng chương trình, chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội xác
định được các đối tượng phù hợp nhất cho các hỗ trợ của mình.
Đo lường nghèo đa chiều
Phương pháp đo lường nghèo đa chiều của Việt Nam áp dụng phương pháp
Alkire&Foster do Tổ chức Sáng kiến phát triển con người và chống nghèo đói
Oxford xây dựng. Phương pháp này đã được sử dụng để tính chỉ số nghèo đa chiều
- MPI trong Báo cáo Phát triển Con người của Liên hợp quốc từ năm 2010. Đây
cũng là phương pháp đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đo lường và giám sát
nghèo, xác định đối tượng nghèo, đánh giá và xây dựng các chính sách giảm nghèo
và phát triển xã hội.
Theo phương pháp này, để đo lường nghèo đa chiều cần xác định khái niệm
nghèo đa chiều của Việt Nam, xác định đơn vị đo lường là hộ hay người, xác định
các chiều thiếu hụt, xác định các chỉ số đo lường và ngưỡng thiếu hụt trong từng
chiều, xác định cách tính mức độ thiếu hụt và quy định chuẩn nghèo đa chiều. Như
vậy, khái niệm nghèo đa chiều của Việt Nam được hiểu là tình trạng con người
không được đáp ứng một số nhu cầu cơ bản trong cuộc sống. Chuẩn nghèo sẽ quy
24


định nếu ở mức độ nào đó không được đáp ứng một số nhu cầu xã hội cơ bản thì
một hộ gia đình sẽ bị coi là nghèo đa chiều.
Các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống được quy định trong Hiến pháp 2013,
Nghị quyết 15/NQ/TW, và Nghị quyết 76/2014/QH13 bao gồm nhu cầu y tế, giáo

dục, việc làm, nhà ở và thông tin, và an sinh xã hội. Về đơn vị phân tích, nghèo đa
chiều sẽ được đo lường ở cấp hộ do một số lý do sau: Văn hoá gắn kết hộ gia đình
ở Việt Nam rất chặt chẽ, các thành viên hộ gia đình chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau khi
khó khăn. Đo lường nghèo thu nhập ở Việt Nam cũng tập trung vào cấp hộ gia
đình, như tỷ lệ hộ nghèo theo thu nhập; mặt khác, đo lường nghèo đa chiều cấp hộ
sẽ có tính so sánh với các thước đo nghèo khác. Một số chỉ số đo lường nghèo đa
chiều chỉ có thể đo lường ở cấp hộ mà không có ở cấp cá nhân, ví dụ các chỉ số thể
hiện điều kiện nhà ở, điện, nước, vệ sinh, tài sản, v.v... Tuy nhiên, số liệu vẫn cần
thu thập ở cấp cá nhân đối với một số chỉ số thiếu hụt để xác định chính sách phù
hợp cho cấp cá nhân, ví dụ các chính sách y tế, giáo dục... Bên cạnh đó, có thể tổng
hợp thông tin hộ thành thông tin của nhóm dân cư hay đơn vị hành chính để xác
định những chính sách phù hợp ở cấp cộng đồng, ví dụ các chính sách đầu tư cơ sở
hạ tầng, xây dựng trường học, cơ sở y tế cho cấp quận/huyện, tỉnh/thành phố, v.v...
Xác định đối tượng thụ hưởng chính sách
Việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội
ở cả cấp TW và địa phương sẽ phụ thuộc vào ngân sách và nội dung của các chính
sách. Như đã nói ở trên, không phải tất cả các hộ trong danh sách hộ nghèo phân
loại nêu trên đều trong diện thụ hưởng của các chương trình, chính sách, đặc biệt là
chương trình giảm nghèo. Hơn nữa, với các hộ trong diện thụ hưởng, không phải
hộ nào cũng được hỗ trợ như nhau; căn cứ vào mức độ thiếu hụt và nhu cầu thực tế
của đối tượng, áp dụng chính sách hỗ trợ có điều kiện, có thời gian, hạn chế tính ỷ
lại.
25


×