Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu về Cải tạo tình trạng hoang dậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.77 KB, 5 trang )

CẢI TẠO TÌNH TRẠNG HOANG DẬM
Công tác này chủ yếu tiến hành trên các đầm hồ
thiên nhiên.
Ở các hồ nằm trong thời kỳ già cỗi, các hồ thiên
nhiên có độ sâu nhỏ, hoặc khu ven bờ nước nông của
các hồ lớn điều kiện tự nhiên có thuận lợi cho thực
vật thủy sinh phát triển, chế độ khai thác nguồn lợi
của hồ một cách tự do bừa bãi, không có kế hoạch,
không có tổ chức cũng tạo điều kiện cho thực vật
phát triển. Thực vật phát triển lan tràn khắp đáy hồ,
hoặc hầu hết khu vực nước nông gây ra tình trạng
hoang dậm trên mặt nước, trong nước và đáy hồ dẫn
tới những mặt tác hại hoặc tiêu cực như:
 Che kín diện tích mặt nước ảnh hưởng đến điều
kiện sinh sống của cá và điều kiện quang hợp của
thực vật thủy sinh.
 Mọc dày đặc trong nước ảnh hưởng đến hoạt
động của một số loài cá, ảnh hưởng đến việc dùng
các loại ngư cụ tích cực khai thác cá.
 Cạnh tranh trong sử dụng chất dinh dưỡng của
thực vật phù du, tao ra những thực vật không có ích
hoặc không phù hợp với yêu cầu sử dụng làm thức
ăn cho cá.
 Thân lá cây khi tàn lụi làm xấu chất đáy và chất
nước.
 Phát triển nhiều loại thú và các sinh vật hại cá.
Khai phá tình trạng hoang dậm là một công việc
năng nhọc, phức tạp. Công việc này không những
phải tiến hành ở những hồ cỡ nhỏ, mà tùy theo yêu
cầu phát triển nghề cá mà nhiều nước đã tiến hành cải
tạo những hồ có diện tích rất lớn. Dựa vào nguyên lý


cơ bản có thể chia ra làm 3 phương pháp:
1- Phương pháp cơ học: Dùng nhân lực, công cụ
thủ công hoặc cơ giới để cắt, dọn các loại thực vật
mọc trong hồ. Ở VN trong thời gian qua việc cải tạo
hoang dậm ở những hồ cỡ nhỏ chủ yếu dùng nhân lực
với những công cụ thủ công là chính. Nhiều nước
trên thế giới cơ khi hóa khâu cải tạo các loại máy cắt
cỏ nước chuyên dụng cho các hồ lớn.
2- Phương pháp hóa học: Nghĩa là dùng một chất
độc hóa học (thuốc diệt cỏ) để diệt thực vật hoặc hạn
chế sự phát triển của chúng với nguyên tắc chung là
không hại cá và các loài sinh vật làm thức ăn cho cá.
Phương pháp này gọn nhẹ, hiệu quả nhanh và có thể
với qui mô lớn nhưng phụ thuộc vào sự phát triển của
công nghệ hóa chất của từng nước. Sau đây là một số
loại thuốc thường dùng và tính năng của chúng.
 Sulfát đồng (CuSO
4
): Được nhiều nước áp dụng
để diệt tảo lam. Nồng độ thích hợp khoảng 0,33mg/l.
Loại thuốc này có nhược điểm cơ bản là độc lực của
nó phụ thuộc vào hàm lượng CaCO
3
có trong nước
vì tác dụng sinh ra CuCO
3
lắng xuống đáy. Vì vậy
cùng nồng độ CuSO
4
tác dụng trong nước mềm sẽ

cao hơn trong nước cứng nên thường phải đo độ
cứng khi sử dụng.
 Arsenic Natri: Là một chất diệt thực vật có hạt
(trừ lau sậy) có kết quả tốt. Theo Suber thì nồng độ
thường dùng là 1,7-4mg/lít không có hại đối với cá.
 2,4-D: Diệt được các loại thực vật kể cả các
loại thực vật thân cứng như lau, sậy và thực vật mọc
trên mặt nước. Nồng độ dung dịch đem phu là 125%,
lá cây bị chất độc vàng ra rồi chết.
3- Phương pháp sinh vật học: Phổ biến nhất là
phương pháp thả cá trắm cỏ để diệt rong cỏ dưới
nước. Đây là kinh nghiệm đầu tiên ở TQ và sau đó
được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. VN cũng đã
áp dụng biện pháp này từ những năm 1966-1967 trở
lại đây tại nhiều đầm hồ tự nhiên được công nhận là
phương pháp có hiệu quả và đơn giản song tốc độ
diệt rong cỏ còn phụ thuộc vào mật độ và cỡ cá khi
thả.
Ngoài ra có một số tác giả còn đề nghị việc bón
phân gây màu nước vào đầu mùa thực vật nảy mầm
là ức chế quang hợp của chúng. Phương pháp này chỉ
có tác dụng ở những ao có diện tích nhỏ.

×