Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Lợi dụng bảo vệ nguồn lợi cá thiên nhiên trong sông hồ nuôi cá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.66 KB, 4 trang )

LỢI DỤNG BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ THIÊN
NHIÊN TRONG SÔNG HỒ NUÔI CÁ.
Lợi dung bảo vệ nguồn lợi cá thiên nhiên trong
sông hồ nuôi cá là một trong những biện pháp kỹ
thuật cần thiết nhằm đóng góp vào việc nâng cao sản
lượng cá trong cá sông hồ nuôi cá, đồng thời có thể
giảm nhẹ chi phí về việc sx cá giống.
Ngoài cá dữ, cá tạp và các giống loài cá nuôi chủ
yếu thì những đối tượng cá thiên nhiên nằm trong
diện vừa khai thác vừa phải chú ý bảo vệ nguồn lợi
bao gồm cá chép, cá diếc, cá nhưng, cá chày, cá
bỗng...ở các hồ chứa nước tương đối lớn và cá diếc ở
những hồ chứa cỡ tương đối nhỏ. Những đối tượng
trên đều có khả năng sinh sản tự nhiên trong sông hồ
nuôi cá. Hiện nay phần lớn các cơ sở nuôi cá mặt
nước lớn chưa có chủ trương và những biện pháp cụ
thể trong công tác bảo vệ nguồn lợi và còn nặng về
đánh bắt là chính. Thực tế cho thấy có nơi có kỹ thuật
khai thác tốt đánh bắt được nhiều trong những năm
đầu làm cho trữ lượng đàn cá tái sinh sản còn ít và
làm ảnh hưởng đến sản lượng cá khai thác năm sau,
ngược lại có nơi kỹ thuật khai thác cá yế thì lại chưa
ảnh hưởng đến khả tái sx chủng quần của chúng.
Theo kinh nghiệm các nước, đối với các loài cá
thiên nhiên có giá trị kinh tế phải chý ý kết hợp giữa
khai thác và bảo vệ nguồn lợi. Biện pháp này cần
phải đặc biệt chú ý ở các sông hồ nuôi cá loại tương
đối lớn.
Trọng tâm của biện pháp bảo vệ nguồn lợi là việc bảo
vệ điều kiện sinh sản và tập trung vào các loài cá đẻ
trứng dính là chủ yếu. Biện pháp cụ thể của các sông


hồ tự nhiên ở vùng đồng bằng thường là qui định một
số khu vực cấm đánh bắt và một khoảng thời gian
cấm đánh bắt (chủ yếu vào mùa cá đẻ). Cũng có khi
người ta áp dụng biện pháp làm tổ đẻ nhân tạo ở một
số khu vực của đầm hồ tự nhiên.
Đối với các hồ chứa nước biện pháp biện pháp
có hiệu quả nhất là làm tổ đẻ kiểu nổi. Tổ đẻ nhân tạo
kiểu nổi gồm 2 bộ phận: khung nổi và dây treo các
túm vật bám. Khung nổi có thể làm bằng gỗ, tre và có
thể buộc thêm các phao cho tăng sức nổi. Trên khung
cứ cách 1m buộc 1 dây. Chiều dài của dây phụ thuộc
vào chiều sâu của vùng nước nơi đặt tổ đẻ. Trên dây
cách 1m thì buộc một chùm vật bán, cuối dây buộc
một hòn đá để kéo thẳng chùm dây vật bám. Loại tổ
đẻ nhân tạo này thường đặt ở ven bờ nước nông.
Phải nắm vững thời gian đẻ rộ của cá để đặt tổ đẻ
nhân tạo vì nếu đặt quá sớm thì dễ bị các loài cá tạp
chiếm làm giảm hiệu suất lợi dụng của cá kinh tế,
hoặc bị bùn bám. Nhưng nếu chúng ta đặt quá muộn
sẽ lỡ cơ hội và mất tác dụng.
Sau khi đặt các tổ đẻ nhân tạo phải cử người
chuyên trách quản lý để đề phòng sóng gió đánh vỡ
nát và chú ý quan sát tình hình cá đẻ. Khi thấy mật độ
trứng bám đạt mật độ cần thiết thì tháo ra mang đi
nơi khác để ấp. Nếu trong thời gian cá đẻ mực nước
lên xuống nhanh thì phải chú ý di động tổ đẻ nhân tạo
đến nơi có độ sâu thích hợp tránh để bị cạn khi nước
xuống.

b

×