I . QUỸ DỰ TRỮ QUỐC GIA .
khái niệm
Quỹ dự trữ quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách Nhà nước, hình
thành nên nguồn dự trữ chiến lược (dự trữ quốc gia), do Nhà nước thống
nhất quản lý và sử dụng nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách về phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh; bảo đảm quốc
phòng, an ninh; tham gia
bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các
nhiệm vụ đột xuất bức thiết khác của Nhà nước.
Theo Pháp lệnh của UBTVQH số 17/2004/PL- UBTVQH 11 / 29/2004 về dự
trữ quốc gia.
1. Hoạt động dự trữ quốc gia là các hoạt động xây dựng và thực hiện kế
hoạch, dự toán ngân sách dự trữ quốc gia; xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật để quản lý dự trữ quốc gia; điều hành nhập, xuất, bảo quản, bảo vệ
dự trữ quốc gia.
2. Quỹ dự trữ quốc gia là khoản tích lũy từ ngân sách nhà nước, do Nhà
nước thống nhất quản lý và sử dụng theo quy định của Pháp lệnh này và các
văn bản pháp luật có liên quan.
3. Hàng dự trữ quốc gia là những vật tư, hàng hoá trong danh mục dự trữ
quốc gia.
4. Dự trữ quốc gia bằng tiền là khoản tiền dự trữ trong quỹ dự trữ quốc gia
được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.
5. Điều hành dự trữ quốc gia là các hoạt động về quản lý nhập, xuất, bảo
quản, bảo vệ dự trữ quốc gia.
1
6. Tổng mức dự trữ quốc gia là tổng giá trị quỹ dự trữ quốc gia.
7. Tổng mức tăng dự trữ quốc gia là tổng số tiền bố trí trong dự toán ngân
sách nhà nước hàng năm được Quốc hội thông qua dành cho việc tăng quỹ
dự trữ quốc gia.
8. Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia là bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ được Chính phủ phân công trực tiếp tổ chức quản lý, bảo
quản hàng dự trữ quốc gia.
9. Đơn vị dự trữ quốc gia là tổ chức thuộc bộ, ngành quản lý hàng dự trữ
quốc gia được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, nhập, xuất, bảo quản, bảo vệ
hàng dự trữ quốc gia.
2) mục đích thành lập quỹ dự trữ quốc gia
Một là, hoạt động dự trữ quốc gia là hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận đáp ứng những yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu
quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh; đây là nhiệm vụ đầu tiên đáp ứng cả
phòng và chống, đảm bảo cho sản xuất và đời sống diễn ra bình thường,
không bị gián đoạn.
Hai là, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Nhiệm vụ giữ gìn
an ninh, quốc phòng của đất nước được đặt song song với phát triển kinh tế
- xã hội mang tính chiến lược lâu dài mà dự trữ quốc gia phải đảm nhiệm;
đảm bảo cơ sở vật chất góp phần phòng ngừa và ngăn chặn bạo loạn, hành
vi phá hoại, diễn biến hòa bình, chiến tranh tôn giáo, sắc tộc. v.v… và nạn
nhân gây chiến từ bên ngoài.
Ba là, tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng; trong điều kiện của nền kinh tế
hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng theo đường lối đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào sân chơi
WTO; trong điều kiện nền kinh tế quốc tế có những biến động bất
thường.v.v… thì vấn đề tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô của dự trữ quốc gia càng có ý nghĩa quan trọng và phải được tăng
cường.
2
3)Nguồn hình thành quỹ dự trữ quốc gia.
Trước hết, dự trữ quốc gia hình thành do yêu cầu thực hiện chức
năng của nhà nước để quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Khi nhà nước
ra đời thì quỹ DTQG cũng dần hình thành và phát triển. Tuy nhiên, quy mô
và hình thức, dự trữ của mỗi quốc gia không giống nhau, vì nó được hình
thành xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu
đảm bảo ổn định chính trị, quốc phòng , an ninh, tuỳ thuộc vào tiềm lực
kinh tế của mỗi quốc gia. Chính Lê Nin đã coi sản xuất và dự trữ lương
thực là vận mệnh của toàn bộ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga, Người đã
khảng định “Chỉ khi nào có được một số lượng dự trữ lương thực đầy đủ
thì khi đó Nhà nước Công nhân mới đứng vững về mặt kinh tế”.
Đề cập về vấn đề dự trữ nhà nước, Các Mác khẳng định: “Mọi hình
thái sản xuất, mọi chế độ xã hội, nếu muốn bảo đảm sự an toàn và ổn định
đều phải có tiềm lực dự trữ nhất định. Khi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị
trường phát triển nhà nước nào có tiềm lực dự trữ mạnh và hợp lý sẽ trở
nên vững mạnh trước mọi biến cố”.
Trong tác phẩm nổi tiếng “chống Duy rinh” Ph.Ăngghen cũng nhấn
mạnh: “Quỹ dự trữ đủ và mạnh sẽ tồn tại trong tất cả mọi quá trình phát
triển của xã hội”.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của DTQG, “Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến hoạt động dự trữ quốc gia, coi đó là một lĩnh vực kinh tế
đặc biệt, góp phần đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế và đời
sống xã hội, nhất là khi có thiên tai, địch họa” (thư của đồng chí Tổng Bí
thư Đỗ Mười gửi cán bộ, công chức, viên chức ngành dự trữ quốc gia nhân
dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập).
Thứ hai, DTQG hình thành nhằm đáp ứng các nhu cầu mà các loại
dự trữ khác trong nền kinh tế không đáp ứng được, trong những trường hợp
đột biến do thiên tai, lũ lụt, hạn hán, đại dịch và tình huống chiến tranh xảy
ra ..., những đột biến này xảy ra trên phạm vi rộng, thiệt hại lớn… thực tế
không thể có loại hình dự trữ nào có thể đáp ứng nổi mà chỉ có DTQG.
3
Lịch sử đã chứng minh quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, ở mọi thời kỳ, mọi chế độ xã hội, con người luôn phải đối mặt với
những tình huống bất trắc do thiên nhiên tạo ra, rất nhiều những cơn cuồng
phong lũ lụt… tàn phá một cách ghê gớm mà con người phải hứng chịu.
Sau những hậu quả đó thì kéo theo các dịch bệnh, dẫn đến thiệt hại rất lớn
cho nền kinh tế - xã hội.
Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc Đông Nam Á, với khí
hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai, lũ lụt thường xuyên xảy ra trên diện rộng
khắp cả 3 miền Bắc - Trung - Nam và luôn là nguy cơ tiềm ẩn gây mất ổn
định về sản xuất và đời sống. Trung bình mỗi năm nước ta phải hứng chịu
từ 8 đến 13 cơn bão, trong đó có 4 đến 6 cơn bão gây thiệt hại lớn về người
và của.
Theo các chuyên gia quốc tế nghiên cứu về sự thay đổi của khí hậu
toàn cầu, Việt Nam là nước thứ 5 chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi
khí hậu. Đặc biệt, vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam sẽ là nơi bị
ảnh hưởng lớn nhất do nước biển dâng cao. Biến đổi khí hậu đã và đang tác
động tiêu cực đến hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, từ nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đến thủy điện, sản xuất dầu khí và vận tải
biển. Những yếu tố bất lợi, những diễn biến bất thường của khí hậu những
năm gần đây và dự báo cho cả thời gian tới thường xuyên có thiên tai, đặc
biệt là bão, lũ lụt đe doạ trên cả 3 miền.
Như vậy, đòi hỏi của sự hình thành DTQG là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược rất lớn đối với nước ta để ứng phó, khắc phục hậu quả của thiên tai
gây ra. Nó không đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề đáp ứng
mục tiêu ổn định tình hình chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Thứ ba, thế giới vẫn còn nguy cơ tiềm ẩn bùng nổ chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp lật đổ
khủng bố với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Chiến tranh luôn là hiểm
hoạ kinh hoàng đối với xã hội loài người.
Lịch sử Việt Nam từ khi các vua Hùng dựng nước, hầu hết qua các
thời kỳ nước ta đều bị giặc ngoại xâm. Các triều đại phong kiến phương
Bắc xâm chiếm hàng ngàn năm, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
4
nước ta hàng trăm năm. Đến ngày 30/4/1975, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử nhân dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Công cuộc xây dựng đất nước ta vẫn bị các thế lực thù địch, phản động gây
rối. Như vậy, xét cả một quá trình từ khi dựng nước và giữ nước đến nay,
nước ta liên tục phải đấu tranh dựng nước và giữ nước chống giặc ngoại
xâm.
Ngày nay, nguy cơ đe dọa quân sự vẫn diễn ra tiềm ẩn, những xung đột
khu vực vẫn liên tục xảy ra có chiều hướng phức tạp lâu dài. Tình hình ngày
càng chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc khó lường. Điều đó đặt ra về mặt chiến
lược ngoài những điều kiện cần thiết khác đảm bảo cho quốc phòng thì việc
tăng cường DTQG là một yếu tố vô cùng quan trọng đảm bảo an ninh quốc
phòng và bảo vệ vững chắc tổ quốc trong mọi tình huống.
Thứ tư, trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự chịu trách
nhiệm về kết quả, sản xuất kinh doanh của mình. Khi doanh nghiệp là người
tự quyết định trong sản xuất kinh doanh, tự do cạnh tranh thì không thể ép
buộc họ gánh vác trách nhiệm dự trữ cho toàn xã hội, cho những biến cố xảy
ra bất ngờ, thậm chí trong những tình huống xảy ra như thế họ còn đầu cơ,
trục lợi để kinh doanh thu lợi nhuận cao.
Vì vậy, chỉ có nhà nước với trách nhiệm quản lý toàn xã hội phải
hình thành DTQG. Bất luận ở chế độ chính trị - xã hội nào, ở đâu, mọi nhà
nước đều phải có DTQG. Một loại dự trữ nhằm đáp ứng những nhu cầu đột
biến mà không có một loại dự trữ nào có thể đáp ứng được, dự trữ này do
nhà nước quyết định, đó là DTQG.
Thứ năm, DTQG cần thiết như một công cụ hữu hiệu để Chính phủ
điều hành vĩ mô nền kinh tế, xử lý những diễn biến bất lợi của thị trường,
nhất là trong điều kiện hội nhập, toàn cầu kinh tế hiện nay, chứa đựng cả cơ
hội lẫn thách thức đan xen. Vì vậy, DTQG là công cụ để khắc phục có hiệu
quả những khuyết tật của cơ chế thị trường, nhằm phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước hiện nay.
Thứ sáu, DTQG hình thành do yêu cầu ổn định chính trị - xã hội, an
ninh - quốc phòng, nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
cũng như nhiệm vụ quốc tế của Đảng và Nhà nước. Hiệu lực thực hiện các
5
chính sách xã hội, ổn định sản xuất và đời sống dân cư trong mọi tình
huống phụ thuộc vào tiềm lực DTQG trong từng thời kỳ. Quan hệ quốc tế
giữa các nước với nhau luôn có quỹ trợ giúp lẫn nhau khi gặp khó khăn,
điều đó cũng đòi hỏi phải có lực lượng DTQG, nhiều năm qua DTQG đã
được Chính phủ giao cho thực hiện đưa hàng DTQG đến ủng hộ các nước
bạn bè, anh em trên thế giới trong những lúc khó khăn, như: Liên Bang
Nga, Mông Cổ, Triều Tiên, Cu Ba, Lào, Campuchia, …
Thứ bảy, nguồn gốc hình thành từ quy mô DTQG: Các loại quỹ dự
trữ như dự trữ của các doanh nghiệp sản xuất gọi là quỹ dự trữ sản xuất, dự
trữ của các doanh nghiệp thương mại gọi là quỹ dự trữ hàng hoá, quỹ dự
trữ tiêu dùng cá nhân của các tổ chức, các đơn vị kinh tế - xã hội… đều
được hình thành từ vốn của các chủ thể kinh tế riêng biệt và việc quản lý
điều hành, sử dụng các quỹ đó đều do bản thân các chủ thể kinh tế độc lập
quyết định. Do dự trữ là vốn “nằm yên”, không sinh lời trực tiếp, thậm chí
còn bị hao mòn hữu hình hay vô hình nên các đơn vị, ngành kinh tế chỉ đưa
vào dự trữ với số lượng tối thiểu thật cần thiết nhằm đảm bảo lợi ích riêng
cho đơn vị mình, xí nghiệp mình. Quy mô của các loại dự trữ này thường
không lớn và chỉ đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân.
Tóm lại, quỹ DTQG được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước
(NSNN) với mục đích đảm bảo lợi ích an toàn cho cả quốc gia, của toàn xã
hội; quỹ DTQG còn thể hiện sức mạnh của Nhà nước, tiềm lực của quốc
gia. Vì vậy, quỹ DTQG phải được tích luỹ ngày càng tăng lên theo kế
hoạch và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quy mô của quỹ DTQG vừa
phải đáp ứng yêu cầu bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng, đồng thời phải phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước trong
từng thời kỳ.
6
4) Đánh giá
a) thành công
Qũy DTQG đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước.
Ban hành các văn bản quy định cụ thể về dự trữ Quốc gia như là :
Quyết định số 139/2007/QĐ - TTg phê duyệt "Chiến lược phát
triển dự trữ quốc gia đến năm 2010, định hướng đến năm
2020".
• Pháp lệnh của UBTVQH số 17/2004/PL- UBTVQH 11 /
29/2004 về dự trữ quốc gia.
• Pháp luật về dự trữ quốc gia Việt Nam
•
Có dự trữ sẽ đảm bảo sản xuất, lưu thông không bị ngưng trệ, đời sống nhân
dân không bị rối loạn
Trở thành bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong thành phần kinh
tế Nhà nước,
Là một trong những công cụ quản lý có tác dụng tốt ở tầm vĩ mô để Đảng
và Nhà nước có thực lực giải quyết những tình huống bất lợi khi xảy ra
thiên tai địch họa và điều tiết thị trường khi có những biến động không tốt.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, hơn lúc nào hết chúng ta
cần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an ninh kinh tế tài chính vĩ
mô. DTQG bằng tiền và hàng hoá đủ mạnh và hợp lý sẽ là mặt quan trọng
của an ninh kinh tế - tài chính quốc gia.
Như vậy, DTQG là yêu cầu khách quan, cần thiết trong mọi thời kỳ
cách mạng của nước ta.
Dự trữ quốc gia hình thành, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách
quan cùng với quá trình vận động của mỗi quốc gia, như sự cần thiết cho
7
quá trình vận động của một cơ thể sống. Thực tế vai trò của DTQG đã
minh chứng luận điểm đó.
b) hạn chế
Thứ nhất:Theo kết quả kiểm toán chuyên đề về “quản lý và sử dụng quỹ dự
trữ quốc gia năm 2008” do Kiểm toán Nhà nước thực hiện trong năm 2009
mới được nêu trong một bản báo cáo mới đây của cơ quan này, sự thiếu hụt
một số mặt hàng dự trữ quốc gia là rất đáng báo động.
việc chấp hành chưa đúng quy định về mua bán hàng dự trữ quốc gia
đã dẫn đến một số mặt hàng cứu hộ, cứu nạn có lượng dự trữ chưa đáp ứng
chiến lược hàng dự trữ quốc gia đến năm 2010. “Lượng dự trữ chưa đủ để
đáp ứng yêu cầu khi có nhiệm vụ bất thường”
sự thiếu hụt một số mặt hàng dự trữ quốc gia là rất đáng báo động:
việc chấp hành chưa đúng quy định về mua bán hàng dự trữ quốc gia đã
dẫn đến một số mặt hàng cứu hộ, cứu nạn có lượng dự trữ chưa đáp ứng
chiến lược hàng dự trữ quốc gia đến năm 2010.
“Lượng dự trữ chưa đủ để đáp ứng yêu cầu khi có nhiệm vụ bất thường”,
Kiểm toán Nhà nước khẳng định.
lượng tồn kho tính đến 31.12.2008 của một số mặt hàng về cứu hộ, cứu nạn
là rất thấp:
phao áo cứu sinh các loại có 6.700 cái, chỉ bằng 1% yêu cầu dự trữ
(1.662.700 cái),
số phao tròn còn lại có 37.000 chiếc, chỉ bằng 5% yêu cầu dự trữ (800 ngàn
cái),
nhà bạt cứu sinh chỉ còn 1.125 chiếc, bằng 1,5% yêu cầu dự trữ (100.075
chiếc)…
Đây là một thực tế đáng sợ bởi nước ta luôn xảy ra thiên tai, bão lũ lớn. Một
khi xảy ra những trận lũ lụt lớn thì lượng dự trữ hàng cứu hộ, cứu nạn quá
mỏng như vậy chắc chắn không đáp ứng yêu cầu và hậu quả của việc thiếu
các mặt hàng này chắc chắn không nhỏ. Trên thực tế, mấy năm qua, ở một
số nơi khi xảy ra bão, lũ lớn như ở miền Trung năm 2009, một số nơi đã có
dấu hiệu thiếu hàng dự trữ dẫn đến việc cứu hộ, cứu nạn chưa kịp thời.
Nhưng không chỉ hàng cứu hộ, cứu nạn, một số mặt hàng khác, qua kiểm tra
cũng thấy có sự thiếu hụt lớn. Như muối ăn, Kiểm toán Nhà nước khi kiểm
8
tra sổ sách, kho hàng thấy chỉ có 27.700 tấn, trong khi yêu cầu phải dự trữ
120.000 tấn (dự trữ chỉ đáp ứng 22,5% yêu cầu).
Một số cơ quan, ngành đã không kịp thời mua tăng hàng hoá dự trữ quốc gia
theo kế hoạch phải đề nghị chuyển nguồn để thực hiện năm 2009 và nguy
hiểm hơn là chưa thực hiện đúng quy trình về bảo quản, cấp hàng ví dụ như
cấp hàng để khắc phục hậu quả thiên tai nhưng thiếu số lượng và sai chủng
loại. Kiểm toán Nhà nước cho biết, bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
đã cấp thiếu 27.000 liều vắc xin, cấp lúa sai chủng loại. Bộ Y tế và Bộ Nông
nghiệp và Nông thôn cũng được cho là chưa quan tâm đúng mức việc xây
dựng quy chuẩn kỹ thuật và định mức bảo quản hàng dự trữ quốc gia.
Đầu tháng 7.2010, một cơ quan có thẩm quyền cũng mới kết thúc việc xem
xét công tác quản lý, dự trữ lưu thông thuốc quốc gia. Người ta phát hiện
năm 2009, bộ Y tế đã thực hiện dự trữ thấp hơn hạn mức quy định theo
quyết định 110/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là 35 tỷ đồng. Với
3 doanh nghiệp được cấp vốn để mua, dự trữ lưu thông thuốc (gồm các công
ty Dược phẩm Trung ương I, II và III ), từ năm 2006-2009, qua kiểm tra,
lượng thuốc tồn kho tại thời điểm 31.12 các năm khi xuất bán thuốc, cơ quan
chức năng phát hiện 3 doanh nghiệp này chưa mua đủ số lượng để đảm bảo
100% cơ số thuốc dự trữ, vi phạm quy chế quản lý, dự trữ thuốc lưu thông
của bộ Y tế. 3 doanh nghiệp này hàng năm đều không sử dụng hết hạn mức
vốn vay được phân bổ để mua thuốc dự trữ. Về số mặt hàng thuốc dự trữ, cả
3 công ty trên đều chưa mua đủ theo kế hoạch trong đó công ty Dược phẩm
Trung ương II hàng năm chỉ thực hiện đạt 24,5-38% số mặt hàng được
duyệt.
Trong khi đó, trong các hồ sơ được xét duyệt cho 3 doanh nghiệp này, lại có
lượng thuốc dự trữ vượt cơ số được duyệt và có những chủng loại thuốc
nằm ngoài danh mục thuốc dự trữ lưu thông với số tiền trên 27,56 tỷ đồng.
Phần vượt cơ số thuốc được duyệt là 13,3 tỷ đồng và phần giá trị thuốc nằm
ngoài danh mục dự trữ lưu thông là 14,26 tỷ đồng. Số tiền lãi vay phát sinh
tương ứng từ số tiền vay được sử dụng sai mục đích với 3 công ty này là trên
2,82 tỷ đồng. Do đó, cơ quan chức năng đã yêu cầu phải thu hồi lại một
khoản tiền gần 1,48 tỷ đồng.
Nhưng đáng lo ngại hơn là qua việc kiểm tra dự trữ, lưu thông thuốc là bộ Y
tế lại ra một quy định (quyết định số 30/2005/QĐ-BYT ban hành năm 2005)
xác định tình trạng thiếu thuốc xảy ra khi có 30% bệnh viện (thuộc bộ Y tế,
bệnh viện ngành, bệnh viện đa khoa cấp tỉnh) thiếu từ 30% thuốc trong danh
mục dự trữ trở lên ít nhất 15 ngày. Quy định trên được một số cơ quan, các
chuyên gia y tế cho là không thực tế. Bởi vì, tuy mấy năm qua chưa xảy ra
thiếu thuốc như quy định trên nhưng nếu thiếu thuốc trong 30% thuốc thiết
9
yếu thuộc danh mục thuốc dự trữ lưu thông thôi trong vòng 1-2 ngày ở các
bệnh viện thì hoạt động khám, điều trị bệnh sẽ trở lên rất khó khăn.
Ngoài ra, bộ Y tế xác định tình huống biến động giá thuốc khi có từ 30%
thuốc trong danh mục dự trữ lưu thông tăng giá 20% so với trước khi biến
động cũng được cho là bất hợp lý. Thực tế, giá thuốc mấy năm qua đều tăng
nhưng ở mức dưới 10%. Cho nên nếu chỉ bình ổn giá khi thuốc đã tăng 20%,
theo các nhà chuyên môn là chậm.
Như vậy, trong số các mặt hàng dự trữ khá thiết yếu đến đời sống như thuốc,
muối ăn, hàng cứu trợ, cứu nạn và ngay cả mặt hàng gạo trước đây (hàng dự
trữ tung ra là gạo mốc, mọt)…đều thấy có những bất ổn về lượng dự trữ,
việc tổ chức, cung ứng. Chính ông Phạm Phan Dũng, cục trưởng cục Dự trữ
quốc gia cũng đã cho rằng, về tổng thể, danh mục mặt hàng dự trữ hiện có
tuy đa dạng song còn phân tán, dàn trải, không đủ chủng loại, trong đó có
loại còn lạc hậu công nghệ từ 20-25 năm. Với các mặt hàng dự trữ để phòng
khi thiên tai, theo ông này, trong trường hợp thiên tai kéo dài và trên diện
rộng với mức độ nghiêm trọng thì tổng mức dự trữ quốc gia hiện nay chưa
thể đáp ứng được nhu cầu. Cho nên, có thể nói, đã đến lúc phải có kiểm tra,
đánh giá toàn diện lại các mặt hàng dự trữ quốc gia để có thể chấn chỉnh
công tác tổ chức, đầu tư, tăng mức dự trữ để đảm bảo yêu cầu, nhiệm vụ của
công tác này.
Thứ 2: các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mới chỉ quy định nguồn
lực dự trữ quốc gia hình thành từ ngân sách Nhà nước, chưa có chính sách
khuyến khích các thành phần khác trong xã hội cùng tham gia.
Thư 3: Cơ chế quản lý, điều hành Quỹ Dự trữ quốc gia được quy định tại
Pháp lệnh hiện hành không phù hợp với các luật mới ban hành, gây khó
khăn trong thực hiện nhiệm vụ hàng năm.
Ví dụ như :
• Phương thức mua bán không thống nhất với quy định của Luật Đấu
thầu
• Quy định về quản lý hàng dự trữ quốc gia đối với doanh nghiệp chưa
phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại.
• Một số quy định về quản lý tiêu chuẩn chất lượng, quy trình, quy
phạm, thời hạn bảo quản hàng chưa đồng bộ với Luật Tiêu chuẩn và
quy chuẩn chất lượng
10
Thứ 4: các quy định hiện hành về mua, bán hàng hóa, vật tư dự trữ quốc
gia không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội hiện nay, gây
khó khăn cho thực hiện công tác này.
4) Các giải pháp thực hiện
Một là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
dự trữ quốc gia phù hợp yêu cầu, điều kiện của tình hình mới. Xây dựng
Luật Dự trữ quốc gia.
Hai là, đổi mới việc lập và giao kế hoạch, tăng mức dự trữ hàng năm;
thực hiện nguyên tắc quản lý dự trữ quốc gia tập trung, thống nhất, phân cấp
nhằm nâng cao trách nhiệm và chủ động cho các cấp quản lý trong việc thực
hiện các quyết định cụ thể của cấp có thẩm quyền.
Nghiên cứu áp dụng các phương thức mua, bán hàng dự trữ quốc gia
phù hợp với điều kiện thực tế, tính chất từng mặt hàng và những quy định
hiện hành của Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính về xuất cấp hàng dữ
trữ quốc gia không thu tiền, cứu trợ, viện trợ.
Ba là, sử dụng hiệu quả nguồn vốn dự trữ quốc gia trong các khâu
mua, bán, bảo quản, quản lý hành chính. Áp dụng các công nghệ, quy trình,
quy phạm bảo quản tiên tiến để giảm chi phí, hạ tỷ lệ hao hụt.
Thực hiện cơ chế bảo toàn vốn, khoán hao hụt trong thời gian lưu kho
đối với một số mặt hàng như: xăng dầu, lương thực. Kinh phí hoạt động thực
hiện theo cơ chế tự chủ tài chính và khoán chi phí nhập, xuất, bảo quản. Quy
định giá mua tối đa, giá bán tối thiểu ngay từ đầu năm kế hoạch để các đơn
vị dự trữ quốc gia chủ động triển khai nhiệm vụ được giao.
Từng bước chuyển sang cơ chế dự trữ thường xuyên các mặt hàng:
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng.
Bốn là, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật, hệ
thống kho dự trữ quốc gia; chú trọng công tác quy hoạch hệ thống kho dự
trữ quốc gia, bảo đảm hình thành các vùng, tuyến chiến lược phù hợp với
điều kiện về kinh tế - quốc phòng của vùng, lãnh thổ. Phấn đấu đến năm
2020 xây dựng hoàn chỉnh được hệ thống kho, trang thiết bị kỹ thuật hiện
11
đại, đủ điều kiện để thực hiện hiện đại hoá công tác bảo quản hàng dự trữ
quốc gia.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dự trữ quốc gia; tham
gia Quỹ lương thực ASEAN, Quỹ gạo Đông Á.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động dự trữ quốc
gia, kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm trong quản lý dự trữ quốc
gia theo quy định của pháp luật. Qua kiểm tra, thanh tra góp phần hoàn thiện
cơ chế, chính sách quản lý dự trữ quốc gia.
II. DỰ TRỮ QUỐC GIA VỀ NGOẠI HỐI
1.Khái niệm:
Trong Cẩm nang Cán cân Thanh toán Quốc tế, IMF định nghĩa: “Dự trữ
ngoại hối là toàn bộ tài sản bằng ngoại hối sẵn sàng sử dụng để can thiệp,
thể hiện trên bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Trung ương”.
Ở Việt Nam, khái niệm dự trữ ngoại hối thường được sử dụng một cách
không rõ ràng và có 3 định nghĩa khác nhau để giải thích cho khái niệm này:
- Tổng dự trữ ngoại hối của quốc gia: bao gồm ngoại hối tại ngân hàng
trung ương, ngoại hối của các tổ chức tín dụng và ngoại hối của Chính phủ.
- Dự trữ ngoại hối thuần (Gross forex reserve): bao gồm ngoại hối tại ngân
hàng trung ương và ngoại hối của Chính phủ.
- Dự trữ ngoại hối ròng (Net forex reserve): chỉ tính dự trữ ngoại hối của
ngân hàng trung ương.
2) Mục tiêu:
12
Hầu hết các quốc gia duy trì và quản lý dự trữ ngoại hối nhằm phục vụ các
mục
tiêu
cơ
bản
sau:
- Thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.
- Duy trì tính thanh khoản của thị trường ngoại hối để hạn chế tác động tiêu
cực trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính.
- Là tài sản dự trữ để duy trì lòng tin về khả năng đảm bảo thanh toán nghĩa
vụ nợ nước ngoài của nền kinh tế, khả năng hỗ trợ giá trị của đồng nội tệ, thể
hiện khả năng đảm bảo tài chính của quốc gia góp phần thu hút đầu tư trực
tiếp
và
đầu
tư
gián
tiếp
nước
ngoài.
- Dự trữ cho các trường hợp khẩn cấp và thảm họa mang tính quốc gia.
Trong các mục tiêu trên, ưu tiên hàng đầu của dự trữ ngoại hối dành cho
việc thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, hạn chế tác động
khủng hoảng tiền tệ (nếu có). Tại những nước áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi
có quản lý, dự trữ ngoại hối được sử dụng để hạn chế sự biến động của tỷ
giá. Do vậy, công tác quản lý dự trữ ngoại hối thường được giao cho NHTW
là cơ quan hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia thực hiện.
Qua thống kê tình hình quản lý dự trữ ngoại hối của 82 quốc gia và vùng
lãnh thổ (SBV: 2007), cho thấy có tới 78 nước, chiếm 95% các nước giao
NHTW trực tiếp quản lý dự trữ ngoại hối, chỉ một vài quốc gia là có sự tham
gia quản lý dự trữ ngoại hối của Bộ Tài chính hay Quỹ đầu tư như Canada,
Anh, Nhật. Tuy nhiên, ở các nước này, NHTW vẫn là cơ quan trực tiếp thực
hiện các nghiệp vụ quản lý dữ trữ ngoại hối.
3 nguồn hình thành quỹ dự trữ ngoại hối:
1. Ngoại hối mua từ ngân sách nhà nước và thị trường ngoại hối.
2. Ngoại hối từ các khoản vay ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế.
3. Ngoại hối từ tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng.
4. Ngoại hối từ các nguồn khác.
hối:
4.Thực trang và giải pháp
Dự trữ ngoại hối (DTNH) của Việt Nam tăng đáng kể thời gian qua.
DTNH tăng cho thấy nền kinh tế Việt Nam rất khả quan. Môi trường đầu tư
được cải thiện rõ rệt, đầu tư nước ngoài vào tăng mạnh, kinh tế tiếp tục trên
đà tăng trưởng mạnh, thương mại quốc tế được mở rộng, hợp tác kinh tế
13
song phương và đa phương ngày càng phát triển. Trong khi khối lượng
DTNH tăng nhanh, cơ chế quản lý chậm đổi mới sẽ dẫn đến những bất cập
như: hình thức đầu tư DTNH còn đơn điệu, hiệu quả thấp, cơ chế phòng
ngừa rủi ro đầu tư chưa rõ ràng, quản lý dự trữ thiếu sự minh bạch, thời hạn
đầu tư chưa phù hợp; cơ cấu đồng tiền dự trữ chưa hợp lý… Điều đó cho
thấy cần phải có những biện pháp đồng bộ nâng cao hiệu quả quản lý nguồn
DTNH.
4.1.Thực trạng và những tồn tại của quản lý DTNH tại Việt Nam
Chính sách quản lý DTNH hiện nay được thực hiện theo Nghị định số
86/1999/NĐ-CP, ngày 30/8/1999, về quản lý DTNH nhà nước và Quy chế tổ
chức thực hiện những nhiệm vụ quản lý ngoại hối nhà nước ban hành kèm
theo Quyết định số 653/2001/QĐ-NHNN, ngày 17/5/2001, của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Hoạt động quản lý DTNH nhà
nước đã đạt được một số kết quả như:
Quản lý DTNH phối hợp với điều hành chính sách tiền tệ, cán cân thanh
toán.
Quản lý DTNH đảm bảo tính thanh khoản bằng việc chia nguồn DTNH
nhà nước thành hai quỹ: Quỹ DTNH và Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng. Quỹ
bình ổn tỷ giá và giá vàng có tính thanh khoản cao. Phân cấp quản lý DTNH
tại NHNN đã được hình thành: Cấp cao nhất là Thống đốc, cấp trung gian là
Ban Điều hành quản lý DTNH nhà nước gồm 5 thành viên: 1 Lãnh đạo
NHNN làm Trưởng Ban, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối, Vụ trưởng Vụ
Chính sách tiền tệ, Giám đốc Sở Giao dịch và 1 Thư ký Ban. Ban điều hành
có chức năng: Tham mưu cho Thống đốc NHNN về các nội dung liên quan;
Điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ về quản lý DTNH nhà nước theo qui
định của Thống đốc NHNN. Cấp thấp nhất là hoạt động điều hành và tác
nghiệp tại các Vụ Quản lý ngoại hối, Sở Giao dịch và các vụ, cục liên quan.
Tuy nhiên, công tác quản lý có những tồn tại chủ yếu sau:
Một là, hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý DTNH còn bộc lộ nhiều
bất cập. Về tổ chức thực hiện quản lý DTNH, Khoản 1, Điều 6 của Quy chế
tổ chức thực hiện những nhiệm vụ về quản lý DTNH nhà nước về xây dựng
tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH Nhà nước quy định: “Định kỳ 6 tháng
một lần hoặc khi cần thiết, Vụ Quản lý ngoại hối chủ trì, phối hợp với Sở
Giao dịch đánh giá lại tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH nhà nước của kỳ
trước, xây dựng tiêu chuẩn và hạn mức mới và trình Thống đốc quyết định”.
Cũng tương tự, tại Khoản 5, Điều 7 của Quy chế này về xây dựng phương
án, quyết định, thực hiện đầu tư DTNH nhà nước quy định: “Định kỳ 6
tháng một lần hoặc khi cần thiết, Sở giao dịch chịu trách nhiệm đánh giá tình
14
hình thực hiện các tiêu chuẩn, hạn mức, tỷ lệ đầu tư…; Phối hợp với Vụ
Quản lý ngoại hối xây dựng và điều chỉnh các tiêu chuẩn, hạn mức, tỷ lệ đầu
tư cho phù hợp với thực tế đảm bảo an toàn và hiệu quả trong quá trình đầu
tư”. Trong khi đó, tại Khoản 4, Điều 7 quy định: “Sở giao dịch chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện các phương án đầu tư, theo dõi diễn biến hoạt
động…” Nếu thực hiện như vậy, Vụ Quản lý ngoại hối và Sở Giao dịch vừa
là những đơn vị ban hành quy định vừa là đơn vị thực hiện các tiêu chuẩn,
hạn mức đó. Điều này dẫn đến các tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH đề ra
không còn là chuẩn mực vì nó có thể bị điều chỉnh cho phù hợp với kết quả
của những hoạt động quản lý yếu kém. Điều đó có thể dẫn đến những tổn
thất rủi ro, thua lỗ, hoặc giảm hiệu quả đầu tư DTNH và gây khó khăn cho
việc đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý DTNH. Tại Điều 12 của Nghị định
86/1999/NĐ-CP quy định “Các tổ chức đối tác được lựa chọn để gửi ngoại
tệ và vàng, ủy thác đầu tư phải là tổ chức được xếp hạng tín nhiệm quốc tế
cao”. Trong Quy chế hướng dẫn không có quy định thêm về nội dung này.
Như vậy, điều này gây mơ hồ trong việc thực hiện và không có cơ sở đánh
giá hoạt động quản lý dự trữ…
Về nghiệp vụ kiểm soát, quản lý nội bộ hoạt động quản lý DTNH, Khoản
5, Điều 23 quy định: “Vụ Tổng kiểm soát chịu trách nhiệm định kỳ hoặc đột
xuất kiểm tra việc thực hiện quản lý DTNH nhà nước của các Vụ, Sở Giao
dịch theo các nhiệm vụ được giao và chấp hành các quy định tại Nghị định
86/1999/NĐ-CP…”; Điểm a, Khoản 3, Điều 23 quy định: “Sở giao dịch chịu
trách nhiệm xây dựng các nguyên tắc quản lý nội bộ để tổ chức thực hiện
quản lý DTNH nhà nước theo quy định tại quy chế này”. Như vậy, Vụ Tổng
kiểm soát chỉ kiểm soát về mặt hành chính, chấp hành quy định, quy chế,…
còn hoạt động quản lý nội bộ do Sở Giao dịch vừa xây dựng vừa thực hiện.
Điều đó gây ra sự thiếu khách quan, có thể dẫn đến tổn thất, mất mát do việc
kiểm soát hoạt động dự trữ không chặt chẽ, đặc biệt là các hoạt động nghiệp
vụ đầu tư, kinh doanh dự trữ trên thị trường quốc tế.
Các nội dung liên quan đến khen thưởng và xử lý vi phạm về quản lý dự
trữ chưa có hoặc mờ nhạt, không tạo ra được động lực cho cấp quản lý đầu
tư dự trữ trực tiếp.
Hai là, chiến lược quản lý DTNH vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ
đơn điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
trong bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý DTNH chủ yếu mới
chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn tài sản, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu
trả nợ của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, mà chưa đặt ra mức
dự trữ, hay căn cứ để xác định DTNH chính thức của nhà nước ở tầm vĩ mô
15
phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từng thời kỳ như
tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm pháp, xuất khẩu,…
DTNH tăng chủ yếu do FDI, ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý
các luồng ngoại tệ ra, vào Việt Nam nhất là nguồn trả nợ (như L/C trả chậm,
bảo lãnh…) còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng
trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách…
Hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các
ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các
hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác
đầu tư vào các quỹ.
Ba là, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế. Mặc dù nhận
được sự tài trợ một số dự án của các nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng Phát
triển Châu á…, nhưng các dự án này mới chỉ tập trung vào phần công nghệ
thông tin phục vụ mảng kinh doanh, nghiệp vụ… Công nghệ thông tin phục
vụ thu thập thông tin số liệu, phân tích dự báo còn hạn chế.
Bốn là, thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực hiện quản lý dự trữ
ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi. Nhân lực có trình độ chuyên
môn làm việc tại NHNN nói chung và tại bộ phận quản lý nói riêng còn
thiếu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự đãi ngộ về tiền lương, thưởng… chưa
hợp lý. Hơn nữa, công tác đào tạo, đãi ngộ đội ngũ chuyên gia phân tích thị
trường chưa được quan tâm đúng mức.
Hơn nữa, việc điều hành quản lý dự trữ trực tiếp được giao cho Sở Giao
dịch trong khi đơn vị tham mưu chiến lược là Vụ Quản lý ngoại hối không
tiếp xúc trực tiếp và liên tục với thị trường quốc tế nên các chính sách còn
chậm so với biến động trên thị trường tài chính tiền tệ trong khu vực, sự biến
động của thị trường trong khủng hoảng; kế hoạch chuyển đổi cơ cấu đồng
tiền còn bị động.
Công tác phân tích thị trường để thực hiện kinh doanh ngoại hối trên thị
trường quốc tế chủ yếu còn ở giai đoạn tập dượt. Đáng lo ngại là chất lượng
báo cáo lập và phân tích dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thấp, chậm và độ
tin cậy số liệu không cao. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng quyết
định điều hành hoạt động trong quản lý DTNH… có thể dẫn đến những tổn
thất về giá trị DTNH.
4.2.Giải pháp thực hiện:
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, trong quá trình xây dựng và thực thi
cơ chế quản lý dự trữ ngoại hối, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định quản lý DTNH.
16
Chương VI, Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày
13/12/2005, có hiệu lực 1/6/2006, ra đời mới chỉ quy định những nội dung
cơ bản về quản lý DTNH như thành phần DTNH, nguồn hình thành DTNH
nhà nước, cơ quan quản lý DTNH. Những bất cập trong Nghị định số
86/1999/NĐ-CP, ngày 30/8/1999, của Chính phủ về quản lý ngoại hối nhà
nước như đã nêu ở trên cần được bổ sung, sửa đổi để tạo hành lang pháp lý
cho việc quản lý, thực hiện. NHNN cần rà soát, chỉnh sửa những điểm còn
bất cập như đã nêu ở trên. Đồng thời, cần bổ sung và hoàn thiện các quy
trình tạo thuận lợi cho quá trình tác nghiệp, đảm bảo an toàn như:
- Quy trình đầu tư DTNH cần đảm bảo mô tả công việc cụ thể, trách
nhiệm của từng bộ phận, trong đó, quy định rõ các bước công việc xử lý đối
với một đề xuất mới. Xây dựng quy định thống nhất về hồ sơ, các mẫu biểu
về báo cáo đề xuất, tờ trình phân tích…
- Cần có quy định về việc quản lý nguồn ngoại tệ tại Bộ Tài chính và cơ
chế phối hợp trong việc bán nguồn ngoại tệ này cho NHNN, khi có nhu cầu,
NHNN bán lại nguồn ngoại tệ này cho Bộ Tài chính.
- Quy định DTNH đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường chứng
khoán phát triển, là thành viên của WTO, tự do tài khoản vãng lai và mức độ
tự do tài khoản vốn cao…
- Quy định DTNH phải đáp ứng sự chủ động đối với cán bộ trực tiếp tác
nghiệp đầu tư dự trữ, cũng như đảm bảo việc quản lý của cán bộ cấp cao.
- Quy định cụ thể về hoạt động uỷ thác đầu tư DTNH.
- Xây dựng hệ thống nhóm chỉ tiêu dự trữ ngoại hối làm cơ sở cho các
nhà quản lý đầu tư DTNH tuân theo cũng như để đánh giá hiệu quả hoạt
động quản lý DTNH của từng nhà đầu tư. Điều đó góp phần tăng cường ý
thức, trách nhiệm đối với các nhà quản lý DTNH. Các nhóm chỉ tiêu bao
gồm: Nhóm chỉ tiêu đáp ứng nhu cầu thanh khoản; Nhóm chỉ tiêu hạn mức
sinh lời và rủi ro của hoạt động đầu tư DTNH.
Thứ hai, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các cấp quản lý DTNH, tách
nhiệm vụ ban hành quy định và tác nghiệp. Việc quản lý DTNH được phân
thành 3 cấp rõ ràng với chức năng và nhiệm vụ độc lập: Cấp quản lý dự trữ
ngoại hối cao nhất là Thống đốc NHNN, cấp thứ 2 là Ban điều hành quản lý
DTNH và cấp thứ 3 là Vụ Quản lý dự trữ ngoại hối.
Ban điều hành quản lý DTNH ban hành các quy định có tính định hướng
chuẩn mức cho quản lý DTNH, thực hiện giám sát và thực hiện các nhiệm
vụ có ảnh hưởng lớn đến quỹ DTNH gồm: Xây dựng danh mục đầu tư
chuẩn; Phê duyệt chiến lược đầu tư DTNH; Giám sát thực hiện quản lý
17
DTNH; Phê duyệt những dự án đầu tư dự trữ lớn; Phê duyệt lựa chọn đối tác
nhận uỷ thác đầu tư DTNH bên ngoài…
Vụ Quản lý DTNH thực hiện công việc tác nghiệp về đầu tư, quản lý
thanh khoản, hạch toán kế toán, kiểm tra nội bộ…Văn phòng giao dịch tại
các trung tâm tài chính, thị trường ngoại hối quốc tế lớn giúp cho việc thực
hiện hoạt động đầu tư và các giao dịch ngoại hối đối với quỹ DTNH.
Thứ ba, tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng cho hoạt động đầu tư
DTNH. Một trong những yêu cầu quan trọng của quản lý DTNH là đảm bảo
sự có sẵn sử dụng, do đó, cần xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin thực hiện giao dịch nhanh chóng, chính xác đáp ứng các nhu cầu
ngoại tệ kịp thời. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm: hệ thống
truyền thông nối mạng với các thị trường ngoại tệ lớn, các phần mềm giao
dịch, quản lý, hệ thống máy tính xử lý tốc độ cao… để hình thành hệ thống
quản lý dữ liệu trực tiếp, cung cấp thông tin cập nhật trên thị trường, trao đổi
thông tin, chỉ đạo của cấp trên xuống cấp dưới và phản hồi từ cấp dưới lên…
Thứ tư, hình thành các quỹ DTNH theo chức năng và xây dựng cơ cấu
ngoại tệ và cơ cấu đầu tư DTNH cho từng quỹ. Các quỹ DTNH bao gồm: (i)
Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng đảm bảo tính thanh khoản cao cho mục đích
sử dụng thường xuyên, mục tiêu lợi nhuận ở mức thấp. Cơ cấu ngoại tệ
DTNH của quỹ này phù hợp với cơ cấu thanh toán các giao dịch thương mại
hàng hoá và dịch vụ trong từng thời kỳ; (ii) Quỹ trả nợ nước ngoài đầu tư
vào những công cụ với cơ cấu đồng tiền và kỳ hạn phù hợp với nghĩa vụ nợ
công. Cơ cấu ngoại tệ dự trữ phù hợp với cơ cấu tài sản nợ nước ngoài của
Chính phủ và Ngân hàng Trung ương (NHTW);(iii) Quỹ đầu tư dài hạn thực
hiện đầu tư vào những công cụ sinh lời cao; (iv) Quỹ đầu tư uỷ thác cho nhà
đầu tư nước ngoài nhằm mục đích sinh lời và chuyển giao kinh nghiệm quản
lý. Đối với quỹ dự trữ đầu tư dài hạn và uỷ thác, cơ cấu DTNH là các ngoại
tệ mạnh khác nhau trên cơ sở phân tích, đánh giá diễn biến trên thị trường.
Dự trữ được chia thành các quỹ khác nhau và mỗi quỹ sẽ được đầu tư
bằng những công cụ và hình thức khác nhau đảm bảo việc quản lý DTNH
đạt hiệu quả tối đa và phân tán rủi ro, đồng thời phải hình hành cơ chế điều
chuyển giữa các quỹ. Mỗi quỹ dự trữ sẽ được xây dựng danh mục đầu tư
chuẩn, phân cấp quản lý đầu tư… để đảm bảo dự trữ ngoại hối được quản lý
tốt nhất. Đặc biệt, Quỹ dự trữ đầu tư dài hạn phải chú trọng đến công việc
đánh giá, lựa chọn đối tác.
Thứ năm, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý
DTNH và cán bộ phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô. NHNN cần thường xuyên
tổ chức đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, đồng thời tổ chức những
18
buổi hội thảo và cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn về phòng chống rủi ro
trong hoạt động đầu tư, nghiên cứu hệ thống văn bản chế độ, quy chế quy
định liên quan đến hoạt động đầu tư dự trữ.
Cần phải xây dựng một chiến lược đào tạo có hệ thống, kết hợp đào tạo
trong nước và đào tạo ở nước ngoài, kết hợp giữa đào tạo cơ bản và lâu
dài.Công tác đào tạo cần chú trọng đến các nghiệp vụ cơ bản và chuyên sâu
của hoạt động kinh doanh và đầu tư, đặc biệt là nghiệp vụ mới của thị trường
quốc tế nhằm nhanh chóng tạo ra được một đội ngũ các nhà kinh doanh và
đầu tư có tầm cơ quốc tế, đặc biệt đào tạo nhân lực tác nghiệp.
Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra nội bộ để phát hiện, ngăn ngừa và
chấn chỉnh những sai sót kịp thời trong quá trình thực hiện nghiệp vụ đầu tư
DTNH. Bộ phận kiểm soát nội bộ thuộc Vụ Quản lý dự trữ theo mô hình trên
phải có tính độc lập cao và có thể báo cáo trực tiếp lên Ban điều hành quản
lý DTNH.
Thứ bảy, có chiến lược tăng DTNH phù hợp với mục tiêu phát triển quốc
gia. Ngoại tệ chuyển vào nước ta chủ yếu là kiều hối, ngoại tệ do cá nhân
mang từ nước ngoài về, nguồn ngoại tệ do khách du lịch nước ngoài chi trả
tại Việt Nam, tiền lương của người Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp
nước ngoài,… Trong đó, kiều hối là nguồn thu ngoại tệ lớn. Để khai thác tối
đa nguồn ngoại tệ này, chúng ta cần tạo niềm tin cho kiều bào về sự ổn định
kinh tế – chính trị – xã hội trong nước để họ yên tâm chuyển tiền về nước.
Cơ quan hải quan cần kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn kiều hối lậu chảy về;
NHNN khuyến khích các Ngân hàng thương mại mua để tăng nguồn kiều
hối thu hút vào ngân hàng và bán cho NHNN.
Thứ tám, củng cố bộ phận tổng hợp thông tin và báo cáo và dự báo thị
trường. Nguồn thông tin bao gồm: Thông tin diễn biến thị trường quốc tế từ
các kênh thông tin đại chúng về tài chính, kinh tế, thông tin từ các báo cáo,
nghiên cứu của các NHTW, tổ chức tài chính quốc tế; Thông tin từ các báo
cáo trong nội bộ NHNN theo các báo cáo định kỳ quy định.
Thứ chín, quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài gồm vay nợ chính phủ và vay
nợ tư nhân về nhu cầu trả nợ, cơ cấu đồng tiền. Hoàn thiện hệ thống thông
tin vay nợ nước ngoài, trước hết là tăng cường công tác thống kê nợ nước
ngoài. Việc thống kê nợ nước ngoài bao gồm cả nợ dưới hình thức phát hành
trái phiếu và do người không cư trú nắm giữ, đặc biệt là luồng vốn đầu tư
vào giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán
19
MỤC LỤC
I . QUỸ DỰ TRỮ QUỐC GIA ..........................................................................................1
khái niệm .............................................................................................................................1
20