UBND HUYỆN CAO LÃNH
TRƯỜNG THCS GÁO GIỒNG
Người thực hiện
Chức vụ
Đơn vị công tác
: Nguyễn Thị Phước Nhiều
: Giáo viên
: Trường THCS Gáo Giồng
Gmail
Điện thoại
:
: 01666494780
NĂM HỌC: 2011-2012
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
-Trãi qua một thời gian dài chúng ta đã được triển khai, tập huấn và thực
hiện việc đổi mới phương pháp dạy học cùng với việc sử dụng triệt để đồ
dùng trực quan và sử dụng Bản đồ tư duy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
theo yêu cầu của Bộ đặt ra. Thực tế thì ở các trường THCS chúng ta đã làm
được điều đó. Trong phạm vi bài viết này tôi xin trình bày một số giải pháp
giúp học sinh học lịch sử dễ nhớ và phân biệt được sự kiện lịch sử.
-Lịch sử là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra
trong quá khứ, chính vì thế nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức
tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ vận dụng nó vào cuộc sống
hiện tại và tương lai. Nói cách khác đó cũng là quá trình giúp học sinh nắm
kiến thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo và vận dụng kiến thức, kĩ năng đó vào
giải quyết những vấn đề của cuộc sống. Vấn đề khó khăn nhất của bộ môn
lịch sử là việc tái hiện những sự kiện, những hiện tượng và nhân vật lịch sử,
nhưng tránh hiện đại hóa lịch sử. Muốn làm điều này không phải đơn giản,
hiện nay giáo viên chỉ dựa vào thủ pháp trình bày miệng, tường thuật, tích cực
hơn là có sự kết hợp với một số phương tiện trực quan như tranh ảnh, bản đồ,
chính vì những lẽ đó nên hiệu quả của các tiết dạy chưa cao, thậm chí các em
học sinh cảm thấy không hứng thú khi tìm hiểu môn lịch sử. Trong việc khôi
phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động bằng phương tiện trực quan là
một yếu tố hết sức cần thiết. Tuy nhiên các đồ dùng trực quan truyền thống
hiện nay còn rất nhiều hạn chế, chưa thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của
bộ môn và yêu cầu của quá trình đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, trong
lúc đó công nghệ thông tin và các phương tiện kĩ thuật hiện đại đang tỏ ra có
ưu thế vượt trội.
Vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng Bản đồ tư duy và kết
hợp với các tư liệu lịch sử như thế nào để mang lại hiệu quả cao là điều mà
chúng ta cần quan tâm để giúp cho học sinh yêu thích và hứng thú hơn trong
việc học môn Lịch sử. Đó là lí do mà tôi chọn đề tài này.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu:
-Nhằm giúp cho học sinh biết và vận dụng được một số giải pháp để các
em học lịch sử dễ nhớ và phân biệt được sự kiện lịch sử, từ đó các em sẽ yêu
thích và học tốt hơn bộ môn này.
-Nhằm trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm giảng dạy của bản thân để
cùng đồng nghiệp có những cách dạy hiệu quả để khôi phục lại đúng vai trò
và vị trí của bộ môn lịch sử.
2
2. Phương pháp nghiên cứu
-Giới thiệu, cung cấp một số thủ thuật để các em áp dụng đồng thời
hướng dẫn các em biết lựa chọn những cách học thực sự phù hợp với bản
thân.
-Quan sát, so sánh tinh thần, thái độ học tập cũng như so sánh về chất
lượng học tập của các em qua hai thời điểm trước và sau khi thực hiện việc
dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng Bản đồ tư duy và kết hợp
với các tư liệu lịch sử có liên quan.
III. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
-Từ mục đích nêu trên nên giới hạn của đề tài chỉ dừng lại ở phạm vi
nghiên cứu và tìm ra những giải pháp thật tốt nhằm giúp cho học sinh học lịch
sử một cách dễ nhớ và có thể phân biệt được sự kiện lịch sử một cách dễ
dàng.
-Đề tài có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp từ 6,7,8,9 ở Trường trung
học cơ sở Gáo Giồng.
IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
-Hai tuần đầu năm bản thân đã tiến hành thử nghiệm, trong quá trình
giảng dạy thường sử dụng những phương pháp nêu và giải quyết vấn đề,
tường thuật, trình bày, miêu tả…đảm bảo truyền tải đủ tất cả mọi thông tin có
trong sách giáo khoa, đủ kiến thức với phương pháp phù hợp.
-Sau đó bản thân đã bắt đầu vận dụng việc dạy học có ứng dụng công
nghệ thông tin thường xuyên soạn giảng giáo án power-point, sử dụng bản đồ
tư duy trong dạy học, sưu tầm những đoạn phim tư liệu, những câu chuyện,
những câu thơ hoặc những câu nói gắn liền với sự kiện lịch sử và nhân vật
lịch sử để áp dụng cho việc giảng dạy của mình.
-Sau thời gian thực hiện, bản thân đã đối chiếu với kết quả giảng dạy
trước đó, thì quả thật đã mang lại hiệu quả đáng phấn khởi.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
-Luật giáo dục năm 2005 (điều 3) qui định “phương pháp dạy học phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”.
-Bản chất của việc học là nghe ->biết, thấy –>biết, đọc -> biết, thực
hành -> biết. Do đó những thông tin mà người học nghe, thấy, đọc càng sinh
động thì càng dễ nhớ.
-Danh ngôn có câu “Nếu chúng ta bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì
tương lai sẽ trả lời bằng đại bác” đó là một qui luật tất yếu, nếu như chúng ta
3
quay lưng lại với quá khứ thì chắc chắn chúng ta sẽ không có một tương lai
tốt.
-Để xã hội có cái nhìn thỏa đáng đối với môn lịch sử và để cho các em
học sinh yêu thích môn học này thì trước hết ngay ở trường phổ thông chúng
ta phải nâng cao chất lượng bộ môn này. Để nâng cao được chất lượng bộ
môn này thì cần phải mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học đồng thời áp
dụng triệt để những phương tiện dạy học mà Bộ giáo dục đã cung cấp, triển
khai và tập huấn.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
-Từ cơ sở lí luận nêu trên và xuất phát từ thực tiễn ở trường, hơn nữa
mỗi môn học lại có đặc thù riêng. Với môn lịch sử thì việc áp dụng những
phương pháp cho phù hợp với đặc trưng bộ môn là một điều cấp thiết.
-Vì thực tế không phải là học sinh không thích học môn lịch sử, nhưng
gì các em sợ là do nội dung bài ghi quá dài không thể nhớ hết nổi.
-Mặc khác phần lớn giáo viên chưa thực sự đổi mới phương pháp một
cách triệt để, chỉ có những tiết dự giờ, thao giảng thì giáo viên mới đầu tư
soạn giảng chu đáo, chính vì vậy ở những tiết dạy bình thường chưa thực sự
thu hút được học sinh.
-Thế nên việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin để làm cho tiết
học sinh động hơn, sử dụng bản đồ tư duy để giúp học sinh sơ đồ hóa kiến
thức, đồng thời kết hợp với việc sử dụng các phim ảnh tư liệu hay những đoạn
thơ, câu nói để giảng dạy thì chắc hẳn một điều là học sinh sẽ rất thích học
lịch sử và không còn ngán ngại vì lượng kiến thức quá nhiều và những tiết
học như thế chắc chắn sẽ sinh động và học sinh sẽ rất hứng thú, tích cực.
III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN:
1. Thực trạng:
-Như chúng ta đã nói ở trên, lịch sử là một môn học đặc thù. Kiến thức
lịch sử là kiến thức về quá khứ. Những sự kiện đã diễn ra cách ngày nay hàng
trăm, hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi, khi nhận
thức học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động
như đang diến ra trước mắt mình. Bên cạnh đó khả năng tư duy của học sinh
THCS còn hạn chế nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh
tái hiện là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong lúc đó, các phương
tiện trực quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế. Phương
tiện vừa thiếu lại vừa không phù hợp. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu
quá nhỏ không thể sử dụng được. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa còn đơn
điệu và thiếu đồng bộ, chưa kể đến phim tài liệu thì hầu như không có. So với
yêu cầu đặt ra của bộ môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai
đoạn hiện nay thì có thể nói rằng: những phương tiện dạy học không đáp ứng
được yêu cầu và không thể tạo nên hứng thú học tập cho học sinh.
4
-Thực tế là hiện tại ở một số trường THCS chưa có trang bị đầy đủ máy
móc, phương tiện dạy học hiện đại theo yêu cầu của thời đại, một số cán bộ
giáo viên còn hạn chế về mặt tin học nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc
đầu tư soạn giảng bài dạy có ứng dụng công nghệ thông tin. Một số giáo viên
còn quá lạm dụng máy để trình chiếu quá nhiều kênh thông tin nhất là tranh
ảnh làm loãng nội dung bài học, phân tán sự chú ý của các em, một số tiết thì
giáo viên trình chiếu tất cả nội dung đã soạn giảng lên màn hình, phông màu
chưa thật sự phù hợp.
-Bên cạnh việc đồ dùng trực quan còn hạn chế thì việc sơ đồ hóa kiến
thức cũng ít được giáo viên sử dụng. Thêm vào đó, nội dung bài học thì được
giáo viên cho ghi thành một bài dài như là một bài văn, không thể nhớ hết nổi,
thế nên các em rất sợ môn lịch sử mặc dù rất thích học.
-Mặc khác một số giáo viên chưa có sự đầu tư sưu tầm những hình ảnh,
những câu chuyện kể lịch sử, những câu nói hay những đoạn thơ… có liên
quan đến nội dung bài học để minh họa, dẫn chứng cho bài học thêm phong
phú, hấp dẫn vì thế không thể thu hút được các em.
2. Những mâu thuẫn:
-Thực tế là trong những tiết dạy lịch sử các em cũng rất thích học, tham
gia phát biểu tích cực và các em cũng hiểu bài ngay tại lớp .Nhưng khi về nhà
đến tiết sau khi kiểm tra bài cũ thì các em không thể tái hiện lại được những
kiến thức mà giáo viên đã cho các em ghi vào vỡ ở tiết học trước vì quá dài và
nhiều chi tiết. Vì thế các em cảm thấy sợ học môn này.
-Mặc khác phần lớn giáo viên chưa áp dụng triệt để các phương tiện dạy
học và chưa có giải pháp thiết thực để giúp học sinh nắm được sự kiện lịch sử
một cách nhanh chóng và dễ dàng.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Biện pháp thứ nhất: Dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin:
-Từ những khó khăn thực tế, việc dạy học theo hướng ứng dụng công
nghệ thông tin là một giải pháp tích cực, là hướng đi kịp thời để giải quyết
những khó khăn nêu trên.
-Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật máy tính của Mỹ vào
năm 1993: con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ thấy và
30% những gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì học thấy và nghe, và
con số này lên đến 80% nếu họ thấy và nghe sự vật hiện tượng một cách đồng
thời. Trên cơ sở này và quá trình giảng dạy thực tế ở trường phổ thông chúng
ta có thể thấy việc dạy học lịch sử chỉ với phương tiện truyền thống như bảng
đen phấn trắng và lời nói của thầy với một ít phương tiện dạy học mang tính
tĩnh thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao, mức độ ghi nhớ của học sinh sẽ thấp
và chóng quên. Trong khi đó nếu học sinh được xem phim tư liệu, bản đồ, sơ
đồ động có màu sắc phù hợp kết hợp với lời nói của giáo viên thì khả năng
5
ghi nhớ của các em sẽ tăng lên. Không những thế, nếu làm được điều này
chúng ta sẽ tạo ra được bầu không khí học tập sinh động, khơi gợi hứng thú
học tập cho các em đồng thời khắc sâu những kiến thức mà các em đã tiếp thu
được. Rõ ràng, việc kết hợp cùng một lúc hai hay nhiều phương tiện truyền
thông sẽ giúp cho người học tiếp thu thông tin nhanh, chính xác và nhớ lâu
hơn. Sẽ càng hiệu quả, sinh động và thu hút học sinh hơn khi ứng dụng công
nghệ thông tin một cách có hiệu quả.
-Theo kinh nghiệm bản thân đã từng áp dụng cách để dạy lịch sử bằng
giáo án điện tử như sau:
+ Đầu tiên giáo viên nên tạo ra động cơ học tập cho học sinh bằng
những câu nói của các danh nhân, hoặc đưa ra một nhận định về mục đích của
việc học lịch sử để gây sự hứng thú cho học sinh ở màn hình chờ.
+ Khâu kiểm tra kiến thức cũ: cần nêu câu hỏi và có phương án trả lời để
học sinh quan sát và ghi nhớ kiến thức cũ.
+ Ở khâu bài mới: giáo viên nên cho hiển thị từng phần, từng mục giống
như trong quá trình giảng dạy bằng bảng đen. Ở mỗi phần, mỗi nội dung cần
tạo các slides liên kết với nhau cho phù hợp đồng thời tạo hiệu ứng khi cần
thiết. Khi dạy bằng máy vẫn áp dụng nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan là
nêu vấn đề trước khi cho học sinh xem phim hoặc sơ đồ, bản đồ…. Trên cơ sở
đó giúp học sinh khai thác và rút ra kết luận. Nếu làm ngược lại thì những tư
liệu mà chúng ta đưa ra chỉ mang tính chất minh họa, không đem lại hiệu quả
6
cho bài học. Khi sử dụng những đồ dùng trực quan tĩnh thì cần kết hợp với lời
nói của giáo viên đi liền với các hiệu ứng để cho kênh âm thanh và kênh hình
ảnh luôn kết hợp nhuần nhuyễn với nhau.
+ Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng những câu hỏi trắc
nghiệm hoặc sử dụng lược đồ để học sinh trình bày lại (nếu bài có diễn biến
trận đánh…)
+ Phần dặn dò, chuẩn bị bài mới: giáo viên phải đặt ra yêu cầu và hướng
dẫn các em cách giải quyết để về nhà chuẩn bị cho tiết học sắp tới.
-Cụ thể như khi chúng ta dạy bài 21: VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM 1939-1945 thuộc môn Lịch sử 9, ở phần I. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI
VÀ ĐÔNG DƯƠNG: Nếu chúng ta chỉ nói cho học sinh biết thủ đoạn của
Pháp và Nhật cùng bóc lột nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Việt
Nam nói riêng làm cho nhân dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng, dẫn đến
nạn đói vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, rồi sau đó hỏi học sinh để giáo dục
cho các em thì sẽ không hay và hấp dẫn bằng việc chúng ta chiếu một đoạn
phim tư liệu về hình ảnh người nông dân Việt Nam với thân hình ốm yếu gầy
còm bị Pháp bắt kéo cày thay trâu hay những hình ảnh người chết la liệt vì đói
cùng với hình ảnh xương người chết từ các hố chôn tập thể. Vậy khi các em
xem xong đoạn phim và hình ảnh đó thì chắc chắn một điều là các em sẽ tự rút
ra được nhận xét cho bản thân mình đó là sự căm thù Pháp-Nhật, sự đồng cảm
thương yêu người nông dân và lên án chiến tranh, yêu chuộng hòa bình…
Những điều mà các em tự suy nghĩ để phát biểu cộng với những hình ảnh trực
quan sống động mà các em nhìn thấy thì nhất định các em sẽ nhớ rất kĩ và lâu
hơn.
Nông dân kéo cày thay trâu trước cách mạng tháng Tám
7
Hình ảnh người nông dân bị chết đói
Xương người chết đói được cải táng từ những hố chôn tập thể
-Hoặc khi chúng ta dạy những bài có tường thuật diễn biến thì với các
lược đồ chỉ mang tính chất tĩnh sẽ không thu hút và không đem lại hiệu quả
cao bằng cách chúng ta tạo những hiệu ứng phù hợp.
Ví dụ như khi chúng ta dạy Bài 18: CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÀ
HỒ thuộc lịch sử 7, ở mục 1: Cuộc xâm lược của quân Minh và sự thất bại
của nhà Hồ: khi tường thuật diễn biến cuộc kháng chiến của nhà Hồ chống
quân Minh, khi chúng ta sử dụng lược đồ kết hợp với việc tạo hiệu ứng các
hướng mũi tên phù hợp và hướng dẫn các em cách trình bày cụ thể thì sẽ thu
hút sự chú ý của các em, giúp các em tiếp thu nhanh và đem lại hiệu quả cao
hơn là khi chúng ta sử dụng lược đồ mang tính chất tĩnh.
8
ĐÔNG ĐÔ
THÀNH ĐA BANG
THÀNH TÂY ĐÔ
CHÚ GIẢI
Căn cứ của quân ta
Hướng tiến công của giặc
Đường rút lui của quân ta
HÀ TĨNH
Lược đồ cuộc kháng chiến của nhà Hồ chống quân Minh
2.Biện pháp thứ hai: Dạy học có sử dụng Bản đồ tư duy:
-Bản đồ tư duy được mệnh danh "công cụ vạn năng cho bộ não", là
phương pháp ghi chú đầy sáng tạo, hiện đang được nhiều người trên thế giới
sử dụng, đã và đang đem lại những hiệu quả thực sự đáng kinh ngạc, nhất là
trong lĩnh vực giáo dục. Lập sơ đồ tư duy là một cách thức cực kỳ hiệu quả để
ghi chú. Các sơ đồ tư duy không chỉ cho thấy các thông tin mà còn cho thấy
cấu trúc tổng thể của một chủ đề và mức độ quan trọng của những phần riêng
lẻ trong đó đối với nhau. Nó giúp bạn liên kết các ý tưởng và tạo các kết nối
với các ý khác.
-So với các cách thức ghi chép truyền thống thì phương pháp Bản đồ tư
duy có những điểm vượt trội như sau:
+ Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
+ Quan hệ hỗ tương giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan
trọng thì sẽ nằm vị trí càng gần với ý chính.
9
+ Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức
bằng thị giác.
+ Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
+ Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản
đồ.
+ Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
+ Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ
dàng, bất chấp thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một
cách nhanh chóng và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
+ Có thể tận dụng hỗ trợ của các phần mềm trên máy tính.
-Việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử hiện nay là một trong
những yêu cầu bức thiết và đem lại hiệu quả cao. Vì thực tế với lượng kiến
thức khá nhiều, nhiều sự kiện và ngày, tháng, năm như môn lịch sử thì việc sơ
đồ hóa kiến thức bằng bản đồ tư duy sẽ giúp cho các em dễ nắm sự kiện và có
thể nhớ được sự kiện lâu hơn.
Ví dụ: khi dạy bài 14: VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ NHẤT, thuộc lịch sử 9. Chúng ta có thể sử dụng Bản đồ tư duy như sau:
3. Biện pháp thứ ba: Sử dụng những đoạn phim tư liệu, những hình
ảnh, những câu chuyện kể, những câu nói, những câu thơ-đoạn thơ:
-Thực tế như chúng ta đã biết phương châm: “trăm nghe không bằng
một thấy” và sẽ càng hiệu quả hơn khi chúng ta kết hợp cả hai hình thức này
đồng thời trong cùng một lúc.
-Muốn làm được điều đó thì đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta phải chịu
khó sưu tầm các tư liệu lịch sử.Tùy ở khả năng của mỗi người mà chúng ta có
thể sử dụng các tư liệu một cách linh hoạt, sáng tạo và phù hợp đối với từng
10
nội dung bài học. Sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai hình thức nghe và thấy đối
với các tư liệu lịch sử trong dạy học sẽ gây hứng thú và lôi cuốn sự theo dõi
chú ý của các em.
Ví dụ: khi chúng ta dạy về phần IV: MỘT SỐ DANH NHÂN VĂN
HÓA XUẤT SẮC CỦA DÂN TỘC, thuộc lịch sử 7. Khi nói về nhân vật
Nguyễn Trãi, ngoài việc giới thiệu chân dung Nguyễn Trãi thì cần kể câu
chuyện về cái chết của vua Lê Thái Tông ở Lệ chi viên đã dẫn đến cái chết
oan của dòng tộc Nguyễn Trãi là cả 3 họ đều bị tru di.
Chân dung Nguyễn Trãi
-Hay khi dạy bài 24:CUỘC KHÁNG CHIẾN TỪ NĂM 1858 ĐẾN
NĂM 1873, thuộc lịch sử 8, ở phần II.CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP TỪ NĂM 1858 ĐẾN NĂM 1873, Phần 1: Kháng chiến ở Đà Nẵng và
ba tỉnh miền Đông Nam kì: khi nói đến chiến công của Nguyễn Trung Trực
thì cần nhắc đến 2 câu thơ sau:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
Còn khi nói đến cái chết của Nguyễn Trung Trực thì gắn liền với câu nói
của ông “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam
đánh Tây”.
11
Chân dung Nguyễn Trung Trực
-Hoặc khi dạy bài 27: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC KẾT THÚC (1953-1954), ở phần 2. Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954). Sau khi trình bày phần diễn biến và kết
quả của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ xong, chúng ta có thể đọc đoạn thơ
trong bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu nói về sự kiện lịch sử vĩ
đại này:
Lá cờ chiến thắng tung bay trên nắp hầm Tướng Đờ Ca-xtơ-ri
12
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.
…………………………………
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta
lên chiến trường tiếp viện
………
Có thể cung cấp thêm tên và hình ảnh một số anh hùng đã hi sinh trong
trận chiến này để khắc sâu thêm kiến thức cho các em như Tô Vĩnh Diện đã
lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai hay
Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng….
Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo
13
Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai
V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
-Qua quan sát việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng
Bản đồ tư duy đồng thời kết hợp với những câu chuyện kể, những câu nói
hoặc những câu thơ thì ở những tiết học đó học sinh rất hứng thú, tích cực và
14
tiết học rất sinh động, học sinh nắm được bài ngay tại lớp và khi về nhà các
em học bài dễ thuộc và khi đến lớp kiểm tra bài cũ các em có thể tái hiện lại
kiến thức một cách dễ dàng.
-Qua việc dạy học có sử dụng những giải pháp nêu trên, ngoài việc giúp
các em học bài nhanh nhớ, dễ hiểu nhớ lâu thì còn giúp cho các em phân biệt
được sự kiện lịch sử một cách chính xác vì mỗi một nhận vật, mỗi sự kiện đều
gắn liền với một tư liệu lịch sử khác nhau.
C. KẾT LUẬN:
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
-Qua thực hiện đề tài, bản thân nhận thấy học sinh có những biến
chuyển tích cực, các em cảm thấy có hứng thú và thích học môn lịch sử hơn.
Mặc khác việc áp dụng những giải pháp nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình giảng dạy của bản thân là giúp cho học sinh tiếp thu bài một
cách dễ dàng, các em nắm nội dung nhanh và nhớ lâu hơn vì thế tiết học diễn
ra hết sức nhẹ nhàng, hiệu quả. Giáo viên và học sinh cảm thấy thoải mái.
-Thật vậy, nếu ở mỗi tiết dạy chúng ta đều có thể sử dụng một hay
nhiều giải pháp nêu trên thì nhất định sẽ thu hút được sự chú ý tham gia học
tập của các em một cách tích cực và hiệu quả, đồng thời góp phần nâng cao
chất lượng bộ môn lịch sử trong trường phổ thông hiện nay.
II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
-Có thể áp dụng đại trà ở tất cả các khối lớp mà mình phụ trách. Tùy
đặc điểm tình hình của từng lớp và từng đối tượng học sinh mà chúng ta có
thể lựa chọn một hay nhiều giải pháp cho phù hợp để giúp các em nắm bài
nhanh và nhớ lâu hơn, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Các em sẽ hứng
thú và yêu thích hơn môn học này.
-Theo kinh nghiệm bản thân, việc dạy học lịch sử trong giai đoạn hiện
nay thì không thể thiếu một trong những giải pháp nêu trên, nếu một tiết học
lịch sử chỉ sử dụng bản đồ, lược đồ mang tính chất tĩnh với những lời thuyết
giảng của giáo viên hoặc với những câu hỏi nêu vấn đề để học sinh trả lời rồi
cho các em ghi nội dung bài học thì sẽ làm cho các em nhàm chán, các em sẽ
ngán ngại và không thích học lịch sử.
-Từ đó có thể khẳng định một điều là các giải pháp nêu trên thật hiệu
quả và có thể áp dụng rộng rãi.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài trên bản thân nhận thấy:
-Trong thời đại công nghệ thông tin mà nếu như chúng ta không tiếp cận
và theo kịp thì sẽ lạc hậu và trong giai đoạn hiện nay việc giảng dạy bằng lời
nói khô khan với những hình ảnh mang tính chất tĩnh thì sẽ không mang lại
hiệu quả cao.
15
-Như vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng bản đồ tư duy và
các tư liệu lịch sử có liên quan đối với môn lịch sử bước đầu đã thu được
những hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên không có một phương pháp và phương
tiện nào là vạn năng cả, mỗi phương pháp, phương tiện đều có những ưu điểm
và hạn chế riêng, vì thế với sự sáng tạo, linh hoạt và khéo léo của mỗi giáo
viên tôi tin chắc rằng chúng ta có thể tự lựa chọn cho mình một phương pháp
và phương tiện thật tối ưu để giúp cho quá trình giảng dạy của bản thân ngày
càng có hiệu quả cao hơn, nâng chất lượng bộ môn lịch sử ngày càng cao và
ngày càng thu hút nhiều hơn các em học bộ môn này, vì đây là cái gốc, cái rễ
của dân tộc, Lịch sử là nguồn cội của dân tộc. Qua quan sát thực tế ở những
tiết dạy này thì thường xuyên có khoảng 100% học sinh trả lời đúng các câu
hỏi bài tập, khoảng 80% học sinh có thể trình bày lại diễn biến của các cuộc
kháng chiến một cách dễ dàng, 100% học sinh cảm thấy có hứng thú khi được
học theo mô hình này.
-Thực tế, nếu mỗi giáo viên chúng ta biết cách lựa chọn và áp dụng có
hiệu quả những giải pháp nêu trên đồng thời kết hợp với việc dựa vào đặc
điểm của từng đối tượng học sinh, từng nội dung bài học mà áp dụng các
phương pháp cho phù hợp thì nhất định sẽ thu hút được sự tham gia học tập
của các em, giờ học sẽ sinh động và hiệu quả hơn góp phần nâng cao chất
lượng bộ môn lịch sử.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
-Nên cung cấp những đĩa phim tư liệu lịch sử để hỗ trợ cho việc giảng
dạy của giáo viên.
-Nên tạo điều kiện để giáo viên được dự các lớp tập huấn về đổi mới
phương pháp dạy học để giáo viên có cơ hội trau dồi tay nghề, nâng cao năng
lực giảng dạy.
-Một số trường cần đầu tư trang bị cơ sở vật chất để hỗ trợ tốt hơn cho
việc giảng dạy của giáo viên theo phướng hướng hiện đại.
* Trên đây là một số giải pháp về việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử
dụng bản đồ tư duy và kết hợp với việc sử dụng các phim ảnh tư liệu lịch sử,
những câu chuyện kể, những câu thơ-đoạn thơ hay những câu nói của các
danh nhân vào việc dạy học lịch sử, xin được chia sẻ cùng với quý đồng
nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng, tạo hứng thú và thu hút học sinh
trong việc dạy học lịch sử.
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Thị Phước Nhiều
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên (chủ biên) Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông NXB ĐHSP 2005.
2. Nguyễn Thị Côi, các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử ở trường phổ thông, NXB, ĐHSP, 2006.
3. Bản đồ tư duy trong công việc:Mindmaps at work/Tony Buzan;New
Thinking group dịch. Hà Nội: Lao động Xã hội.2011-252tr.21 cm
4. Các hình ảnh tư liệu lịch sử trang trang website của BGD-ĐT.
17
MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài: .........................................................................1
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu: .......................................1
III. Giới hạn của đề tài: ....................................................................2
IV. Kế hoạch thực hiện: ...................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG: ...........................................................................2
I. Cơ sở lý luận: ...............................................................................2
II. Cở sở thực tiễn: ...........................................................................3
III. Thực trạng và những mâu thuẫn: ...............................................3
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề: ...............................................4
V. Hiệu quả áp dụng: .....................................................................13
C. KẾT LUẬN: .....................................................................................14
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác: ...........................................14
II. Khả năng áp dụng: ....................................................................14
III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển: ..................................14
IV. Đề xuất, kiến nghị: ..................................................................15
18