Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Bước đầu tìm hiểu hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở malaixia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.03 KB, 69 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa lịch sử
----------------------

nguyễn thị thuỳ linh

khoá luận tốt nghiệp

bớc đầu tìm hiểu hồi giáo
và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia

Chuyên ngành: lịch sử thế giới

Vinh, 5-2005


Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các
thầy cô trong và ngoài khoa Lịch sử-những ngời đã
dìu dắt tôi trong suốt những năm học Đại học. Đặc
biệt là Thạc sĩ Lê Tiến Giáp, ngời đã trực tiếp hớng
dẫn tôi thực hiện khoá luận này. Tôi cũng xin cảm ơn
thầy giáo Phạm Ngọc Tân và một số thầy cô giáo
khác đã cho tôi những ý kiến đóng góp qúy báu để
hoàn thành khoá luận này.
Tác giả

2


A. Mở đầu


I. Lý do chọn đề tài:

Hồi giáo đã và đang chi phối mọi mặt trong đời sống văn hoá xã hội,
chính trị, kinh tế của các nớc Hồi giáo hoá, bất kể đó c dân Hồi giáo chiếm
đa số nh ở các nớc Trung cận Đông, Nam á, hay họ chỉ là những cộng đồng
Hồi giáo ít ỏi, nhỏ bé nh ở các nớc trong khu vực Đông Nam á. Hiện nay
trên thế giới Hồi giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất, với khoảng hơn 1
triệu tín đồ, Hồi giáo có một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội
của nhiều nớc. Mặc dù hiện nay loài ngời đang phải đơng đầu với hàng loạt
các cuộc khủng bố của những phần tử Hồi giáo cực đoan. Nhng thực tế đã
cho thấy rằng Hồi giáo không phải là một tôn giáo cực đoan bắt các tín đồ
của mình phải từ bỏ cuộc sống hiện tại để mu cấu hạnh phúc ở kiếp sau mà
Hồi giáo đã có những đóng góp ta lớn cho nhân loại những thành tựu khoa
học nh thiên văn học, y học, hoá học... Chính vì vậy, việc nghiên cứu về
Hồi giáo nói chung đang là một đề tài khá hấp dẫn. Đặc biệt, ở Đông Nam
á hiện nay là khu vực có nhiều nớc đạo Hồi là quốc giáo, Malaixia là một
nớc nh thế. ở Malaixia, Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc Melayu là những
vấn đề nổi bật trong đời sống chính trị-xã hội của đất nớc này. ở đây Hồi
giáo đợc coi là quốc giáo, đồng thời là tôn giáo của cộng đồng ng ời Melayu
bản địa lớn nhất, nắm quyền lãnh đạo đất nớc và có nhiều đặc quyền đặc
lợi. ở Malaixia, không chỉ có ngời Melayu là dân tộc bản địa mà còn có
một số dân tộc khác đến định c ở đây tơng đối muộn nh ngời Hoa, ngời ấn.
Chủ nghĩa dân tộc Melayu hình thành vào thế kỷ XX khi ngời Hoa, ngời ấn
ồ ạt di c tới miền đất này. Mối quan hệ giữa Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc
Melayu không những chiếm một vị trí quan trọng trong xã hội Malaixia, mà
còn ảnh hởng tới hầu hết các lĩnh vực cuộc sống của quốc gia này.
Malaixia là một trong những quốc gia thành viên sáng lập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam á(ASEAN). Năm 1973, sau khi Hiệp định Pari về Việt
3



Nam đợc ký kết, mặc dù chịu rất nhiều sức ép từ các nớc trong và ngoài khu
vực những chính phủ Malaixia vẫn quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam ở cấp đại sứ. Từ sau khi Việt Nam hoàn thành thống nhất đất
nớc vào năm 1975, quan hệ giữa hai nớc ngày càng đợc tăng cờng. Đặc
biệt, là từ những năm 1990 đến nay quan hệ giữa Malaixia và Việt Nam
trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục... không ngừng phát triển. Năm
1990, sau khi Việt Nam giải quyết xong vấn đề Cămpuchia thì quan hệ giữa
hai nớc lại có những bớc phát triển mới. Năm 1992, thoả thuận thanh toán
tay đôi (BPA) đợc ký kết là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cờng
quan hệ hợp tác kinh tế thơng mại giữa hai nớc. Kim nghạch buôn bán hai
chiều giữa Việt Nam - Malaixia ngày càng tăng nhanh.
Việt Nam đã xuất khẩu sang Malaixia những mặt hàng nông phẩm
chính yếu và đã nhập của Malaixia những mặt hàng hàng đầu nh đồ điện,
điện tử, hoá chất, vật liệu xây dựng...
Thủ tớng Malaixia đã tuyên bố sẵn sàng hợp tác giúp đỡ Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế. Malaixia đã tích cực ủng hộ
Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á -Thái Bình Dơng
(APEC); Hội đồng hợp tác lòng chảo Thái Bình Dơng (PBEC); Diễn đàn
kinh tế Đông á (EAEC). Quan hệ Việt Nam -Malaixia ngày càng trở nên tốt
đẹp, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN
(1995) thì quan hệ giữa hai nớc càng phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn.
Cho đến nay Malaixia đã đầu t vào Việt Nam trên 50 dự án với tổng số vốn
lên đến hàng triệu USD, đây là nớc đứng hàng thứ hai các nớc trong khu vực
đầu t vào Việt Nam. Có thể nói từ khi hai nớc Việt Nam -Malaixia thiết lập
quan hệ ngoại giao đến nay thì quan hệ giữa hai nớc về các lĩnh vực kinh tế,
văn hoá giáo dục... ngày càng tốt đẹp và không ngừng đợc phát triển.
Để giảng dạy tốt phần lịch sử Đông Nam á trong đó có Malaixia chúng
tôi thấy cần phải hiểu biết hơn nữa Malaixia và mối quan hệ giữa Việt Nam và
Malaixia trong hiện tại và tơng lai. Bởi vậy dẫu khả năng còn nhiều hạn chế và

4


điều kiện còn gặp nhiều khó khăn nhng chúng tôi quyết định chọn đề tài: Bớc đầu tìm hiểu Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia làm khoá luận
tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu :

Vấn đề Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia đã có nhiều học
giả trong và ngoài nớc quan tâm. Đã có rất nhiều học giả nớc ngoài đề cập
đến vấn đề Hồi giáo với nhiều khía cạnh khác nhau: Omar Farouk với Ngời
Hồi giáo ở Đông Nam á: Một cái nhìn khái quát trong Hoạt động ngân
hàng Hồi giáo ở Đông Nam á (The Muslims of Southeast Asia: An
Overvien: in Islamic Ban Kinh in Southeast Asia, Singapore, 1998)... Nigel
Kelly với Lịch sử Malaya và Đông Nam á (History of Malaya & South-East
Asia, Heinemamm Southeast Asia, Xingapo, 1997). Trong nớc có một số
nhà nghiên cứu nh TS. Phạm Thị Vinh với một số công trình nh: Hồi giáo
trong đời sống chính trị, văn hoá-xã hội của Malaixia (giai đoạn 19571987), luận án chuyên ngành lịch sử cận đại và hiện đại, (mã số 5.03.04),
2001; Tôn giáo ở Malaixia trong cuốn Liên bang Malaixia, lịch sử, văn
hoá và những vấn đề hiện đại; Hồi giáo ở Đông Nam á trong cuốn Tôn
giáo và đời sống hiện đại, tập 4, Viện Thông tin KHXH, 2001. Song, cho
đến nay vấn đề Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc trong mối quan hệ t ơng tác
và ảnh hởng của nó đến đời sống xã hội Malaixia cha có nhiều công trình.
Chính vì vậy, trong đề tài này chúng tôi muốn bớc đầu tìm hiểu vấn đề Hồi
giáo và chủ nghĩa dân tộc, mối quan hệ và ảnh hởng của nó đối với đời sống
xã hội Malaixia nhằm góp một phần nhỏ bé giúp những ngời Việt Nam
quan tâm tìm hiểu vấn đề này hơn. Là một sinh viên trình độ còn nhiều hạn
chế cho nên công trình này chỉ là bớc đầu tìm hiểu và chắc chắn sẽ cha thật
hoàn chỉnh, kính mong các thầy cô và bạn bè góp ý.
3. đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


3.1. Đối tợng nghiên cứu

5


Để đảm bảo tính chuyên khảo của khoá luận và cũng bởi nguồn tài liệu
còn hạn chế nên chúng tôi không thể đi sâu, phân tích hết các khía cạnh,
mà chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu sự ra đời, mối quan hệ giữa Hồi
giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khi nói tới Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc Melayu trong suốt chiều dài
lịch sử của đất nớc Malaixia thì có rất nhiều vấn đề cần phải đề cập. Nhng
trong phạm vi nghiên cứu đề tài này do điều kiện còn gặp nhiều khó khăn,
việc su tầm t liệu cha thật sự phong phú nên chúng tôi chỉ bớc đầu tìm hiểu
về Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc Melayu trong mối quan hệ với nhau và
ảnh hởng của nó đến đời sống xã hội Malaixia nói chung. Đây mới chỉ là
bớc đầu tìm hiểu, do điều kiện cha cho phép, nhng sau này trong quá trình
nghiên cứu khoa học của mình chúng tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu
sâu hơn về vấn đề này.
4. phơng pháp nghiên cứu .

Với phơng pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể, chúng tôi đã dẫn những t
liệu lịch sử để đa ra tiến trình phát triển của vấn đề. Đồng thời, chúng tôi sử
dụng phơng pháp phân tích từ các tài liệu tổng hợp để làm rõ mối quan hệ
giữa Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia. Ngoài ra, chúng tôi còn sử
dụng phơng pháp so sánh,tổng hợp để hoàn thiện khoá luận.
5. bố cục của khoá luận.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận đợc chia làm ba chơng:
Chơng 1: Giới thiệu khái quát về Liên bang Malaixia.

Chơng 2: Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia
Chơng 3: Mối quan hệ giữa Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia

6


B. nội dung
Chơng 1:
khái quát về liên bang Malaixia

1.1. Về điều kiện tự nhiên
Malaixia là một quốc gia nằm ở trung tâm Đông Nam á. Lãnh thổ nớc này nằm gần xích đạo giữa 1 độ đến 7 độ vĩ Bắc và trãi dài từ 100 đến
119 độ kinh đông.Với tổng diện tích 332952 km 2 và gần 500 km bờ biển,
Malaixia là quốc gia duy nhất trong các quốc gia Đông Nam á có lãnh thổ
nằm trên cả lục địa và hải đảo.
Tây Malaixia (hay còn gọi là Malaixia lục địa) có diện tích 131200
km2 trải dài từ eo đất Kra tới eo biển Johor với 83% dân số cả n ớc, gồm 11
bang trong đó có 9 bang Hồi giáo ( Johor, Selangor, Negeri Sembilan,
Perak, Perlis, Kedah, Trengganu và Kelantan) và hai di thực eo biển là
Malacca và Penang.
Đông Malaixia ( hay còn gọi là Malaixia hải đảo) nằm ở phía Bắc và
Đông bán đảo Kalimantan ( đảo Borneo) với diện tích 200600 km 2 tập trung
17% dân số cả nớc với hai bang là Sabah và Sarawak.
Hai vùng này bị chia cắt bởi vùng biển Nam Trung Hoa khoảng 700
km. Tây Malaixia có biên giới với Thái Lan ở phía Bắc, eo Malacca là ranh
giới giữa Malaixia và Iđonesia, trên bán đảo Sumatra, còn eo biển Johor là
ranh giới giữa Malaixia và Xingapo. ở phía Đông, Malaixia giáp với
Iđonesia, Brunei và có chung vùng biển với Philippines.
Do cùng nằm trong một mái nhà chung Đông Nam á nên ở Malaixia
có khí hậu cận xích đạo với đặc điểm là nóng ẩm, m a nhiều và đợc chia làm

hai mùa rõ rệt: mùa ma và mùa khô. Nhiệt độ trung bình ở đây khoảng từ
260C đến 280C và thờng không có diễn biến khác thờng trong năm. Độ ẩm
trung bình 80%. Lợng ma trung bình hàng năm của nớc này rất lớn và th-

7


ơng tuỳ thuộc vào từng vùng, nh vùng duyên hải bán đảo từ 2000 đến 2500
mm/năm.
Với khí hậu cận xích đạo nóng ẩm, ma nhiều, Malaixia có một hệ thực
vật vô cùng phong phú và đa dạng. Rừng nhiệt đới xanh tốt quanh năm với
nhiều loại gỗ quí có giá trị công nghiệp lớn. Gỗ là nguồn thu ngoại tệ đứng
thứ ba của đất nớc.
Malaixia là một nớc có diện tích rừng và đồi núi chiếm tới 3/4 tổng
diện tích đất đai. Núi và cao nguyên tập trung ở phía Bắc và giữa bán đảo,
chạy theo hớng Bắc Nam, cao 1500-2000 m, phía Nam có nhiều đồi núi
thấp rãi rác. Dãy núi chính ở đây là dãy núi trung tâm hay còn gọi là núi
Karbau. Dãy núi này kéo dài từ phía Thái Lan và chia lãnh thổ Tây
Malaixia thành hai phần từ Bắc xuống Nam. Bờ biển phía Tây rộng, thấp,
bằng phẳng, là nơi tập trung phần lớn c dân của bán đảo. Đông Malaixia
cũng đợc tạo bởi các dãy núi Kapuas ở Sarawak và Croker ở Sabah. Đỉnh
Kinabalu cao 4171 m ở Sabah là đỉnh núi cao nhất Đông Nam á.
Hệ thống sông ngòi của Malaixia dày đặc nhng đều ngắn ( do địa hình
qui định). Sông Rajang dài 560 km là con sông dài nhất Malaixia. Ngoài ra,
còn có các con sông khác nh Baram dài 500 km, Lupar dài 227 km,
Kinabatangan dài 551 km, Pahang dài 320 km, Perak dài 270 km.
Đất đai ở Malaixia cũng phân hoá theo địa hình, nhng có thể nói ở
Malaixia chủ yếu là đất đỏ và đất laterit rất thích hợp cho nhiều loại cây
trồng có giá trị nh cao su, dầu cọ, dừa, ca cao...ở các đồng bằng thấp ven
biển, đất có sunphat chua chiếm khoảng 100 000 ha và phải đ ợc cải tạo thì

mới trồng trọt đợc.
Malaixia là đất nớc có thế giới động vật hết sức đa dạng. Ngoài những
giống vật tiêu biểu nh gấu Mã Lai, tê giác hai sừng. ở đây còn nhiều loài
thú khác nh voi, các loài hổ báo, trăn, rắn... và gần 500 loại chim muông.
Ngoài ra, thiên nhiên cũng hào phóng ban tặng cho đất n ớc Malaixia
nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và quí giá nh dầu mỏ, khí đốt, đồng,
8


mangan, thiếc... Malaixia có trữ lợng thiếc rất lớn, khoảng 1200 triệu tấn
(đứng thứ ba ở khu vực Đông Nam á). Còn về sản lợng khai thác Malaixia
luôn đứng hàng chủ đạo trong khu vực. Các mỏ khai thác thiếc chính là
thung lũng sông Kinta (thuộc bang Perak) chiếm đến 58% sản lợng thiếc,
bang Selangor 30% sản lợng. Malaixia có quặng sắt mà trữ lợng ớc tính
khoảng 70 triệu tấn nằm ở các bang thuộc bán đảo Malắcca nh Trenganu,
Perak, Johor và Kelantan. ở Malaixia mỏ bốc xít (sản lợng khoảng 0,59
triệu tấn) nằm chủ yếu ở phía Đông nam bang Johor. Hàng năm Malaixia
khai thác đợc khoảng 29.000-30.000 tấn đồng Malaixia có trữ lợng dầu mỏ
khoảng 500 triệu tấn, hàng năm khai thác đợc khoảng 20 triệu tấn. Các mỏ
dầu chính nằm ở vùng thềm lục địa bán đảo Malắcca và ở bang Trenganu, ở
bang Sabah và Sarawak, trữ lợng khí đốt của Malaixia khoảng 12.000 triệu
m 3.
Vị trí địa lý của Malaixia không chỉ quan trọng trên tuyến đờng biển
nối các trung tâm kinh tế Âu- á, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
hình thành các quốc gia dân tộc này. Malaixia không những là địa bàn giao
lu của nhiều nền văn minh cổ đại, nhất là nền văn minh ấn Độ, Trung Hoa
mà còn là nơi lui tới của các thơng gia Trung Hoa, ấn Độ, các đế quốc
Trung Cận Đông và đế chế La Mã.
1.2. Vài nét về lịch sử
Theo sử sách để lại, hàng nghìn năm trớc Công nguyên, trên mãnh đất

Malaixia đã có c dân sinh sống. Trong các hang động của Sarawak, ngời ta
đã tìm thấy di tích sống của con ngời sống cách đây 35 nghìn năm. Còn ở
vùng bán đảo Malacca, con ngời đã sinh sống từ 10 000 năm trớc. Các nhà
khoa học cho rằng, vào thời kì đồ đá cũ, trên lãnh thổ bán đảo Malacca đã
có dân tộc Negro- australoid sinh sống và vào khoảng 1000-3000 năm tr ớc
Công nguyên có bộ lạc Môn-Khơme và Malayo-Polinesia di c tới đây.

9


Do đặc điểm của vị trí địa lý, nằm trên đờng giao lu giữa ấn Độ Dơng
và Thái Bình Dơng nên từ thời xa xa vùng bán đảo Malắcca đã sớm tiếp xúc
với các nền văn minh lớn của thời kỳ đó là ấn Độ, Trung Hoa... Những đợt
gió mùa Tây nam (từ tháng 5-8) hay Đông bắc (từ tháng 11-4) đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà hàng hải hoặc thơng gia Trung Quốc và ấn Độ
tiến hành các cuộc hành trình từ Trung Quốc đến ấn Độ hoặc ngợc lại. Nơi
gặp nhau của hai đợt gió mùa này-Malaixia là điểm dừng chân lý t ởng cho
các nhà hàng hải quốc tế, là nơi tập kết hàng hoá, nơi nghỉ ngơi, nơi cung
cấp lơng thực, nớc ngọt... cho các thơng gia ấn Độ, Trung Hoa, Arập. Các
cuộc viễn dơng của các nhà hàng hải ấn Độ, Trung Hoa đến Malắcca không
chỉ để lại ảnh hởng về văn hoá của các nớc này đối với c dân nơi đây mà
còn kéo theo việc di dân từ hai nớc này đến bán đảo Mã Lai. Kết quả là,
những quốc gia đầu tiên đợc xây dựng theo kiểu ấn Độ, nổi lên trong đó là
vơng quốc Malắcca (khoảng thế kỷ VIII-XV). Dới thời cai trị của
Mudzafar-Shah (1445-1458) Hồi giáo đợc coi là tôn giáo chính thức và
Malắcca trở thành một trung tâm truyền bá tôn giáo mới ở Đông Nam á.
Từ đó Malắcca mở rộng ảnh hởng của mình ra các quốc gia Melayu khác.
Vơng quốc Malắcca đã thống lĩnh toàn bộ vùng eo biển Malắcca. Và do đó
đến năm 1470 Malắcca đã trở thành một trong các quốc gia hùng mạnh
nhất ở Đông Nam á. Đây là thời kỳ thành phố Malắcca đạt đến đỉnh cao

của sự phồn vinh. Vơng quốc này đã mở rộng quyền lực ra toàn bộ vùng
bán đảo Malắcca và có quan hệ buôn bán sầm uất với vơng quốc Brunây
trên vùng phía bắc đảo Kalimantan mà quyền lực lức đó ảnh hởng đến các
vùng lãnh thổ thuộc các bang Serawak và Sabah ngày nay của Malaixia.
Thành phố cảng Malắcca trở thành một điểm trung chuyển lớn nhất ở phơng Đông lúc đó. Những nhà buôn Trung Quốc đa đến đây rất nhiều các
sản phẩm nh tơ lụa, bạc, đồ gốm, sứ... hay hàng dệt của ấn Độ, gạo của
Thái Lan và Giava, vàng, ngà voi, hơng liệu... từ các đảo khác của
Inđônêxia cũng đợc đa tới. Vào đầu thế kỷ XIV, vơng quốc Malắcca rơi vào
10


tình trạng đấu tranh gay gắt giữa các phe phái trong giới cầm quyền. Điều
này đã cản trở không ít sự hng thịnh và phát triển của vơng quốc hùng
mạnh này. Sự thịnh vợng của vơng quốc này chấm dứt cùng với sự hiện diện
của chủ nghĩa thực dân phơng Tây vào Đông Nam á.
Đầu thế kỷ XVI, ngời Bồ Đào Nha chiếm vơng quốc Hồi giáo
Malắcca. Sau khi chiếm Malắcca, Bồ Đào Nha không có ý định mở rộng
ảnh hởng của mình ra các vùng lãnh thổ của Melayu mà chú trọng vào phát
triển thành phố Malắcca. Ngời Bồ Đào Nha tìm cách biến Malắcca thành
một thị trờng buôn bán sầm uất hơn để thu hút các thơng gia từ châu Âu, ấn
Độ, Trung Quốc. Mặt khác, họ biến Malắcca thành một pháo đài vững chắc
bảo vệ con đờng buôn bán quan trọng từ Bồ Đào Nha sang phơng Đông,
đến Trung Quốc và sang các đảo hơng liệu ở Inđônêxia. Sự xuất hiện của
Bồ Đào Nha đã khơi dậy tinh thần phản kháng của nhân dân đại phơng.
Liên tiếp trong nhiều năm 1515, 1516, 1519, 1523... thủ lĩnh Johor đã nhiều
lần chống lại ngời Bồ Đào Nha nhng tất cả đều không thành công. Mãi cho
đến năm 1641, Hà Lan liên minh với Johor chiếm Malắca từ tay Bồ Đào
Nha. Vậy là, sau 130 năm thống trị ở đây Bồ Đào Nha đã phải nh ờng lại vị
trí quan trọng này cho một đối thủ hùng mạnh hơn là Hà Lan. Trong suốt
một thời gian dài các vơng quốc Melayu chịu sự kiểm soát của ngời Hà

Lan. Mãi cho đến những năm cuối thế kỷ XVIII, ngời Anh tấn công vào
Malaixia và đến đầu thế kỷ XX, toàn bộ Malaixia trở thành thuộc địa của
Anh. Trong số thực dân phơng Tây đến Malaya thì thực dân Anh xuất hiện
muộn màng hơn cả. Tuy vậy, do đặc điểm phát triển của mình mà kẻ đến
sau này lại là kẻ thống trị ở đây lâu nhất và để lại nhiều dấu tích nhất trong
lịch sử của Malaixia.
Trong đại chiến thế giới thứ hai, Nhật chiếm đóng Malaixia. Tháng 111945, ngời Anh phục hồi lại quyền cai trị của mình ở Malaixia. Năm 1946,
ngời Anh tách Xingapo thành thuộc địa riêng. Năm 1948, chín tiểu quốc
Hồi giáo, kể cả Malắcca và Penang hợp nhất thành Liên bang Malaya.
11


Ngày 31-8-1957, Malaixia giành đợc độc lập với 11 bang thuộc bán
đảo Malaixia và đợc gọi là Liên bang Malaya. Tuy nhiên, ngời Anh vẫn
nắm vị trí then chốt trong nền kinh tế nh sản xuất cao su, khai thác thiếc,
ngân hàng ngoại thơng.
Ngày 9-3-1963, tại Luân Đôn đã ký một hiệp ớc giữa Anh, Liên bang
Malaya, Xingapo, Sabah và Sarawak về việc thành lập Liên bang Malaixia
trong khuôn khổ hợp tác với nớc Anh. Ngày 16-9-1963, Liên bang Malaixia
chính thức đợc thành lập.
Mùa hè năm 1965, quan hệ giữa chính phủ Malaixia và Xingapo trở
nên căng thẳng về các vấn đề kinh tế, chính trị, sắc tộc. Bởi vậy, ngày 9-81965, Xingapo tuyên bố tách khỏi khối Liên hiệp Anh, trở thành quốc gia
độc lập.
1.3.

Về kinh tế

Với lợi thế của nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vị
trí địa lý thuận lợi cộng với những cơ sở hạ tầng và kiến trúc th ợng tầng khá
tốt từ thời thuộc địa Anh, từ khi giành đơc độc lập đến nay, Malaixia đã

không ngừng vơn lên để trở thành một trong những nớc dẫn đầu về mặt
kinh tế ở khu vực Đông Nam á . Có những giai đoạn phát triển dù trong
điều kiện khó khăn nhng nền kinh tế nớc này đã tăng bình quân
7%/năm.Thu nhập bình quân đầu ngời đạt 3230 đô la Mỹ năm 1994 (sau
Brunei và Xingapo).
Những năm 50 của thế kỷ XX , Malaixia chú trọng đầu t cho nông
nghiệp với trọng tâm là phát triển cây công nghiệp dài ngày để xuất khẩu.
Với những nỗ lực không biết mệt mỏi, Malaixia đợc biết đến là một trong
những nớc xuất khẩu dầu cọ, cao su lớn nhất thế giới. Sản xuất cao su đã
thúc đẩy mạnh mẽ sự thịnh vợng của Malaixia. Năm 1970, riêng Malaixia
đã sản xuất gần một nửa lợng cao su trên thế giới và đến năm 1998, tỉ phần
sản lợng cao su trên thế giới của Malaixia đã giảm xuống còn 15%.
12


Malaixia hiện là nớc sản xuất dầu cọ trên thế giới, chiếm khoảng 46% sản
lợng.
Ngoài ra, Malaixia là một trong những nớc sản xuất lớn trên thế giới
về gỗ nhiệt đới, ca cao, tỏi, chè. Quặng thiếc là nguồn tài nguyên xuất khẩu
có giá trị của Malaixia, đồng thời Malaixia là nớc sản xuất thiếc hàng đầu
trên thế giới, chiếm 48% sản lợng thiếc của toàn thế giới. Gần đây Malaixia
trở thành nớc sản xuất quan trọng về dầu mỏ và khí tự nhiên.
Những năm gần đây, công nghiệp chế tạo của Malaixia đã thay thế
nông nghiệp, chiếm 25% GDP, với các linh kiện điện tử bán dẫn hiện đang
đứng đầu thế giới, sản xuất máy điều hoà nhiệt độ, phơng tiện giao thông,
xi măng, hàng dệt. Malaixia cũng là một trong những nớc u tiên phát triển
ngành du lịch, thu nhập trong ngành du lịch đứng thứ 3 trên thế giới.
Malaixia ngày càng trở nên nổi tiếng nh một nơi để du khách đến nghỉ
ngơi; chất lợng dịch vụ hàng không ngày càng đợc hoàn thiện. Số lợng
khách du lịch nớc ngoài tăng từ 3,14 triệu ngời lên 3,8 đến 4,0 triệu ngời

vào năm 1990-Năm ghé thăm Malaixia [4; 49].
Malaixia là một đất nớc hội tụ khá nhiều điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của Malaixia cũng gặp
rất nhiều khó khăn: hai phần lãnh thổ quá cách xa nhau trong một quốc gia
Liên bang, vấn đề đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa ngôn ngữ, điều kiện tự nhiên
khác nhau ở từng vùng gây ra những bất bình đẳng về mặt lãnh thổ... Khó
khăn vẫn còn nhng với những bớc đi đúng hớng, Malaixia đã trở thành một
trong những quốc gia có mức tăng trởng kinh tế cao trong những năm gần
đây.
1.4. Về chế độ chính trị, cộng đồng dân c và tôn giáo
1.4.1. Về chế độ chính trị

13


Malaixia trở thành quốc gia độc lập từ 31-8-1957 nhng vẫn giữ lại mặt
mạnh của thể chế chính trị ngời Anh. Những ngày sau độc lập, ngời ta vẫn
thấy Malaixia giữ dáng vẻ của một thuộc địa củ của Anh.
Hiến pháp Malaixia dựa trên cơ sở của Hiến pháp Liên bang Malaixia
trơc đây có bổ sung thêm một số điều xuất phát từ lợi ích của Sabah và
Sarawak. Hệ thống hành chính của chính quyền Liên bang dựa trên chế độ
quân chủ lập hiến bầu cử. Đứng đầu các bang Hồi giáo là các tiểu v ơng
theo chế độ cha truyền con nối. Ngời lãnh đạo tối cao của Liên bang là nhà
vua. Ngôi vua đợc bầu từ các tiểu vơng với nhiệm kỳ 5 năm. Vua là ngời
thực thi quyền lực quân chủ lập hiến trong nền dân chủ nghị viện.
Hệ thống nghị viện của Malaixia đợc xây dựng theo mô hình nghị viện
của nớc Anh với thủ tớng và nội các chịu trách nhiệm trớc nghị viện. Quốc
hội Liên bang là cơ quan gồm Thợng viện và Hạ viện. Quốc hội bất đầu
hoạt động vào giữa năm 1969 và đợc củng cố vào tháng 2 năm 1971.
Thợng viện (Deuan Negara) gồm 58 thành viên với nhiệm kỳ 6 năm.

Thợng viện không bao giờ bị giải tán. Hạ viện (Dawan Rakyat) có nhiệm kỳ
5 năm.
Chính phủ Liên bang có quyền lực trên tất cả các lĩnh vực đối ngoại,
quốc phòng, an ninh, t pháp (trừ luật Hồi giáo) quyền công dân Liên bang,
tài chính, thơng mại, công nghiệp, thông tin, giao thông vận tải. Tuy nhiên,
hai bang Sabah và Sarawak vẫn đợc quyền tự trị trong việc nhập c, dịnh c,
dịch vụ dân sự và các vấn đề tập tục.
1.4.2. Về dân c, dân tộc
Thành phần dân c của Malaixia tơng đối phức tạp. Các c dân lâu đời ở
đây nh các tộc ngời Semang, Xenoi, Jakun (ở bán đảo Malắcca),
Klemantan, Melannan ...(ở bắc Kalimantan) cùng với ngời Melayu đợc coi
là ngời bản xứ và có tên gọi theo tiếng Melayu là Bumiputra. Do đặc điểm
phát triển của lịch sử dần dần trong thành phần c dân của Malaixia hình
14


thành ba cộng đồng dân tộc chính: Cộng đồng ngời Melayu (gồm bản thân
ngời Melayu và các tộc ngời bản địa khác), cộng đồng ngời Trung Quốc và
cộng đồng ngời ấn Độ. Cho đến nay vẫn còn nhiều khác biệt trong sinh
hoạt cũng nh trong hoạt động kinh tế giữa ba cộng đồng ngời nói trên.
Cộng đồng ngời bản địa (gọi theo tiếng Melayu là Bumiputra) chiếm
56% dân số gồm đa phần là ngời Melayu, chiếm 47% dân số cả nớc và các
tộc ngời bản địa lâu đời ở đây nh: Semang, Xenoi, Jakun, (ở bán đảo
malacca), Bajan, Murut, Iban, Klemantan, Kelabit, Katasan... (ở bán đảo
Kalimantan).
Ngời Melayu sống chủ yếu ở các vùng nông thôn nông nghiệp lạc hậu
nh ở vùng bán đảo Malaixia (tập trung chủ yếu ở phía Bắc và Đông bắc),
đặc biệt các bang nh Trenganu, Kelantan (92%), Perlis (78%), Kedah
(68%), Pahang (54%). ở các bang còn lại, ngời Melayu là cộng đồng thiểu
số. Ngoài ra, ngời Melayu cũng c trú ở hai bang bán đảo là Sarawak và

Sabah nhng với tỉ lệ ít ỏi . Ngời Melayu cũng nh các dân tộc bản địa thiểu
số khác là chủ nhân thật sự của đất nớc nhng mức sống của họ lại thấp hơn
so với các dân tộc đến định c sau này nh ngời Hoa, ngời ấn. Thu nhập bình
quân của một gia đình ngời Mã Lai thờng thấp hơn so với một gia đình ngời
Hoa. Đây là một trong những nguyên nhân gây mất ổn định về chính trị, xã
hội Malaixia, buộc chính phủ phải đa ra nhiều chính sách nhằm công bằng
hoá xã hội. Từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, nhất là những
năm gần đây, tỉ lệ ngời bản địa ngày càng tăng lên lấn át cộng đồng ngời
Hoa và ngời ấn.
Cộng đồng ngời Hoa: Cộng đồng ngời Hoa đến định c ở Malaixia chủ
yếu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong thời kỳ Malaixia còn là thuộc địa
của Anh. Thực ra, trớc đó ngời Hoa cũng đã có mặt ở Mã Lai nhng họ hoà
nhập với c dân bản địa bằng các cách khác nhau nh hôn nhân ... vào đầu
thập niên 80 trong số 16,1 triệu dân của nớc này thì ngời Hoa chiếm 34%
dân số. Đến giữa năm 1995 dân số Malaixia là 19,6 triệu ngời thì ngời Hoa
15


chỉ còn 30% dân số. Ngời Hoa sống chủ yếu ở phía Tây, phía Nam bán đảo
Malacca và tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm khai thác thiếc.
Năm 1970 họ chiếm 57% dân số đô thị trên bán đảo, đặc biệt là ở các thành
phố lớn ven biển nh Kuala Lumpua 55%, Giocgie Taon 72%, Ipoh 72%,
Malắcca 75% ...các bang Perlis và Kedah, số ngời Hoa không đáng kể ,còn
ở các bang nh Trengganu và Kelantan hầu nh không có. Ngời Hoa giữ một
vai trò rất lớn trong sự phát triển kinh tế của Malaixia. Ngời Hoa không
những chỉ là những nhà t sản cỡ lớn và vừa nắm giữ nhiều xí nghiệp hầm
mỏ, công ty vận tải, ngân hàng các đồn điền cao su , đồn điền dầu cọ , bán
buôn cũng nh bán lẻ mà còn chiếm số đông trong giai cấp vô sản công
nghiệp và khai khoáng .
Cộng đồng ngời ấn: Cộng đồng ngời ấn đầu tiên đến bán đảo Malacca

là những nhà truyền đạo để truyền bá đạo Hindu (những di chỉ ở Lembah
Bigang ở Kedah đã chứng thực điều đó).
Khi đã định c trên bán đảo, họ đã lấy những ngời dân địa phơng và bị
đồng hoá vào xã hội Malaixia.Tuy nhiên số lợng ngời ấn Độ này ít hơn rất
nhiều so với những ngời đến Malaixia vào sau này. Cũng giống nh ngời
Hoa, ngời ấn ồ ạt di c tới đây vào thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do sự khuyến
khích của ngời Anh. Một phần trong số họ là lính đợc công ty Đông ấn gửi
đến để bảo vệ các khu định c Eo biển .Những ngời khác là tù nhân đợc gửi
từ ấn Độ tới để thực hiện các bản án bằng lao động khổ sai nh xây dựng đờng sá, cầu cống và các toà nhà công cộng. Rất nhiều trong các số tù nhân
ấn Độ ở lại những khu định c sau khi hết thời gian chịu án.
Hiện nay ngời ấn Độ chiếm khoảng 8% dân số Malaixia. Họ sống ở cả
vùng nông thôn, ở cả thành thị nhng vùng tâp trung chính là ở vùng bờ biển
phía Tây bán đảo Malắcca nơi có nhiều đồn điền cao su. So với ng ời Hoa
vai trò của ngời ấn không lớn lắm nhng họ lại hoà nhập với c dân bản địa
nhanh hơn, có lẽ do một phần ngời Hồi giáo trong c dân ngời ấn Độ đồng
hoá với ngời Melayu. Ngời ấn có đại diện trong mọi từng lớp ngời
16


Malaixia, trong giai cấp vô sản công nghiệp và vô sản nông nghiệp. Những
ngời di c từ Nam ấn đến phía Tây Malaixia sống chủ yếu ở khu vực Kuala
Lumpur ,Malắcca,Penang và Kedah, ngời ấn độ hầu nh không có mặt ở Bắc
Kalimantan. Ngời ấn Độ do số lợng hạn chế và điều kiện kinh tế nh ngời
bản địa nên không gây ra những vấn đề quá cách biệt về mức sống.
ở Malaixia ngoài những nhóm dân tộc chính này thì còn có nhiều
nhóm ngời khác nh ngời Thái, ngời Arập, Apganistan, ngời Bồ Đào Nha,
ngời Anh, ngời Nhật. Có khoảng gần 30.000 ngời Thái sinh sống ở khu vực
giáp Thái Lan. Ngời Arập, ngời Apganistan, ngời Bồ Đào Nha sống ở các
thành phố biển của Malắcca. Một nhóm c dân nhỏ ngời Nhật khoảng trên
1.000 ngời c trú ở Kula Lumpur. Những ngời Anh c trú ở các thành phố và

các khu vực có đồn điền. Ngôn ngữ thân thuộc của họ là tiếng Anh, tiếng
mẹ đẻ. Nói chung, ngời châu Âu tập trung ở các khu công nghiệp phát
triển.
Về phân bố dân c: Nhìn chung phân bố dân c ở Malaixia không đồng
đều. Trên 82% dân c tập trung ở Tây Malaixia, trong khi diện tích ở đây chỉ
chiếm cha đầy 40% diện tích của cả nớc. Trên bán đảo thì ngoài thủ đô
Kula Lumpur với mật độ dân c trên 4.000 ngời/km2 , các bang còn lại ở
phía Tây có mật độ bình quân từ 100-350 ngời/km2, trong khi các bang ở
phía Đông chỉ từ 22-29 ngời/km2. Thậm chí ngay trong bang Johor cũng có
sự khác biệt lớn giữa bờ biển phía Đông và phía Tây: Mật độ dân c ở phía
Đông còn kém hơn cả Kelantan và Trengganu, chỉ cao hơn Pahang một chút
ít và chỉ bằng 22% mật độ dân số phía Tây của Johor. Còn hai bang Sabah
và Sarawak ở Malaixia hải đảo chỉ dới 20 ngời/km2. Sự phân bố dân c
không đồng đều này là kết quả của sự khác biệt về điều kiện tự nhiên cũng
nh quá trình phát triển lịch sử của đất nớc, đặc biệt là trong thời kỳ thuộc
địa, khi đế quốc Anh tập trung khai thác các nguồn tài nguyên giàu có ở bờ
biển phía Tây bán đảo.

17


1.4.3. Về tín ngỡng tôn giáo
Là một đất nớc đa dân tộc, là vùng đất của nhiều nền văn hoá, lại nằm
ở vị trí giao lu của đờng trao đổi kinh tế, văn hoá nên Malaixia là một đất nớc rất đa dạng về mặt tôn giáo Một đặc trng tôn giáo ở Malaixia là tất cả
các tôn giáo lớn nh Hồi giáo, ấn Độ giáo, Phật giáo hay Cơ đốc giáo đều đợc thiết lập trên nền tảng của các tín ngỡng và tập tục truyền thống địa phơng, đặc biệt là tín ngỡng vật linh và tục thờ cúng tổ tiên [15; 194]. Tín
ngỡng vật linh là tôn giáo nguyên thuỷ và cổ xa nhất. Đối tợng thờ phụng ở
đây là giới tự nhiên nh cây cối, động vật, các hiện tợng tự nhiên nh thời tiết,
tất cả những gì nhuốm vẻ thần bí khiến cho những ngời mê tín phải tôn
sùng.
Tín ngỡng dân gian ở Malaixia đợc xem nh là một phần không thể tách

rời trong đời sống tinh thần của ngời dân Malaixia. Trớc khi chịu ảnh hởng
của nền văn minh ấn Độ, ngời Malaixia đã có một bản sắc văn hoá riêng,
đồng thời tiếp thu nhiều yếu tố tín ngỡng truyền thống của Inđônêxia, đó là
những tôn giáo cổ truyền. Những tôn giáo cổ truyền này đẫ hoà quyện với
những khái niệm thần linh của ngời Melayu, đó là khái niệm về linh hồn
(Semangat). Ngời Melayu cho rằng thế giới bao quanh ta là thế giới của
thần linh, của các linh hồn. Mỗi ngời mỗi vật đều là nơi trú ngụ của các
linh hồn đó. Nếu mất linh hồn thì ngời có thể ốm và vật thì có thể bị h hại.
Lúc đó thì chỉ có những thầy phù thuỷ mới có thể tìm kiếm đ ợc linh hồn trả
lại cho ngời và vật. Khái niệm này ngày nay vẫn còn in đậm trong tiềm thức
của ngời nông dân và ng dân Malaixia. Tín ngỡng vật linh còn khá phổ
biến ở Liên bang Malaixia cho đến tận ngày nay. Bên cạnh tín ngỡng vật
linh, tục thờ cúng thần thành hoàng và thờ cúng tổ tiên, Sha-man giáo ngày
nay vẫn là một phần quan trọng trong hệ thống chữa bệnh và tín ng ỡng siêu
nhiên của các bộ lạc trên bán đảo Malaixia, những thầy phù thuỷ (Sha-man)
vẫn có ảnh hởng rất lớn ở nông thôn. ở các làng, xã của ngời Malayu vẫn
còn hiện tợng thầy Sha-man lên đồng để chữa bệnh hoặc đoán tìm của cải
18


bị mất, thậm chí đối với những ngời đã chịu ảnh hởng của nớc ngoài nhng
những dấu vết của Sha-man giáo vẫn còn khá rõ. Điều đáng lu ý là trong tín
ngỡng về thần linh (Semangat) hay Sha-man giáo ngời ta thấy có nhiều yếu
tố pha tạp của ấn Độ giáo và Hồi giáo.
ấn Độ giáo du nhập vào Malaixia từ rất sớm. Từ xa xa c dân sống trên
bán đảo Malaixia đã chịu ảnh hởng của nền văn minh ấn Độ. Trong thời
gian đó các tôn giáo có nguồn gốc ấn Độ đã thâm nhập và phát triển ở khu
vực này, trong đó có ấn Độ giáo. Cho đến nay nhiều yếu tố văn hoá cổ và
trung cổ ấn Độ vẫn còn tồn tại và dung hoà trong nền văn hóa của ng ời
Melayu bản địa. Song, ấn Độ giáo bị tan rã và những yếu tố văn hoá mới

của thế giới Hồi giáo ả rập đến thay thế. Hiện nay ấn Độ giáo chỉ phát
triển trong khu vực c dân có nguồn gốc ấn Độ đến làm ăn sinh sống ở
Malaixia từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Theo ớc tính thì có khoảng
9,4% dân số của toàn Liên bang theo ấn Độ giáo. Phần lớn trong số họ
sống ở bán đảo Malắcca. Dù ấn Độ giáo hiện nay không còn thịnh hành ở
Malaixia nữa, song nó đã có ảnh hởng sâu sắc đến các tập tục, lễ nghi
truyền thống của Malaixia. Những yếu tố của ấn Độ giáo đã hoà nhập vào
tín ngỡng dân gian, đặc biệt là tín ngỡng về thần linh của Malaixia.
Đạo Sik đợc du nhập vào Malaixia từ Nam á. Tín đồ đạo Sik ở
Malaixia chỉ có khoảng 20.000-25.000 ngời. Tuy với số lợng ít ỏi nhng
những ngời theo đạo Sik vẫn có những đền thờ và cộng đồng tôn giáo riêng.
Đạo Sik Malaixia cũng bao gồm các môn phái khác nhau, đặc biệt là môn
phái Nandhari. Đạo Sik không có ảnh hởng đáng kể trong xã hội Malaixia
cả về mặt tôn giáo, chính trị lẫn văn hoá.
Đạo Phật từ xa xa đã phát triển ở miền tây Malaixia thuộc phái đại
thừa. Srivijaya (thế kỷ VII-VIII) là một quốc gia Phật giáo. Hình ảnh của
Phật giáo ở Malaixia là những ngôi chùa cổ kính, những tợng đài nghệ
thuật Phật giáo... Ngời Melayu hiện nay không theo đạo Phật, tín đồ Phật
giáo ở Malaixia là những c dân từ nơi khác đến làm ăn sinh sống ở đây đó
19


là ngời Hoa, ngời Xiêm (Khon-thai), ngời Nhật và ngời ấn Độ. Tổng số tín
đồ Phật giáo ở Liên bang Malaixia chỉ chiếm khoảng 20% dân số của Liên
bang. Phật giáo phát triển mạnh trong số những c dân sinh sống ở dọc theo
bờ biển phía Tây của bán đảo Malắcca. Những tín đồ Phật giáo ngời Hoa,
ngời Nhật theo giáo phái Đại thừa, ngời Thái theo Phật giáo Tiểu thừa.
Ngoài ra, còn có một số ngời ấn theo Phật giáo nhng không nhiều. Trên
lãnh thổ của bán đảo này hiện nay còn có nhiều đền đài và các công trình
kiến trúc Phật giáo có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao.

ở Malaixia, Khổng giáo và Đạo giáo đợc một bộ phận ngời Hoa duy
trì và truyền bá. Hiện nay Khổng giáo ở Malaixia có sự pha trộn với Phật
giáo, Đạo giáo và tín ngỡng thờ cúng tổ tiên. Những thuyết giáo của đạo
Khổng dần dần bị lu mờ, nhất là đối với lớp trẻ. Vì vậy, phạm vi hoạt động
của Khổng giáo ngày càng bị thu hẹp lại. Đạo giáo chỉ gây đ ợc ảnh hởng
trong một nhóm ngời Hoa. ở Malaixia số ngời theo Đạo giáo chính thống
rất ít, đa số họ theo một tôn giáo kết hợp giữa Đạo giáo , Phật giáo và
Khổng giáo. Và ở đây cũng có những đền thờ của Đạo giáo cùng với những
tu sĩ trông nom và thực hiện các nghi thức cúng lễ.
Đạo Cơ đốc xuất hiện ở Malaixia vào thế kỷ XVI cùng với sự hiện
diện của thực dân Bồ Đào Nha. Và nó thực sự phát triển khi khu vực Đông
Nam á này rơi vào tay thực dân Anh vào nửa sau thế kỷ XIX. Song hầu hết
ngời Melayu đã cải theo Hồi giáo trớc đó nên Cơ đốc giáo chỉ dành đợc vị
trí của mình trong một bộ phận ngời nhập c và ngời Dayak bản địa. Hiện
nay tín đồ Cơ đốc giáo ở Malaixia chiếm chừng 5% dân số cả n ớc, trong đó
3/5 tín đồ sống ở miền Tây và 2/5 ở miền Đông. Trong số các bang của
Malaixia thì bang Sabah có tỉ lệ ngời theo đạo Cơ đốc cao hơn cả, họ chiếm
tới 16% c dân của bang này. Tín đồ Cơ đốc giáo trên bán đảo Malắcca sống
tập trung chủ yếu dọc bờ biển, các khu vực khai thác dầu, khai thác đồn
điền ... Ngời ta ớc tính có khoảng 60 ngàn ngời ấn độ theo Cơ đốc giáo ở
Malaixia và ngời Hoa cũng có vài chục ngàn ngời. Từ thế kỷ XV, Hồi giáo
20


du nhập và chiếm địa vị bá chủ ở Malaixia. Cho đến nay gần nh toàn bộ ngời Melayu theo Hồi giáo, chiếm khoảng 50% dân số cả nớc. Hồi giáo đợc
tuyên bố là quốc giáo. Trong số 13 bang của Malaixia thì có 9 bang Hồi
giáo, đứng đầu là các Hồi vơng theo chế độ cha truyền con nối. Hồi giáo đã
có ảnh hởng rất lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế , chính trị xã hội
Malaixia.


21


Chơng 2:
Hồi giáo và chủ nghĩa dân tộc ở Malaixia
2.1. Hồi giáo ở Malaixia
2.1.1. Sự du nhập của Hồi giáo vào Malaixia
2.1.1.1. Một số giả thiết về quá trình du nhập Hồi giáo vào Malaixia
Với những cuộc thánh chiến của mình, đến thế kỷ X, Hồi giáo đã
chinh phục đợc một khu vực rộng lớn trên thế giới, từ vùng Caucase và Uran thuộc Liên Xô cũ đến phần lục địa châu Phi, từ Tây Ban Nha tới miền
Bắc và Tây bắc ấn Độ. Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới nhng Hồi giáo
đến Đông Nam á tơng đối muộn, vào lúc mà lỡi gơm tàn bạo của Hồi
giáo không còn thoả sức hoành hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn
giáo cho các c dân vùng đất bị đế quốc Hồi giáo Arập chiếm đóng nữa. Khi
tới Đông Nam á, Hồi giáo lại đi theo con dờng hoà bình. Hồi giáo từ ấn
Độ hay từ Arập tới Đông Nam á? Đây là một câu hỏi lớn mà rất nhiều học
giả phơng Tây cũng nh các học giả trong khu vực đang ra sức chứng minh.
Từ năm 1883 trở về trớc, đa số các học giả phơng Tây đều cho rằng
Hồi giáo đến Đông Nam á từ các nớc Arập, một số cho là từ Arập thông
qua các thơng gia Arập và các thơng gia Hồi giáo ấn Độ trong thời gian từ
thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, đặc biệt là vào cuối thế kỷ XIII. Trong quá trình
Hồi giáo du nhập thì các thành phố ven biển nh Pasai, Malắcca và Aleh
đóng vai trò quan trọng, vì chúng là những trung tâm Hồi giáo lớn đầu tiên
ở khu vực. A.I. Ionova, một nhà phơng Đông học nổi tiếng ngời Nga cho
biết từ thế kỷ VII -VIII đã có các khu dân c buôn bán ngời Arập ở khu vực
Đông Nam á hải đảo [16; 164]. Một học giả phơng Tây khác là Sijnappen
đã quy việc truyền bá đạo Hồi ở quần đảo Inđônêxia cho các thơng gia Hồi
giáo Arập thuộc trờng phái Chafite, song những thơng gia này đã không đi
thẳng từ các nớc Arập đến Đông Nam á mà lại xuất phát từ Gujerat và


22


Malabar thuộc miền tây ấn Độ, nơi họ đã dừng lại làm ăn buôn bán từ lâu trớc
khi đến những miền đất mới.
Năm 1883, trong bài diễn văn đọc tại triễn lãm thuộc địa ở Anterđam,
Snouck Hurgronje khẳng định rằng Hồi giáo ở Inđônêxia có nguồn gốc
Nam ấn Độ. Thế là từ đấy, các ý kiến cho rằng Hồi giáo do ngời Arập đa
tới khu vực đã bị loại bỏ. Tuy nhiên, Snouck Hurgronje đã không chỉ ra đ ợc
miền nào của Nam ấn Độ là nơi xuất phát của Hồi giáo Inđônêsia.
Trong khi đó một số bia mộ Hồi giáo tìm đợc ở quần đảo MalayaInđônêxia nh quần thể bia mộ của Malik Ibrahim ở Gresik có niên đại
1419, bia mộ của Malik al-Salih, ngời đợc thừa nhận là ông vua Hồi giáo
đầu tiên của tiểu quốc Pasai có niên đại 1297... đợc xác định là những tấm
bia đúc sẵn nhập từ ấn Độ tới, cũng góp phần khẳng định những giả thiết về
nguồn gốc ấn Độ của Hồi giáo ở Malaixia, Inđônêxia và một số miền khác
ở Đông Nam á.
Trong khi các học giả phơng Tây đã dần nghiêng về ý kiến cho rằng
các thơng gia ấn Độ và Ba T là những ngời đầu tiên đa Hồi giáo đến Đông
Nam á hải đảo, thì các học giả nghiên cứu Hồi giáo trong khu vực lại đ a ra
những bằng chứng và lập luận để khẳng định rằng chính ngời Arập chứ
không phải ai khác đã đa tôn giáo này đến cho họ. M.S. Naguib

Al-

Attalas cảnh cáo các học giả phơng Tây chỉ xem xét những vấn đề du nhập
của Hồi giáo vào Đông Nam á theo định kiến chủ quan của mình trên cơ sở
các bằng chứng bên ngoài, nh việc Moquette phát hiện về nguồn gốc ấn
Độ của các bia mộ nh đã nói trên. Ông cho rằng điều đó không đủ để chứng
minh cho nguồn gốc ấn Độ của Hồi giáo ở khu vực hải đảo. Vì có thể
những ngời Hồi giáo ở Inđônêsia đã đặt mua những tấm bia đúc sẵn đó của

ấn Độ. Theo ông muốn tìm hiểu nguồn gốc Hồi giáo ở vùng Đông Nam á
hải đảo phải tìm cái cốt lõi bên trong của Hồi giáo ở vùng Đông Nam á hải
đảo, tức là dựa vào ngôn ngữ, chữ viết và văn học của ngời Hồi giáo ở đây
để nghiên cứu Ngôn ngữ (tiếng Mã Lai và tiếng Inđônêxia), chữ viết (chữ
23


Jani) và văn học Mã Lai đã in đậm dấu ấn của ngôn ngữ, chữ viết và văn
học Hồi giáo Arập chứ không phải dấu ấn của Hồi giáo ấn Độ. Ông chỉ ra
rằng chữ viết Jawi đã đợc sử dụng ở bán đảo Malay trớc khi ngời phơng Tây
tới, tên gọi các ngày trong tuần theo cách gọi của ngời Arập, cách đọc kinh
Coran chuẩn bằng tiếng Arập và nhiều yếu tố quan trọng khác mang đặc
tính Arập chứ không phải ấn Độ. Những tác phẩm văn học quan trọng
khác mang dấu ấn Hồi giáo ở đây là sự đóng góp của dân tộc và là thành
tựu sáng tạo của Hồi giáo Arập. Ngời Arập là những ngời đầu tiên đa Hồi
giáo tới, sau đó đến ngời Malay, ngời Java và các dân tộc khác tiếp tục sự
nghiệp truyền bá Hồi giáo ở Đông Nam á hải đảo [ 16; 167].
Nh vậy, Hồi giáo là một vấn đề lớn ở Đông Nam á mà rất nhiều học
giả đang nghiên cứu và chứng minh nguồn gốc của nó. Hồi giáo đến Đông
Nam á từ Arập, từ ấn Độ hay từ các vùng phụ cận nào khác thì chúng ta
cũng có thể xác định đợc thời gian mà Hồi giáo du nhập vào khu vực này là
vào thế kỷ XIII-XIV, một số khu vực trên đất Inđônêsia ngày nay đã theo
Hồi giáo, mà tiêu biểu là Pansai. Malaixia đợc cải giáo muộn hơn, khoảng
thế kỷ XV, trong đó tiểu quốc Melaka đóng vai trò chủ đạo trong quá trình
Hồi giáo hoá miền đất này.
2.1.1.2. Các tiền đề cho sự du nhập Hồi giáo vào Malaixia
Đến thế kỷ XV, Hồi giáo đã thực sự xâm nhập vào tiểu quốc Melaka.
Cũng từ đó Hồi giáo nhanh chóng phát triển sang các tiểu quốc bên cạnh và
chiếm đợc vị thế quan trọng trong đời sống chính trị, văn hoá xã hội của c
dân địa phơng, bởi vì quá trình Hồi giáo hoá ở đây gặp rất nhiều thuận lợi.

Vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV đồng thời với việc Hồi giáo đến
Malaixia thì vơng quốc ấn Độ-Phật giáo Majapahit hùng mạnh xa kia ở hải
đảo đang bị suy thoái và tan rã. Các tiểu quốc thuộc đế quốc này lầng l ợt
tách khỏi chính quyền trung ơng, giành độc lập về kinh tế và chính trị, kéo
theo sự sụp đổ của hệ thống t tởng và tôn giáo cũ. Lúc này các lãnh thổ của
Majapahit trớc kia đang rơi vào dòng xoáy của cơn lốc buôn bán h ơng liệu
24


quốc tế. Hệ thống đẳng cấp của ấn Độ giáo đã trở nên lỗi thời, không đáp
ứng đợc nhu cầu phát triển thơng mại. Do đó, Hồi giáo có cơ hội truyền bá
những học thuyết về bình đẳng, tự do và bác ái của mình. Hồi giáo không
những giải phóng cho các c dân bản địa khỏi sự ràng buộc của các quan
niệm về đẳng cấp của ấn Độ giáo, mà còn đa họ đến một cộng đồng Hồi
giáo rộng lớn hơn, nơi mọi tín đồ đều bình đẳng tr ớc thánh Ala. Điều này
đáp ứng đợc nhu cầu về đời sống tính thần của các c dân địa phơng. Mặt
khác, các Hồi vơng Malắcca thấy rõ Hồi giáo là vũ khí chính trị sắc bén
giúp tạo dựng một cộng đồng Hồi giáo lớn để thực hiện ý đồ bành tr ớng
lãnh thổ và truyền bá truyền thống văn hoá của mình. Họ tuyên bố sẵn sàng
giúp các tiểu quốc khác giành độc lập với điều kiện quy theo Hồi giáo.
Trong khi đó tớc hiệu quốc vơng Hồi giáo là sự thành công của Malắcca với
sự giàu có của nó đã cuốn hút giới quý tộc thuộc các tiểu quốc khác cải
giáo, tạo cơ hội cho Hồi giáo phát triển mạnh mẽ [ 16; 181].
ở khu vực Đông Nam á khi đó đang diễn ra qúa trình chuyển hớng
kinh tế. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp, các tiểu quốc đã trở thành nơi
cung cấp hàng hoá quan trọng, nhất là đồ gia vị cho châu Âu qua các th ơng
gia Arập , Ba T, ấn Độ và Trung Hoa. Vì vậy, giới quý tộc ở đây những kẻ
từ lâu thèm khát sự giàu có của châu Âu đã sẵn sàng mở cửa cho các thơng
nhân vào phát triển buôn bán và truyền giáo. Trong khi đó, cái nguyên tắc
bình đẳng, tính phóng khoáng trong các lễ nghi của Hồi giáo, vốn rất phù

hợp với thơng nhân, liền đợc giai cấp quý tộc Inđônêxia và Malaixia hào
hứng tiếp đón. Mặt khác, Hồi giáo đến Đông Nam á bằng con đờng buôn
bán hoà bình, chứ không thông qua các giáo đoàn hay các cuộc thánh
chiến nh khi nó bành trớng trên bán đảo Arập. Thông qua các cuộc tiếp
xúc cá nhân, con đờng giao thơng kinh tế và các cuộc hôn phối với các gia
đình phong kiến quý tộc, các thơng nhân Hồi giáo đã dần dần cải giáo đợc
giới thợng lu ở khu vực này. Dần dà Hồi giáo cũng thấm đợc vào đời sống
của các c dân nơi đây.
25


×