Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá 
các luồng tài chính đã làm thay đổi căn bản hệ thống ngân hàng, hoạt động 
kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp. Thực tế đó đòi hỏi hệ thống các 
ngân hàng thương mại (NHTM) phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng 
cao năng lực quản trị rủi ro. Rủi ro là một điều rất phổ biến và gần như mang 
tính tất yếu đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh 
tế, xã hội của con người. Vì vậy, chấp nhận và đối đầu với rủi ro là một điều 
bình thường , không tránh khỏi, nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có 
hay không có rủi ro, mà ở chỗ phải phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức 
chấp nhận được. Kinh doanh tiền tệ của các NHTM càng không phải là một 
ngoại lệ, càng khó tránh được rủi ro. 
Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các NHTM đã cho thấy, rủi ro đối 
với NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường gồm nhiều loại như rủi ro tín 
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái... trong đó rủi ro tín 
dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì thế, quản lý và đánh giá rủi ro vỡ nợ được 
đặt ra như một vấn đề trọng tâm trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, 
các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư. Việc ước lượng chính xác rủi ro vỡ 
nợ của khách hàng vay hoặc danh mục đầu tư có ý nghĩa rất lớn đối với các 
nhà đầu tư, mỗi tổ chức ngân hàng và hệ thống tài chính .Vì vậy chấm điểm 
tín dụng và xếp hạng khách hàng có vai trò hết sức quan trọng nó hỗ trợ 
trong việc: ra quyết định cấp tín dụng , xác định hạn mức tín dụng của một 
khách hàng, số tiền cho vay/bảo lãnh, thời hạn, mức lãi suất/phí, biện pháp 
bảo đảm cho khoản tín dụng.
Trong quá trình học tập tại trường kết hợp với thời gian thực tập tại ngân 
hàng Techcombank chi nhánh Hoàng Quốc Việt và sự định hướng của thầy 
1
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Trần Trọng Nguyên , em xin được đưa ra đề tài : “MỘT SỐ MÔ HÌNH 
ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM ÁP DỤNG CHO KHACH HÀNG ”.
Ngoài Lời mở đầu, Phần Kết luận, Phần phụ lục và Danh mục tài liệu 
tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết về định mức tín nhiệm – Trình bày khái quát 
về khái niệm, mục đích vai trò, nguyên tắc và tổng quan về phương pháp 
định mức tín nhiệm.
Chương 2: Định mức tín nhiệm tại Techcombank – Giới thiệu 
phương pháp định mức tín nhiệm tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt 
Nam chi nhánh Hoàng Quốc Việt.
Chương 3: Áp dụng Một số mô hình cho định mức tín nhiệm 
khách hàng .
Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Ngân hàng cùng tập thể cán 
bộ, nhân viên toàn Ngân hàng và đặc biệt cám ơn các cán bộ, chuyên viên 
phòng kinh doanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, 
để em có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng.
Em xin vô cùng biết ơn thầy Trần Trọng Nguyên - khoa Toán Kinh 
Tế đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định 
hướng nghiên cứu, sửa chữa và hoàn thiện đề tài . Em cũng xin cảm ơn sâu 
sắc tới PGS.TS Nguyễn Quang Dong, PGS.TS Hoàng Đình Tuấn, PGS.TS 
Nguyễn Khắc Minh, Th.S Trần Chung Thủy, cùng các thầy cô trong khoa 
Toán Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ bảo em trong quá trình học tập tại trường.
2
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
 LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM CÔNG TY
I. Hoạt động Ngân hàng và Định mức tín nhiệm công ty
1. . Hoạt động Ngân hàng và yêu cầu khách quan về Định mức tín 
nhiệm khách hàng
1.1 Hoạt động Ngân hàng
Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh 
tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn 
có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân 
hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực 
hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân 
hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của 
ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài 
chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới 
chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng 
cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với 
các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở 
rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới 
chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực 
hiện nhiều dịch vụ mới khác.
3
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay: 
 Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng:
Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ 
ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng 
đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, 
chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan 
trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi 
có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị 
trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng 
lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, 
đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các 
ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các 
4
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của 
khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết 
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn 
để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân 
hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong 
những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm 
của khách hàng – một quỹ sinhlợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời 
gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất 
tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các 
ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết 
kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi 
suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu 
thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho 
bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát 
cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu 
hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, 
nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo 
quản” của ngân hàng thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào 
những năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với 
khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính 
phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với 
5
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên 
tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Các ngân hàng đã cam kết 
cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North 
America được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này được 
thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa 
Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền. Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, 
Quốc hội đã lập ra một hệ thống ngân hàng liên bang mới, chấp nhận các 
ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang miễn là các ngân hàng này phải lập Quỹ 
phục vụ chiến tranh.
Cung cấp các tìa khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu 
và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng 
mới. Một dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là 
tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho 
phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. 
Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong những 
bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện 
đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh 
trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện 
việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh 
nghiệp thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài 
sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch 
vụ ủy thác (trust service). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: 
dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương 
mại cho các doanh nghiệp.
6
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
 Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho 
vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu 
dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó 
làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng 
bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món 
vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền 
gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là 
một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, 
nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập 
những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, 
tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức 
tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã 
chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong 
khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp 
tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn 
thu quan trọng nhất.
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực 
hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng 
ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về 
thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị 
trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số 
dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. 
7
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó 
ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến 
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi 
và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. 
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ 
quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về 
việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh 
hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập 
đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với 
hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt 
của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di 
chuyển vốn trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho 
khoản vay tức thời.
Dịc vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh 
doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp 
đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. 
Ban đầu các qui định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị 
phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng 
thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu 
cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi 
hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như 
khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, 
ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong 
việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành 
8
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên 
chúng thường được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công 
sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của 
công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để 
chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư này là 
Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc
Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo 
hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường 
hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở 
Mỹ cấm ngân hàng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều 
ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông 
thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong 
tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua 
các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một 
công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân 
hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số 
bang như Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các 
dịch vụ bảo hiểm được quy định trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động 
trên toàn quốc nếu được phép sẽ có thể cung cấp các dịchvụ về bảo hiểm 
thông qua các chi nhánh riêng biệt, những quy mô đầu tư của nó chỉ được 
giới hạn ở mực 10% tổng số vốn chủ sở hữu. Gần đây, Citicorp đã thông 
báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers tromg một số nỗ lực 
nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài 
chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa 
9
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng 
thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính 
khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung 
cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán 
khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài 
trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví 
dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên 
doanh với một công ty môi giới.
1.2 Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng  
Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể được chia làm 2 nhóm 
chính: 
- Nhóm thuộc về cơ chế, chính sách và bản thân ngân hàng: Thiếu chính 
sách cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, việc cấp tín dụng quá tập trung, 
thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa học. 
- Nhóm thuộc về con người trong đó có cán bộ NHTM và người đi vay. 
Các yếu tố thuộc hai nhóm trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan 
hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt động của NHTM giảm 
thiểu được rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng ngân hàng. Nhưng 
chúng cũng có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá sản 
của một hoặc một số NHTM. Chẳng hạn sự yếu kém, thiếu đồng bộ, thiếu 
nhất quán trong cơ chế, chính sách cho vay, dẫn tới tình trạng cán bộ quản lý 
của NHTM, hoặc người đi vay lợi dụng, đặc biệt nguy hại khi cán bộ nắm 
quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của NHTM bị sa sút phẩm chất đạo đức 
nghề nghiệp. 
10
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Trên thực tế, việc quản lý rủi ro tín dụng được các ngân hàng đặc biệt chú 
trọng và được đề cập rất nhiều bằng việc đưa ra các mô hình nghiên cứu và 
quản trị rủi ro tín dụng. Khía cạnh rủi ro đạo đức tuy đã được nghiên cứu 
nhưng rất khó đo lường vì tính chất định tính và việc quản lý là rất khó khăn 
do liên quan đến yếu tố con người. Bài viết này xin được làm sáng tỏ khía 
cạnh trên đây. 
1.2.1 Rủi ro xuất phát từ phía nhà quản lý ngân hàng 
 Về chủ quan: Khi nói đến rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng ngân 
hàng, chúng ta thường đề cập đến rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng mà ít 
nói đến rủi ro đạo đức của người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng chức 
năng, nhiệm vụ thì phòng ngừa được sự phát sinh của loại rủi ro này. Nhưng 
trên thực tế, vì lợi ích cá nhân hay một nhóm tập thể cán bộ quản lý trong 
công tác điều hành đã vô tình hoặc cố ý tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro 
này phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản lý 
đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn 
có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ tín 
dụng, thẩm định ghi rõ nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt 
cho vay. Thông thường thì những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, 
nhưng vì một lý do tế nhị nào đó, nhà quản lý hay nhóm cán bộ quản lý đã 
bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, 
thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, thẩm định phải thực hiện theo ý kiến 
chỉ đạo (trên thực tế thì rất ít cán bộ tín dụng có thể tự bảo vệ quan điểm ban 
đầu của mình). 
Đặc biệt, trong cơ chế tín dụng hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã có 
nhiều chính sách thông thoáng hơn như quy định mức vốn tự có tham gia dự 
án, phương án, tài sản bảo đảm... đã tạo điều kiện cho các đối tượng khách 
11
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
hàng tiếp cận tốt hơn nguồn vốn tín dụng và từ đó thực hiện kinh doanh có 
hiệu quả. Song, cũng có không ít dự án, phương án không thực hiện được 
hay thực hiện không hiệu quả dẫn đến nợ quá hạn hoặc không có khả năng 
trả nợ. ở khía cạnh này, nguyên nhân rủi ro không phải từ cơ chế hay chính 
sách mà do một số nhà quản lý đã nhân danh cơ chế “thông thoáng” và vận 
dụng cho vay đối với cả những dự án, phương án đã biết rõ hoặc có thể tiên 
lượng được là kém hiệu quả nhằm tư lợi cá nhân. 
 Về khách quan: Rủi ro trong quản trị kinh doanh NHTM như một tất 
yếu là không thể tránh khỏi. Song việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, 
không đánh giá đúng năng lực cũng như phẩm chất tư cách đạo đức nghề 
nghiệp thì sẽ dẫn đến sử dụng những cán bộ thiếu trung thực... Đây cũng là 
nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 
Hiện nay, hàng loạt ngân hàng cổ phần ra đời, cạnh tranh giữa các ngân 
hàng ngày càng gia tăng kéo theo là cạnh tranh nguồn nhân lực. Vấn đề quản 
trị nguồn nhân lực cũng đặt ra một cách bức xúc gay gắt. 
Thứ nhất, đối với các ngân hàng mới thành lập thì việc thu hút cán bộ 
thường là nguồn cán bộ mới ra trường... 
Thứ hai, các ngân hàng thương mại quốc doanh có những cán bộ có năng 
lực thì bị các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh thu hút, việc bổ 
nhiệm các chức danh lãnh đạo tín dụng cũng là một khó khăn, bởi quá trình 
kiểm tra đánh giá bổ nhiệm cán bộ là rất phức tạp, nhạy cảm, vì đây là 
những vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh cũng như phòng ngừa 
rủi ro. 
Thứ ba, hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường, nhất là khi hội nhập 
WTO, không ít nhà lãnh đạo ngân hàng không nắm bắt và tìm hiểu thông tin 
12
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
liên quan đến khoản vay một cách chính xác, thiếu thận trọng trong phân 
tích diễn biến thị trường về mặt hàng khách hàng kinh doanh... 
Rủi ro xuất phát từ phía cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng (cán bộ tín 
dụng, cán bộ thẩm định...) 
Cần nhấn mạnh rằng rủi ro trong hoạt động tín dụng là khó có thể tránh 
khỏi. Dù cán bộ tín dụng, những người liên quan đến công tác thẩm định, 
cho vay đã rất tận tâm nhưng cũng không thể tránh được hoàn toàn rủi ro. Vì 
một nguyên nhân khách quan là không phải khách hàng nào vay vốn ngân 
hàng cũng kinh doanh có hiệu quả. Chúng ta phải thừa nhận rằng ở đâu chú 
trọng đến công tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho 
vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ, 
nợ xấu.
1.2.2 .Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía người vay vốn 
Rủi ro đạo đức trong kinh doanh của các NHTM không phải chỉ do 
cán bộ quản lý, cán bộ nhân viên tín dụng của ngân hàng mà còn do một số 
đối tượng là những người vay vốn. Có thể thấy rõ rủi ro tín dụng xuất phát 
từ phía người vay vốn chia làm hai loại đối tượng: (1) không thực hiện nghĩa 
vụ theo cam kết; (2) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. 
Cũng không ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của mình đã giả tạo 
hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo nhằm vay vốn ngân hàng. Điều đó đòi hỏi 
NHTM nói chung, cán bộ tín dụng, thẩm định nói riêng phải làm tốt, chính 
xác việc phân loại đối tượng vay vốn, từ đó có các biện pháp kiểm tra, đôn 
đốc, giúp đỡ, hướng dẫn, phòng ngừa rủi ro tương ứng, hữu hiệu. 
Như vậy rủi ro là một điều rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu 
đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế, xã hội 
13
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
của con người. Vì vậy, chấp nhận và đối đầu với rủi ro là một điều bình 
thường, không tránh khỏi, nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có hay 
không có rủi ro, mà ở chỗ phải phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức chấp 
nhận được . Bởi vậy, để đạt được hiệu quả trong hoạt động cấp tín dụng, 
NHTM phải thực hiện một quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ với những 
bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng thông 
qua hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng . Một hệ thông 
chấm điểm được tiêu chuẩn hóa và tự động hóa sẽ cho phép giảm bớt thời 
gian và chi phí cho vay, do đó tạo điều kiện cho các Ngân hàng mở rộng vốn 
vay và khách hàng trên cơ sở an toàn. Đặc biệt nó còn cho phép giảm nhân 
sự trong các Ngân hàng để tập trung nhiều hơn vào các khoản vay khó, và 
kết quả là chấm điểm tín dụng sẽ giúp cho việc cho vay của các Ngân hàng 
hướng vào các khách hạng có chất lượng. Đó chính là những ưu điểm vượt 
trội của phương pháp định mức tín nhiệm so với những phương pháp thẩm 
định tín dụng trước đây. Vì vậy mà định mức tín nhiệm có mục đích và vai 
trò rất quan trọng đối với ngân hàng.
2. Sơ lược về Định mức tín nhiệm 
2.1. Lịch sử ra đời và phát triển
Bắt đầu từ thập kỷ 70, dự báo rủi ro tài chính đã trở thành một hướng 
phát triển mạnh mẽ của mô hình hóa thống kê xác suất. Khi nhắc tới rủi ro 
tài chính gần như ngay lập tức người ta liên tưởng tới hoạt động quản lý 
danh mục đầu tư, định giá quyền chọn (option) và các công cụ tài chính 
khác. Công thức định giá quyền chọn (option) Black-Scholes, bài viết về 
định giá trái phiếu công ty của Merton, ... là những khái niệm quen thuộc. 
Mặc dù không hề kém quan trọng, đặc biệt trong thực tiễn kinh doanh 
tài chính, các ứng dụng dự báo rủi ro tài chính với các khoản vay thể nhân, 
14
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
tính điểm tín dụng và hành vi, dường như chưa nhậ được sự quan tâm đúng 
mức. Lý thuyết về lĩnh vực này tương đối hạn chế với số lượng ít ỏi công 
trình đánh giá tổng quan như khảo sát các phương pháp định lượng trong 
quản lý tín dụng của Rosenberg và Gleit; các phương pháp phân loại thống 
kê tín dụng thể nhân của Hand và Henley; các công trình của Thomas về mô 
hình quản lý rủi ro tài chính, các phương pháp phân loại tín dụng thể nhân, 
tổng quan về các phương pháp tính điểm tín dụng và hành vi; sách về thống 
kê trong tài chính của Hand và Jacka; sách về tính điểm tín dụng của Lewis; 
sách về tính điểm tín dụng và kiểm soát tín dụng của Thomas, Crook, và 
Edelman, sách mô hình hóa rủi ro tín dụng Mays.
Kể tự khi ra đời, lý thuyết về tính điểm tín dụng ghi nhận hai thànhtựu 
quan trọng: (1) thực sự tồn tại nhu cầu phát triển các kỹ thuật dự báo rủi ro 
của khách hàng tương thích với biến đọng điều kiện kinh tế; và (2) mục đích 
tính điểm chuyển từ việc xác định các khách hàng khả năng vỡ nợ cao sang 
tìm kiếm các khách hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận tốt nhất. Chất xúc tác 
quan trọng cho các phát triển này chính là sự bùng nổ về thông tin của giao 
dịch của khách hàng.
Hai kỹ thuật đánh giá cơ bản hỗ trợ tổ chức tín dụng ra quyết định cấp 
tín dụng cho khách hàng là tính điểm tín dụng và tính điểm hành vi. Để ra 
quyết định cấp tín dụng cho khách hàng giao dịch lần đầu tiên, tổ chức tín 
dụng sử dụng kỹ thuật tính điểm tín dụng. Các quyêtd định đối với khách 
hàng hiện tại (có tăng hạn mức tín dụng không? áp dụng chính sách 
marketing nào? nếu khách hàng không trả nợ đúng hẹn thì xử lý ra sao?) 
được đưa ra dựa trên điểm số về hành vi của khách hàng.
15
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Kỹ thuật tính điểm sử dụng thông tin về khách hàng có được qua hai 
nguồn quan trọng: các thông tin do chính khách hàng cung cấp thông qua 
mẫu đơn đăng ký tín dụng và thông tin có được qua nguồn tham khảo trung 
gian. Ngoài ra, quá trình ra quyết định còn có thể sử dụng nguồn số liệu thu 
thập được về khách hàng trong quá khứ. Các tổ chức tín dụng thường lưu trữ 
thông tin của hàng triệu khách hàng đã đăng ký và sử dụng dịch vụ của 
mình. Vấn đề với nguồn dữ liệu này là tổ chức tín dụng chỉ nắm được các 
thông số về các khách hàng bị từ chối cung cấp dịch vụ cho nhóm này. Điểm 
này gây ra sai lệch khá nghiêm trọng trong mẫu nghiên cứu. Cảm nhận 
thông thường rất dễ đi đến định kiến rằng những người bị từ chối cung cấp 
dịch vu là những người có mức tín nhiệm xấu. Hand và Henley đã kết luận 
rằng không thể giải quyết triệt để được vấn đề này trừ phi có thể xác định 
được mối quan hệ cụ thể giữa phân bố của các nhóm khách hàng tốt và xấu 
trong cả hai tập hợp khách hàng được chấp nhận và bị từ chối. Vấn đề này 
có thể được giải quyết bằng việc chấp nhận cung cấp dịch vụ cho khách 
hàng trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, đặc tính của ngành tín dụng 
không cho phép các ngân hàng làm như vậy.
2.2 Mục đích của định mức tín nhiệm 
Mục đích của ĐMTN là đưa ra những nhận xét nhằm hỗ trợ các tổ chức 
tín dụng trong việc ra quyết định cấp tín dụng, giám sát và đánh giá khách 
hàng, kiểm soát rủi ro hiệu quả hơn... 
- Ra quyết định cấp tín dụng: Cho vay hay không cho vay, xác định 
hạn mức tín dụng của một khách hàng, số tiền cho vay/bảo lãnh, thời hạn, 
mức lãi suất/phí, biện pháp bảo đảm cho khoản tín dụng,
- Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang 
còn dư nợ, giúp Ngân hàng ngăn ngừa được rủi ro tín dụng có thể xảy ra, 
16
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
trên cơ sở đó, thực hiện trích lập dự phòng rủi ro được chính xác khi khách 
hàng không hoàn trả nợ đúng hạn.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, hệ thống ĐMTN 
còn nhằm mục đích:
- Phát triển chiến lược Marketing nhằm hướng tới khách hàng có ít rủi 
ro hơn,
- Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập 
dự phòng rủi ro tín dụng.
- Giúp các nhà kinh doanh trong việc ra quyết định đầu tư .
II. Các phương pháp Định mức tín nhiệm công ty trên thế giới hiện nay
1. Phương pháp truyền thống
Đa số các tổ chức đánh giá tín nhiệm sử dụng phương pháp truyền 
thống . Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là dự đoán khả năng vỡ nợ 
và dự đoán giá trị hợp đồng tại những thời điểm có khả năng vỡ nợ bằng 
việc phân tích các yếu tố đặc trưng. Nói chung về nguyên tắc phương pháp 
của các công ty là tương đối giống nhau như một số mô hình sau:
Standard& Poors: Chia lĩnh vực phân tích thành kiểu loại theo rủi ro 
kinh doanh (bao gồm: đặc tính ngành, vị thế cạnh tranh, quản lý) và rủi ro tài 
chính (bao gồm: tình hình, chính sách tài chính, lợi nhuận, cấu trúc vốn, 
dòng tiền mặt, sự linh hoạt tài chính).
Moody: Đánh giá khả năng trả nợ của riêng công ty theo một số yếu 
tố chính như: Khuynh hướng của ngành và của quốc gia; Chất lượng quản lý 
và thái độ của nhà quản lý với rủi ro; Các hoạt động kinh doanh chủ yếu và 
vị thế cạnh tranh; Tình hình tài chính và các nguồn tiền mặt; Cơ cấu của 
công ty ; Các cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ ; Các biến cố đặc biệt.
Một số mô hình khác: Phân tích ngành, phân tích tài chính và phân 
tích những yếu tố phi tài chính như quản lý, ảnh hưởng từ nước ngoài và các 
17
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
ràng buộc khác.
2. Phương pháp xây dựng thang điểm 
Sử dụng bảng cho điểm, chia các yếu tố phân tích thành nhiều hạng mục 
khác nhau, cung cấp một thang điểm cho tất cả các chỉ tiêu khi đánh giá một 
đối tượng nhất định và được trình bày dưới hình thức các biểu tượng đơn giản 
để các nhà đầu tư dễ hiểu và dễ nhận rõ. Chẳng hạn như các trái phiếu thường 
sắp hạng từ AAA ( là những trái phiếu có rủi ro thanh toán thấp nhất) cho tới D 
( là những trái phiếu đang có rủi ro về thanh toán), phụ thuộc vào khả năng của 
nhà phát hành về việc thanh toán nợ và lãi có đúng hạn hay không.
Tổ chức định mức tín nhiệm đưa ra các biểu tượng định mức để phân 
biệt mức độ tín nhiệm đối với từng hạng và có đối chiếu, so sánh với các 
hạng mục của các Tổ chức định mức tín nhiệm khác. Hệ thống bảng Định 
mức tín nhiệm tiêu biểu nhất hiện nay là hệ thống ký hiệu của hai công ty 
Định mức tín nhiệm hàng đầu thế giới Moody’s và S&P, được xây dựng trên 
khung ký hiệu do John Moody đề nghị và trở thành tiêu chuẩn để xây dựng 
hệ thống ký hiệu định mức tín nhiệm của hầu hết các công ty làm nhiệm vụ 
này trên thế giới. Mức hạng của Standard & Poor có biên độ từ AAA đến D, 
của Moody từ Aaa tới C, của Fitch từ AAA đến D. Duff & Phelps có biên độ 
từ AAA tới CCC
18
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Bảng 1.1. Ký hiệu sắp xếp hạng tín nhiệm của một số công ty định mức tín nhiệm
STT Tên công ty XHTN ngắn hạn XHTN dài hạn
1 Moody’s Investor P-1 tới P-3 Aaa tới C
2 Standard & Poor’s Corporation A-1 tới D AAA tới D
3 Duff & Phelps Duff-1 tới Duff-3 1 tới 17
4 Fitch Investors Service F-1 tới F-4 AAA tới D
5 Canadian Bind Rating Service A-1 tới A-4 A++ tới D
6 McCarthy, Crisanti & Maffei MCM-1 tới MCM-6 A tới D
7 Mikumi & Co N/A AAA tới D
8 Dominion Bond Rating Service R-1 tới U AAA tới C
9 Internationnal Bank Credit Analyisis - A tới E
10 Australian Ratings A.1 tới C.1 AAA tới D
11 Nippon Investors Service A-1 tới D AAA tới D
12 Japan Credit Rating Agency J-1 tới J-3 Aaa tới D
13 Agence d’Evaluation Financiere T-1 tới T-4 AAA tới D
14 Korean Investors Service A1 tới D AAA tới D
15 Credit Rating Services of India Ltd P-1 tới T-5 AAA tới D
Bảng định mức tín nhiệm được chia làm 2 loại: Bảng ký hiệu Định 
mức tín nhiệm biểu hiện cho các công cụ nợ ngắn hạn và bảng ký hiệu Định 
mức tín nhiệm biểu hiện cho các công cụ nợ dài hạn. Nhìn vào kí hiệu về 
Định mức tín nhiệm được ấn định cho bất cứ một doanh nghiệp nào, nhà đầu 
tư đều có thể biết được mức độ rủi ro đối với các công cụ vay nợ của doanh 
nghiệp đó. 
Bảng 1.2. Ký hiệu sắp xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ dài hạn
Moody S&P Diễn giải
Aaa AAA Chứng khoán được định mức loại này có chất lượng cao nhất, có độ rủi 
ro thấp nhất, đây thường là các Chứng khoán vàng có khả năng trả nợ 
mạnh nhất.
Aa AA Chứng khoán được định mức loại này có chất lượng cao, mức độ rủi ro 
thấp và do đó có khả năng trả nợ cao.
A A Đây là loại chứng khoán đạt trên mức trung bình các nhân tố đảm bảo về 
19
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
khả năng trả nợ ngắn và dài hạn, tuy chưa thật chắc chắn nhưng có độ 
tin cậy cao. Do đó chứng khoán này được xếp loại có khả năng trả nợ.
Baa BBB Đây là loại chứng khoán trung bình, mức an toàn và rủi ro không cao, 
không thấp. Khả năng trả nợ gốc và lãi hiện thời không thật chắc chắn 
nhưng không có dấu hiệu nguy hiểm. Tuy nhiên chứng khoán loại này 
có tính đầu cơ hơn là đầu tư. Do đó khả năng trả nợ của loại chứng 
khoán này đạt mức trung bình.
Ba BB Chứng khoán loại này có nhiều tính đầu cơ, tương lai của loại chứng 
khoán này khó xác định, do đó khả năng trả nợ gốc và lãi không thật 
chắc chắn và an toàn như loại trên
B B Nhìn chung chứng khoán loại này thiếu sự hấp dẫn cho đầu tư. Sự đảm 
bảo về hoàn trả gốc và lãi trong tương lai là rất nhỏ, do đó có tính đầu cơ 
cao.
Caa CCC Khả năng trả nợ thấp, dễ bị vỡ nợ.
Ca CC Mức đầu cơ cao nhất, thường bị vỡ nợ.
C C Đối với Moody, đây là định mức tín nhiệm thấp nhất
D Định mức tín nhiệm thấp nhất của S&P. Hai định mức tín nhiệm đạt C 
và D thể hiện Nhà phát hành trong tình trạng sắp phá sản
Để định mức tín nhiệm chi tiết hơn, công ty Moody dùng thêm ký 
hiệu 1,2,3 vào sau mỗi mức tín nhiệm cơ bản nhằm chia mỗi mức cơ bản 
thành 3 mức nhỏ (ngoại trừ hai mức cao nhất và thấp nhất AAA và C). Ví dụ 
từ mức tín nhiệm là Ba được chia thành Ba1, Ba2, Ba3 với mức tín nhiệm 
ngày một giảm. Cũng cách làm như vậy, công ty S&P sử dụng “+” và “-” để 
chi tiết hóa các mức tín nhiệm cơ bản
Bảng 1.3. Ký hiệu sắp xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ ngắn hạn
Moody S&P Diễn giải
P-1 A-1+ Khả năng trả nợ mạnh nhất
A-1 Khả năng trả nợ mạnh
P-2 A-2 Khả năng trả nợ đạt mức trung bình khá
20
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
P-3 A-3 Khả năng trả nợ đạt mức trung bình hay vừa đủ để được 
định mức đầu tư
NP B Khả năng trả nợ yếu, mang tính đầu cơ
C Khả năng trả nợ yếu
D Khả năng trả nợ rât yếu, thể hiện Nhà phát hành đang trong 
nguy cơ bị phá sản
Giữa định mức tín nhiệm cho các công cụ nợ dài hạn và các công cụ 
nợ ngắn hạn có mối quan hệ tương đối với nhau như sau:
21
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Bảng 1.4. Quan hệ xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn và dài hạn
S&P Moody
Dài hạn Ngắn hạn Dài hạn Ngắn hạn
AAA Aaa
A-1+
AA+ Aa1
AA Aa2
AA- Aa3
A+ A1
A A2
A- A3
BBB+ Baa1
BBB Baa2
BBB- Baa3
BB+ Ba1
3. Phương pháp đánh giá
Theo phương pháp này, Ngân hàng tiến hành phân tích, đánh giá các 
khách hàng vay vốn thông qua hệ thống các chỉ tiêu. Trong đó các chỉ tiêu 
chính là:
1. Dòng ngân lưu
2. Khả năng thanh khoản
3. Chất lượng tài sản
4. Lợi nhuận
5. Đòn bẩy tài chính.
Phương pháp này tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu tài chính của 
khách hàng để dự đoán khả năng chi trả trong tương lai, nhưng lại thiếu đi 
các yếu tố định tính, không được tính toán dựa trên lịch sử vay vốn của 
khách hàng do đó có thể không phản ánh được đầy đủ và toàn diện thông tin 
liên quan đến khách hàng.
4. Phương pháp sử dụng các mô hình.
22
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
Theo phương pháp này, các tổ chức chấm điểm tiến hành chấm điểm 
và xếp hạng các khách hàng của mình thông qua các mô hình.
+ Mô hình phân lớp tự động: Có thể thấy một điểm chung trong các 
phương pháp Định mức tín nhiệm công ty chính là vấn đề cho điểm các tiêu 
chí xếp hạng. Việc lựa chọn các tập tiêu chí và cách cho điểm các tiêu chí 
này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của các chuyên gia. Sự phù hợp của các 
lựa chọn có thể sẽ rất thấp nếu áp dụng cho một số thị trường cụ thể. Mô 
hình phân lớp tự động cho phép khắc phục chính những nhược điểm này. 
Mô hình này cho phép tùy ý trong việc lựa chọn các tiêu chí ban đầu. Việc 
giải mô hình sẽ cung cấp cơ sở lựa chọn bộ tiêu thức cuối cùng. Mô hình này 
xếp hạng công ty không theo một tiêu thức hiệu quả mà chỉ xếp những công 
ty giống nhau vào cùng một lớp. Phán xét về mức tín nhiệm có thể do nhà 
đầu tư quyết định. Mô hình như sau:
Xét một tập hợp các cá thể J = (1,2,3,…,m) – Các công ty. Gọi tập 
hợp các chỉ tiêu phản ánh tình trạng của công ty là {X
1
,X
2
,…X
n
}. Ma trận X 
sau đây mô tả mỗi dòng là một công ty và mỗi cột là một tiêu chí:
 X=
mnmm
n
n
xxx
xxx
xxx
......
..................
.......
........
21
22221
11211
Tiến hành tách X thành k lớp hữu hạn, trong đó các công ty ở mỗi lớp 
giống nhau tối đa, và các công ty ở các lớp khác nhau thì khác biệt tối đa.
+ Mô hình CAPM: Mô hình này xếp hạng tín nhiệm dựa trên hệ số rủi 
23
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
ro của lợi suất cổ phiếu do thị trường đánh giá. Bằng số liệu theo chuỗi thời 
gian của lợi suất cổ phiếu mỗi công ty, mô hình sẽ đưa ra hệ số rủi ro và xếp 
hạng tín nhiệm của các công ty tương ứng với mức độ rủi ro tìm được. Tuy 
nhiên mô hình CAPM chỉ có thể áp dụng được đối với các công ty đã niêm 
yết trên thị trường.
+ Mô hình điểm số Z: Được Edward I.Almtman (Mỹ) đưa ra, nhằm 
đánh giá xếp hạng khách hàng dựa trên điểm số Z, là tổng điểm của 5 chỉ 
tiêu thành phần. Điểm số Z chấm cho mỗi khách hàng được xác định theo 
công thức sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 0,999X5.
Trong đó:
Các hệ số: thể hiện tầm quan trọng của từng chỉ tiêu đánh giá.
X1= Vốn lưu động / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu tài sản lưu động trên tổng tài sản. Chỉ tiêu 
này càng thấp thì doanh nghiệp đang có dấu hiệu làm ăn thua lỗ.
X2= Lãi chưa phân phối / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này đo lường thu nhập để tái đầu tư. Chỉ tiêu này càng cao thì 
khả năng phá sản càng thấp.
X3= Lợi nhuận sau thuế và lãi vay / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi từ tài sản. Đây là yếu tố quyết 
định vận mệnh của doanh nghiệp.
X4= Giá trị thị trường của VCSH / Giá trị hạch toán của tổng nợ.
Chỉ tiêu này cho biết giá trị doanh nghiệp sụt giảm bao nhiêu trước 
khi nợ vượt quá tài sản. Và như vậy, doanh nghiệp sẽ sớm bị phá sản.
X5= Doanh thu / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này đánh giá năng lực quản trị trong môi trường cạnh tranh.
Tổ chức định mức sẽ tiến hành tính toán số điểm của từng khách hàng, sau 
24
Website:  Email :  Tel : 0918.775.368
đó đưa ra quyết định của mình dựa vào sơ đồ sau, và theo đó, nếu điểm của 
khách hàng trên 1,81 thì mới tiến hành xem xét cấp tín dụng.
 1,81 2,99
Rủi ro cao, không cấp 
tín dụng
Không có hoặc ít rủi 
ro
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, như vậy khi 
trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng và 
nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
III . Cách xác định hạn mức tín dụng
Một số nội dung cơ bản trong hoạt động xét cấp HMTD tại các ngân 
hàng hiện nay, như sau: 
• Cho vay theo HMTD là một trong hai phương thức cho vay ngắn hạn 
phổ biến đối với các doanh nghiệp hiện nay. 
• Việc xét cấp HMTD không có một khuôn mẫu chung thống nhất giữa 
các ngân hàng, hay nói cách khác là luôn có sự khác nhau giữa các 
ngân hàng, tuỳ theo đối tượng khách hàng, phương án, lĩnh vực, xu 
hướng ngành nghề khác nhau. 
• Kỹ thuật xác định HMTD hiện nay tại các ngân hàng đang áp dụng 
thông thường dựa trên 2 cách : (a) Dựa vào chênh lệch nguồn và sử 
dụng nguồn; (b) Dựa vào lưu chuyển tiền tệ. 
• Điều kiện áp dụng đối với loại hình cho vay ngắn hạn này thường là 
những khách hàng đã có quan hệ tín dụng có uy tín với ngân hàng, có 
25