Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Đa dạng nấm ký sinh côn trùng ở vườn quốc gia vũ quang và thử nghiệm sử dụng nấm cordyceps sp11 để phòng trừ dế than gryllus bimaculatus de geer hại ngô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.42 KB, 72 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR ƯỜNG ĐẠI HỌC VĨNH

HÒ ĐÌNH THẮNG

ĐẢNH GIẢ TÌNH HÌNH SẲ uHẠI NGÔ Ở HUYỆN NA M ĐÀN, TỈNH NGHỆ A N
VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SÔ LOẠI THƯÓC PHÒNG TR ừ Ở ĐỈỂU KIỆN THỰC
NGHIỆM
L UẬN VẦN THẠ

NGHỆ AN -2012

c Sĩ NÔNG NGHỈỆP (CHUYÊN NGẦNH: trồng TRỌT)


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR ƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HÒ ĐÌNH THẮNG T Ê N Đ È T À I L U Ậ N V Ă N

THẠ

c sĩ

Chuyên ngành: Trồng trọt Mã số:

L UẬN VẨN THẠ

c Sĩ NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Ngọc Lân


TS. Nguyễn Thị Thanh


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR ƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGHỆ AN, 2012
Đe tài “Đánh giá tình hình sâu hại ngô ở huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An và thử nghiệm một số loại thuốc phòng
trù ở điều kiện thực nghiệm” được thực hiện từ tháng 10
năm 2011 đến tháng 9 năm 2012 là sản phẩm của quá trình
lao động khoa học không mệt mỏi của chúng tôi. Tôi xin cam
đoan đây là công trình do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS. TS. Trần Ngọc Lân và TS. Nguyễn Thị
Thanh. Những kết quả đạt được đảm bảo tính chính xác và
trung thực về khoa học.
Neu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Nghệ An, ngày 20 tháng 10 năm 2012 Học viên

Hồ
Đìn
h
Tho
ng
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ của các nhà khoa học, thầy cô giáo khoa
Nông Lâm Ngư, chính quyền các xã nơi điều tra, nghiên cún,
gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới PGS. TS. Trần Ngọc Lân và TS. Nguyễn



Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR ƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Thị Thanh đã mang lại cho tôi niềm đam mê khoa học. Đồng
thời đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong quá trình thực
hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ khoa Nông
Lâm Ngư, Phòng NN&PTNT huyện Nam Đàn đã tạo điều
kiện giúp đỡ về thời gian cũng như cơ sở vật chất, thiết bị thí
nghiệm cho tôi hoàn thành tốt đề tài.
Xin cảm ơn chính quyền địa phương các xã Khánh Sơn,
Vân Diên, Nam Nghĩa huyện Nam Đàn đã tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình điều tra thu thập vật mẫu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp đã
động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Nghệ An, ngày 20 tháng 10 năm 2012
Học
viên

Hồ
Đình
Thắng


5

DANH MỤC CÁC KỶ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẲT
IPM


Quản lý dịch hại tổng hợp

TT

Trưởng thành

CT

Công thức

TB

Trung bình

(Integrated Pest Management)

LSDo 05
Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở 5%
GĐST Giai đoạn sinh trưởng


DA NH MỤC CẢ С BẢNG SÔ
LIỆU
Bảng 3.15. Ket quả thử nghiệm biện pháp hóa học phòng trừ sâu đục thân ngô.. 62
Hình 3.1. Diễn biến tỷ lệ bị hại do sâu đục thân trên ruộng ngô vụ đông tại xã

MỤC L ỤC



7

MỞ ĐẨU
1. Tỉnh cấp thiết của đề tài
Theo xu thế hiện nay tốc độ đô thị hóa ngày một gia tăng, diện tích đất nông nghiệp bị
thu hẹp, dân số thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng ngày một đông thêm. Do đó vấn đề
lương thực được đặt lên hàng đầu, để đáp ứng nhu cầu này thì vấn đề tăng năng suất cây
trồng rất cần thiết và được các nhà khoa học thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau như
lai tạo giống, chuyển gen,... Trong sản xuất người dân phải thâm canh, tăng vụ đế tăng năng
suất đáp ứng nhu cầu về lương thực cho xã hội đồng thời chú trọng sử dụng cây trồng ngắn
ngày, chịu phân, cho năng suất cao đế thay thế các giống địa phương cho năng suất thấp, dài
ngày,... tuy nhiên vấn đề mà hầu hết người nông dân đang phải đối mặt là sâu bệnh hại cây
trồng.
Sau cây lúa, cây ngô (Zea mays Linneaus) là loại ngũ cốc quan trọng trên thế giới,
cung cấp chất dinh dưỡng cho con người và động vật đồng thời là nguyên liệu cho sản xuất
tinh bột, dầu, protein, đồ uống chứa cồn gần đây là nguyên liệu cây xanh được sử dụng để
làm thức ăn ủ đã thành công trong chăn nuôi bò sữa và bò thịt. Tuy đứng thứ 3 về diện tích
gieo trồng, sau cây lúa nước và lúa mỳ nhưng đứng đầu về năng suất và sản lượng trong các
cây ngũ cốc, cây ngô góp phần nuôi sống 1/3 dân số thế giới. Theo bộ nông nghiệp Mỹ
(USDA, 2010)[37] diện tích trồng ngô trên thế giới là 156,04 ha, năng suất 5.18 tấn/ ha và
sản lượng đạt kỷ lục với 808,8 triệu tấn. Theo dự báo của công ty Mosanto vào năm 2030
nhu cầu ngô của thế giới tăng 81% so với năm 2000 (từ 608 triệu tấn lên 1098 triệu tấn).
Nhưng 80% nhu cầu tăng (khoảng 266 triệu tấn) tập trung ở các nước đang phát triển. Tổng
lương ngô các nước công nghiệp chỉ xuất sang các nước đang phát triến khoảng 10% tổng
sản lượng thế giới. Vì vậy các nước đang phát triển phải tự đáp ứng nhu cầu của minh trên
diện tích ngô không tăng (CIMMYT, 2008) [38].
Theo dự báo của Viên nghiên cún chính sách lương thực Quốc tế thì nhu cầu ngô tại
các nước đang phát triến sẽ vượt quá nhu cầu so với lúa mỳ và lúa nước. Dự báo nhu cầu



8

ngô của thế gới có thể tới 837 triệu tấn vào năm 2020 (CIMMYT, 2001) [39].
Chính vì vậy mà diện tích ngô ngày càng gia tăng và được trồng ở nhiều nơi trên thế
giới. Ngành sản xuất ngô tăng liên tục từ đầu thế kỷ XX đến nay nhất là hơn 40 năm gần
đây. Ớ Việt Nam năng suất ngô tăng nhanh, liên tục với tốc độ cao hơn trung bình thế giới
trong suốt 20 năm qua đến năm 2007 Việt Nam đạt diện tích 1.072.800 ha, năng suất 39,6
tạ/ha sản lượng đạt ngưỡng 4 triệu đến 4,2 triệu tấn.
Nghệ An là tỉnh có diện tích trồng ngô lớn trong khu vực miền Trung, vụ Đông là vụ
sản xuất chính với diện tích từ 27.000 - 30.000 ha (Báo cáo tổng kết năm 2010 sở
NN&PTNT Nghệ An) tập trung ở một số huyện Nam Đàn, Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh
Lun, Nghi Lộc, Thanh Chương, Đô Lương,...
Hàng năm tống diện tích trồng ngô của huyện Nam Đàn từ 4.000 đến 4.400 ha, năng
suất bình quân từ 40 - 45 tạ/ha. Diện tích ngô tập trung chủ yếu ở vụ Đông.
Hiện nay thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Nam Đàn khóa 25, nông dân
Nam Đàn đang áp dụng khoa học công nghệ tiến bộ bằng việc đưa vào sản xuất các giống
ngô lai có năng suất cao, như CP333, NK66, NK 6654, LVN14, B06 đặc biệt giống LVN 14,
B06 là những giống có khả năng trồng mật độ cao lên đến 75.000-80.000 cây/ha. Tuy nhiên,
năng suất và sản lượng lương thực luôn chịu tác động của các loài sâu hại, chúng làm giảm
năng suất từ 15 - 20%.
Đe phòng trừ sâu hại cho đến nay người nông dân chủ yếu sử dụng biện pháp hóa học.
Việc lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực đã gây tác hại nghiêm trọng như phá vỡ cân bằng
hệ sinh thái, tiêu diệt thiên địch, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con
người.
Xuất phát tù’ những yêu cầu thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên CÚOI đề tài
“Đảnh giả tình hình sâu hại ngô ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và thử nghiệm một số
loại thuốc phòng trừ ở điều kiện thực nghiệm ”
2. Mục tiêu của đề tài
Đe tài tập trung nghiên CÚOI, đánh giá tình hình sâu hại và diễn biến số lượng của



9

một số loài sâu hại chính trên sinh quần ruộng ngô ở huyện Nam Đàn, đồng thời sử dụng
một số loại thuốc hóa học phòng trừ chúng nhằm xác định thời điểm phun thuốc, tuổi sâu
mẫn cảm nhất với thuốc từ đó cung cấp các dẫn liệu khoa học làm cơ sở cho công tác dự
tính, dự báo sự phát sinh, phát triển của sâu hại trên sinh quần ruộng ngô để giúp người dân
xác định thời điếm phòng trừ sâu họp lý, đạt hiệu quả cao.
3. Đối tượng, phạm vỉ nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Các loài côn trùng gây hại trên sinh quần ruộng ngô ở huyện
Nam Đàn gồm côn trùng thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera), bộ cánh thắng
(Orthoptera); Bộ cánh cứng (Coleoptera); Bộ cánh nửa (Heteroptera); Bộ cánh đều
(Homoptera).

-

Phạm vi nghiên cứu: Đe tài tập trung nghiên cún thành phần sâu hại và diễn biến số
lượng của các loài gây hại chính trên ruộng ngô tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Từ đó sử dụng một số thuốc hóa học phòng trừ chúng trong điều kiện thực nghiệm
để xác định được thời điểm phun thuốc, tuổi sâu thích hợp nhất để thuốc hóa học đạt
được hiệu lực cao nhất.

4. Ỷ nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
*

Y nghĩa khoa học
Lần đầu tiên đưa ra danh lục thành phần loài côn trùng gây hại trên sinh quần ruộng


ngô ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Nghiên cứu diễn biến số lượng của các loài sâu gây hại chính theo giai đoạn phát triển
của cây ngô làm cơ sở dự tính dự báo cho người dân chủ động đưa ra kế hoạch phòng trù'.
*

Ỷ nghĩa thực tiễn
Ket quả nghiên

CÚOI

về diễn biến số lượng sâu hại ngô sẽ chỉ ra các thời điểm (tương

ứng với các giai đoạn phát triển của cây ngô) mà từng loài sâu hại chính sẽ phát sinh gây hại
mạnh nhất (đạt đỉnh cao về số lượng). Từ đó khuyến cáo để người dân trồng ngô chủ động,
thường xuyên thăm ruộng vào các thời điếm này và có kế hoạch phòng trừ các loài sâu này
kịp thời đạt hiệu quả cao.


1
0

Các dẫn liệu được trình bày trong luận văn góp phần vào việc áp dụng có hiệu quả biện
pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) sâu hại ngô tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
CHƯƠNG 1.
TỐNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.Cơ sở khoa học của đề tài
*Dịch hại cây trồng là trạng thái tự nhiên của hệ sinh thái nông nghiệp Các hệ sinh thái tự
nhiên đều có khả năng tự điều chỉnh riêng. Đó là khả năng tự lập lại cân bằng, cân bằng giữa
các quần thể trong hệ sinh thái (vật ăn thịt - vật mồi, vật ký sinh - vật chủ), cân bằng các

vòng tuần hoàn vật chất và dòng năng lượng giữa các thành phần của hệ sinh thái. Sự cân
bằng này cũng có nghĩa là sự cân bằng giữa các vật sản xuất, vật tiêu thụ và vật phân hủy.
Sự cân bằng này cũng được gọi là sự cân bằng sinh thái. Nhờ có sự điều chỉnh này mà các
hệ sinh thái tự nhiên giữ được sự ốn định mỗi khi chịu tác động của các nhân tố ngoại cảnh.
Hệ sinh thái là một hệ thống sống có khả năng tự điều chỉnh. Đó là khả năng tự lập lại
cân bằng giữa các quần thể sinh vật sống cùng nhau như vật ăn thịt con mồi,... và đó chính là
cơ sở tạo nên cân bằng sinh thái. Tuy nhiên, khả năng tự lập lại cân bằng của hệ sinh thái là
có giới hạn. Con người đôi khi vì muốn thu lợi nhuận kinh tế cao nên bằng nhiều hoạt động
đã làm cản trở khả năng tự điều chỉnh của hệ sinh thái, dẫn tới mất cân bằng sinh thái, gây
suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Muốn quản lý tốt các hệ sinh thái thì nguyên lý
cơ bản cần tuân thủ đó là giữ cho các hệ sinh thái này không nằm ngoài khả năng tự điều
chỉnh của nó.
-------► Sản xuất <----------

Tiêiị thụ

™L

______ Tái sản xuất ---------Nói về tác hại của một loài sinh vật nào đó, thực ra là xét dưới góc độ lợi ích của nó


1
1

đối với con người. Trong tự nhiên không có loài sinh vật gây hại cũng không có loài sinh
vật nào hoàn toàn có lợi. Thực ra, mỗi loài sinh vật đều có một vị trí nhất định trong tự
nhiên, chúng thực hiện những chức năng riêng trong chu trình chuyến hóa vật chất của tụ’
nhiên.
Ở vòng tuần hoàn vật chất các loài sinh vật tồn tại hài hòa với nhau khi hệ sinh thái
hoạt động bình thường. Do đó, đảm bảo cho hệ sinh thái tồn tại và phát triến. Trên cơ thế

cây trồng và xung quanh các loài cây trồng có rất nhiều loài sinh vật khác nhau cùng tồn tại.
Trong số đó, có loài cần thiết cho hoạt động sống của cây trồng, thiếu chúng cây không thể
sống được một cách bình thường. Bên cạnh đó, có loài sinh vật lấy cây trồng làm thức ăn
(đây là các loài sinh vật gây hại-dịch hại cây trồng). Thế nhung không phải tất cả các sinh
vật lấy cây trồng làm thức ăn đều là dịch hại đối với con người: Côn trùng ăn cỏ dại trở
thành có ích. Côn trùng bắt mồi, ký sinh là yếu tố điều hòa quần thế dịch hại, tạo điều kiện
cho dịch hại giữ được số lượng thích họp trong hệ sinh thái.
Như vậy “Sinh vật có lợi hay có hại không phải là thuộc tính của một sinh vật nào
đó mà là đặc tính của loài đó trong mối quan hệ nhất định của mỗi hệ sinh thái”. Các
loài sinh vật vừa là điều kiện tồn tại của nhau vừa là yếu tố hạn chế nhau trong mỗi chuỗi
dinh dưỡng của chu trình tuần hoàn vật chất (Hà Quang Hùng, 1998) [13].
*

Cấu trúc và tỉnh ốn định của quần xã sinh vật
Tính ổn định và năng suất quần thể của một loài được xác định bởi rất nhiều yếu tố,

một phần các yếu tố đó là cấu trúc của quần xã sinh vật (Watt, 1976). Cấu trúc của quần xã
sinh vật bẩm độ gồm 3 nhóm yếu tố:
a. Mạng lưới dinh dưỡng trong quần xã (thế hiện quan hệ dinh dưỡng trong quần xã
sinh vật)
b. Sự phân bố không gian của sinh vật.
c. Sự đa dạng của quần xã.
Cũng như các hệ sinh thái khác trong hệ sinh thái đồng ruộng luôn luôn tồn tại mối
quan hệ về mặt dinh dưỡng và đó là mối quan hệ tất yếu trong quần xã sinh vật cũng như hệ


1
2

sinh thái, mỗi loài sinh vật thường là thức ăn là điều kiện tồn tại cho mỗi loài sinh vật khác.

Quan hệ phổ biến giữa các loài sinh vật là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau vô cùng phức tạp,
nhưng có quy luật, đặc biệt là quan hệ dinh dưỡng (Thể hiện qua chuỗi và lưới thức ăn).
*

Mối quan hệ dinh dưỡng
Một tập họp các sinh vật cùng sống trong một vùng hoặc sinh cảnh xác định được hình

thành trong quá trình lịch sử lâu dài, liên hệ với nhau do những đặc trưng chung về sinh thái
học mà các thành phần cấu thành quần xã (quần thế, các cá thế) không co. Sự tập họp này
không phải là một con số cộng đơn thuần mà giữa các loài đó có mối quan hệ rất chặt chẽ,
trước hết là mối quan hệ về dinh dưỡng và nơi ở. Quan hệ này có thể là tương hỗ hoặc đối
địch, cạnh tranh...
Trong quần xã, các loài có quan hệ mật thiết với nhau, mối quan hệ đó thế hiện rõ nhất
ở quan hệ dinh dưỡng với mọi thành viên của quần xã đều tham gia vào một trong ba pha
của vòng tuần hoàn vật chất: pha sản xuất, pha tiêu thụ, và phân hủy. Ket gan sinh vật với
nhau là dây chuyền dinh dưỡng, mỗi loài là một mắt xích của dây chuyền dinh dưỡng ấy,
mối quan hệ giữa các mắt xích thức ăn rất phức tạp, nó ảnh hưởng đến tương quan số lượng
của nhau. Chỉ một mắt xích thay đối thì toàn bộ chuỗi, thậm chí toàn bộ mạng lưới thức ăn
bị thay đổi theo. Các chuỗi thức ăn đều là tạm thời và không bền vững như mọi mối quan hệ
sinh học khác.
*

Biến động số lượng côn trùng
Trên cơ sở xem xét hàng loạt dẫn liệu về sự biến đối số lượng và các dạng cơ chế điều

hoà số lượng, Viktorov (1967) đó tổng họp khái quát thành sơ đồ chung của biến động số
lưọ'ng côn trùng. Một trong những đặc trưng của quần thế là mật độ cá thế trong quần thế
được xác định bởi sự tương quan giữa các quá trình bổ sung thêm và giảm bớt số lượng cá
thể. Tất cả là các yếu tố gây biến động đều tác động đến quá trình này khi chúng làm thay
đối sức sinh sản, tỷ lệ tử vong của quần thể và sự di cư của các cá thể. Các yếu tố vô sinh

mà trước hết là điều kiện thời tiết, khí hậu tác động đến côn trùng một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua thức ăn, thiên địch. Sự điều hoà thông qua các mối quan hệ tác động qua


1
3

lại đó đó phản ánh ảnh hưởng của mật độ lên sức sinh sản, tỷ lệ tử vong và di cư, trong đó
tồn tại mối quan hệ trong loài và bằng sự thay đối tích cực của thiên địch và đặc điếm của
thức ăn. Sự tồn tại của các mối quan hệ này đảm bảo những thay đổi đền bù cho sự bổ sung
và giảm bót số lượng cá thế của quần thế. Chính sự tác động thuận nghịch đó đó san bằng
những sai lệch ngẫu nhiên trong mật độ quần thể (Hà Quang Hùng, 1998) [13].
Số lượng của côn trùng đặc biệt là các loài sâu hại thường có sự dao động từ thế hệ này
sang thế hệ khác, số lượng lần sau gia tăng có khi đến hàng trăm lần và kéo dài một thời
gian rồi lại đột ngột giảm xuống đến mức thấp nhất, duy trỡ ở mức độ đó trong một thời
gian. Sự sinh sản hàng loạt của các loài sâu hại phần lớn không tiếp diễn theo tiến trình tự
nhiên. Quá trình biến đổi xảy ra do tác động của các yếu tố môi trường, chủ yếu là các yếu
tố thời tiết, khí hậu và mối quan hệ vật ăn thịt - vật mồi.
Ở côn trùng ăn thịt, sự điều chỉnh số lượng quần thể quan trọng là sự cạnh tranh trong
loài. Hiện tượng ăn thịt lẫn nhau thường xuất hiện trong quần thể chủ yếu do thiếu thức ăn.
Sự tác động đó dẫn đến sự ổn định không bền vững của số lượng quần thế.
Vai trò quan trọng của vật ăn thịt được coi là yếu tố điều hoà số lượng côn trùng và
được thế hiện ở hai phản ứng đặc trưng là phản ứng số lượng và phản ứng chức năng.
Hiện nay có hàng loạt dẫn liệu thực tế xác nhận khả năng điều hoà của các cơ chế điều
hoà ở các mức độ khác nhau của quần thể. Cơ chế đó được thực hiện liên tục kế tiếp nhau
tham gia tác động khi mật dộ quần thể được điều hoà vượt ra khỏi giới hạn hoạt động của
yếu tố điều hoà trước đó.
Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại cây trồng (IPM) dựa trên mối quan hệ tương hỗ giữa
cây trồng - sâu hại - thiên địch trong hệ sinh thái nông nghiệp, các nguyên tắc sinh thái và
đa dạng sinh học của hệ sinh thái nông nghiệp.

1.2.Tình hình nghiên cứu sâu hại trên sinh quần ruộng ngô ở thế giới và Việt Nam
ỉ.2.1. Tình hình nghiên cứu sâu hại ngô trên thế giới
Trước kia ở phía Bắc Mỹ gần Boston, Massachsetts vào năm 1917, cây ngô đã xuất
hiện sâu đục thân, bây giờ đã lan rộng sang Canada và cả Châu Mỹ, Phía Nam của Gulf


1
4

Coast. Sâu đục thân ngô có nguồn gốc ở Châu Ầu, nơi có diện tích đất lớn nhất thế giới.
Phía Bắc Mỹ loài sâu này có mặt với mật độ rất lớn và mang lại hậu quả gấp nhiều lần so
với các sinh vật khác ở Châu Âu. Như vậy đây là nơi thứ hai ít nhất và cũng là nơi có rất
nhiều nguồn thức ăn đế sâu đục thân tận dụng sinh sống và phá hoại.
Theo Hill và Waller (1988) [31] trên cây ngô có 18 loài sâu hại chính, như sâu cắn lá
ngô, sâu keo, sâu đục thân, cánh cứng ăn lá, riêng sâu đục thân có 6 loài, sâu ăn hạt, ăn lá có
6 loài.
Wang Ren Lyli Ying và Waterhouse (1997) [35] cho biết ở các tỉnh ở phía Nam Trung
Quốc xuất hiện 12 loài sâu ngô, đó là sâu xám, sâu đục thân, rệp, bọ xít đen, bọ xít gai, sâu
khoang, bọ ba ba, bọ xít dài, sâu cắn lá nõn, bọ xít xanh, châu chấu và sâu róm.
Theo Waterhouse (1993) [36] cho biết ở các nước Đông Nam Á đã xuất hiện 24 loài
sâu hại ngô, tuy nhiên tuỳ theo điều kiện khí hậu thời tiết mỗi nước một khác nên thành phần
và mức độ phổ biến của các loài sâu hại có khác nhau.
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của rệp ngô Elliott và CTV
(1988) đã tính được ngưỡng sinh học là 6,l°c và ngưỡng nhiệt độ cao là

26,3°c. Rệp ngô

thường tấn công cây lúa mạch vào giữa tháng 7 và kéo dài tới cuối tháng 10. số lượng rệp
nhiều nhất vào cuối tháng 8 đầu tháng
9


khi lúa mạch đã trổ hoa, sau đó mật độ rệp giảm dần. Trên cây mía tại Cuba, theo
Gomez et al. (1984) rệp ngô xuất hiện với mật độ cao sau khi làm cỏ mía đợt đầu và
rệp phát triển mạnh khi nhiệt độ khoảng 20°c. Khi nghiên cúu ảnh hưởng của các
giai đoạn phát triến của cây trồng đến sức sinh sản của rệp, Kieckhefer et al. (1988)
cho rằng cây ngô non dường như miễn dịch đối với rệp ngô. Rệp thường có mật độ
rất cao ở giai đoạn sắp trỗ cờ, phun râu.
Đe phòng trù’ rệp ngô nên sử dụng các loại thuốc như Cacbofuran, Metaphos,

Metathion, Phosphamidon và Disulfoton sẽ có hiệu lực phòng trù' rệp cao và thời gian hiệu
lực dài (Vidya et al., 1983). Việc phòng trừ rệp từ dịch chiết từ rễ cỏ chanh có thể diệt được
76,6% rệp ngô.


1
5

Một hướng đi khác trong phòng trừ rệp ngô là tìm ra giống kháng rệp hại. Bing et al.
(1992) công bố kết quả nghiên cứu sự di truyền tính kháng của
10 dòng ngô đối với rệp ngô và cho rằng tác động tổng họp của các gen cao hơn tác
động riêng rẽ của từng gen. Kieckhefer (1984) cho rằng trồng luân phiên một số loài
cỏ (là ký chủ phụ của rệp ngô) và lúa mạch sẽ làm giảm rõ rệt mật độ rệp ngô trên
lúa mạch.
1.2.2.

Tình hình nghiên cứu sâu hại ngô và các biện pháp phòng trừ chủng ở Việt

Nam
Nguyễn Thị Kim Oanh (1993) nghiên círu về thành phần rệp hại trên ngô cho biết cây
ngô có 4 loài rệp muội gây hại đó là Rhopalosỉphum maydis, Rhopalosiphum padi,

Aphis gossypii, Mezus persicae nhưng gây hại chủ yếu trên các vùng trồng trên cả nước
vẫn là rệp Ropalosiphum maỉdỉ (Nguyễn Thị Kim Oanh, 1993) [25].
Nghiên cứu về hình thái, đặc điểm sinh học của sâu đục thân ngô cũng đã có nhiều nhà
khoa học quan tâm. Ket quả cho thấy sâu đục thân ngô là một trong những đối tượng dịch
hại thường gây hại rất nặng đối với cây ngô ở giai đoạn sâu non. Ở các tỉnh miền Bắc sâu
gây hại chủ yếu trong vụ ngô Xuân - Hè và Hè - Thu, tỷ lệ cây bị hại có khi lên đến 70 80% và có thể làm giảm năng suất đến 20 - 30% . Gây thất thu rất lớn cho người trồng ngô.
Sâu xám (Agrotis ipsilon) cũng là đối tượng gây hại nghiêm trọng trên ngô và đã có
một số nghiên cứu về đặc điếm phát sinh gây hại của chúng trên ngô. Ket quả cho thấy loài
sâu này gây hại chủ yếu ở thời kỳ cây ngô còn non. Sâu thường gây hại vào ban đêm. Sâu
cắn ngang cây non, sau đó lôi phần thân cây non bị đứt xuống đất để ăn. Sâu xám phá hại
ngô mạnh tò lúc mọc mầm đến 5 - 6 lá khi cây 7 - 8 lá sâu xám đục gốc vào bên trong ăn
phần mềm ở giữa làm cây bị héo và chết.
Rệp ngô chủ yếu hại lá ngô. Khi ngô trỗ cờ, rệp chích hút dịch lá bao cờ, làm lá bạc
trắng và bao phấn bị khô dẫn đến thiếu phấn. Rệp còn hại râu ngô làm râu bị khô không có
kh năng thụ phấn.
Phạm Tuyết Nhung (2002) [26] cho biết thành phần sâu hại ngô vụ Xuân Hè tại xã


1
6

Đức Chính, cấm Giàng, Hải Dương là 15 loài trong đó có 3 loài gây hại nặng là sâu xám,
sâu cắn lá ngô và sâu róm chỉ đỏ.
Theo Đặng Thị Dung (2003) [9] cho biết thành phần sâu hại ngô tại vùng Gia Lâm, Hà
Nội vụ Xuân năm 2001 cho thấy có 23 loài sâu hại thuộc 6 bộ và 16 họ. Trong đó có 3 loài
xuất hiện phố biến đó là rệp ngô, sâu cắn lá và sâu đục thân. Trong đó đặc điếm hình thái
của loài sâu cắn lá ngô (Leucania loreyi Dup.) được tác giả nghiên cún, mật độ sâu cắn lá
tương đối cao, đỉnh cao mật độ ở 2 điểm điều tra tương ứng vào giai đoạn cây ngô 5 - 6 lá
(4,4 - 5,4 con/10cây) và lúc bắp ngô vào nâu chín sữa (3,4 - 4,5 con/10 cây). Sức ăn của loài
sâu cắn lá ngô là rất lớn. Do đó với mật độ cao như vậy, sự gây hại của chúng có ảnh hưởng

đến năng suất, đặc biệt vào giai đoạn ngô chín sữa, sâu chui vào bắp ăn hạt làm giảm số
lượng hạt/bắp dẫn đến giảm năng suất.
Nguyễn Thị Lương (2003) [21] công bố thành phần sâu hại ngô vụ Xuân
2003

tại Gia Lâm - Hà Nội có 22 loài trong đó có 4 loài sâu hại xuất hiện với mức

độ phổ biến cao là sâu xám, sâu đục thân ngô, sâu xanh và bọ ăn lá 4 chấm trắng.
Nguyễn Xuân Chính (2004) [6] đã phát hiện trên ngô vụ Xuân 2004 tại Gia Lâm - Hà
Nội, xuất hiện 26 loài sâu hại thuộc 5 bộ 15 họ côn trùng; trong đó 4 loài xuất hiện với mức
độ phổ biến cao là sâu xám, sâu đục thân, sâu cắn lá và rệp ngô.
Theo kết quả điều tra của Cục Bảo vệ thực vật thì cây ngô trồng ở nước ta có khoảng
100 loài côn trùng sống và gây hại được chia làm 3 nhóm cơ bản như sau: Nhóm sâu hại chủ
yếu gồm sâu đục thân, sâu xám, rệp ngô; Nhóm sâu hại phổ biến gồm sâu cắn lá, sâu róm,
bọ xít, châu chấu; Nhóm sâu sống cư trú trên cây gồm bọ ba ba xanh, bọ nhảy,... Trong đó
nhóm sâu hại chủ yếu và phố biến được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu nhiều nhất
(Bộ môn
côn trùng, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2004) [1].

về biện pháp phòng trừ sâu hại ngô, đã từ lâu đời người dân đã tự biết chăm sóc ruộng
ngô bằng biện pháp thủ công, tuy nhiên đối với mỗi loài sâu hại thì có những biện pháp
phòng trừ khác nhau như:


1
7

Sâu xám: Làm đất kỹ, vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch cỏ dại; Gieo đúng thời vụ, tập
trung. Dùng bẫy chua ngọt đế diệt thưởng thành sâu xám - làm mồi bẫy theo công thức:
Nước mật (hoặc nước đường) 400gr + dấm 400cc + rượu lOOcc + lOOcc nước +5gr thuốc

Padan khuấy đều thành hỗn họp phun lên bó rơm rạ, cắm quanh bò' ruộng, mỗi sào cắm 1-2
bó. Bắt sâu non bằng tay vào buổi sáng sớm. Dùng 1 - 1,5 kg Basudin 10H hoặc 0,7 kg
Diaphos trộn với đất bột đế rắc theo hàng cho 1 sào.
Sâu đục thân: Gieo đúng thời vụ, xử lý đất, đốt thân lá ngô của vụ trước, diệt sạch cỏ
dại. Dùng 20 đến 30 gam Padan 95 hoặc dùng từ lgam đến 1,5 gam thuốc Regent 800WG
pha với 20 lít nước phun cho 1 sào khi sâu non mới nở hoặc thuốc Diaphos 50EC, Pyrinex
đế phun trừ sâu non sâu đục thân ngô. Ngoài ra có thể dùng thuốc dạng hạt như Basudin
10H, Diaphos 10H rắc 4-5 hạt vào nõn 20EC; Diaphos 10G; Vicarp 4H; Padan 4G; Vibasu
10H để diệt sâu. Sau khi thu hoạch, nên đưa thân cây ngô ra khỏi ruộng và sử dụng cho trâu
bò ăn hoặc làm chất đốt càng sớm càng tốt, đế tiêu diệt những con sâu, nhộng còn nằm bên
trong thân, hạn chế mật độ sâu ở các vụ sau.
Rệp ngô ngô: Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại, diệt môi giới truyền rệp. Trồng ngô
với mật độ hợp lý, thường ở những ruộng ngô trồng với mật độ cao thì rệp hại nặng hơn.
Dùng các loại thuốc đang phố biến như Mospilan 3EC, Trebon 10EC phun 35-55 ml/ sào.
Viện nghiên cứu Ngô cũng đưa ra một quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp trên ngô
như sau: (1) Năm nguyên tắc cơ bản trong quản lý dịch hại tống hợp (IPM) trên cây ngô
gồm:

Trồng



chăm

sóc

cây

khoẻ


Thăm đồng thường xuyên; Nông dân trở thành chuyên gia đồng ruộng; Phòng trừ dịch hại;
Bảo vệ thiên địch. (2) Biện pháp quản lý dịch hại tống họp trên cây ngô gồm: Biện pháp
canh tác (Luân canh cây trồng; Thời vụ gieo trồng hợp lý; Sử dụng hạt giống khỏe, giống
chống chịu sâu bệnh; Gieo trồng với mật độ hợp lý; Sử dụng phân bón hợp lý); Biện pháp
thủ công; Biện pháp sinh học và biện pháp hóa học.
Trong nhóm biện pháp sinh học phòng trừ sâu hại ngô thì côn trùng thiên địch có vai
trò khá quan trọng trong hạn chế sự gia tăng của các loài sâu hại, chúng đã được khá nhiều


1
8

nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Thiên địch của ngô xuất hiện khá phổ biến trên đồng
ruộng. Tại Gia Lâm - Hà Nội, Nguyễn Thị Lương (2003)[21] đã cho biết trên vụ ngô Xuân
năm 2003, xuất hiện 15 loài thuộc 3 bộ, 8 họ. Trong đó bộ cánh cứng có số loài thu được
nhiều nhất (11 loài). Ba loài xuất hiện với mức độ phố biến cao là: Bọ rùa 6 vằn, chân chạy
dạng kiến và bọ cánh cộc.
Phạm Văn Lầm (1996) [17] ghi nhận 72 loài thiên địch của sâu hại ngô. Chúng thuộc
36 họ côn trùng, nhện, nấm và virus. Các loài thiên địch thu thập được nhiều nhất ở bộ cánh
màng (26 loài chiếm 30,6% tống số loài thu thập được) và bộ cánh cứng (19 loài chiếm
26,3%). Bộ nhện lớn đã phát hiện được 13 loài (chiếm 18,1%), bộ cánh nửa có 9 loài (chiếm
12,5%). Các bộ khác như bộ cánh mạch, bộ cánh thẳng, bộ hai cánh, bộ nấm, virus mỗi bộ
phát hiện tò 1 - 4 loài. Trong các loài trên đã xác định tên được của 63 loài gồm 40 loài bắt
mồi ăn thịt (chiếm 57,1%), 17 loài ký sinh trên sâu hại ngô (chiếm 21,45%), 4 loài ký sinh
bậc 2 (chiếm 5,7%), 2 loài ký sinh trên côn trùng ăn rệp ngô (chiếm 2,9%) và 2 loài vi sinh
vật gây hại cho sâu hại ngô (chiếm 2,9%).
Theo Nguyễn Xuân Chính (2004) [6], các loài thiên địch sâu hại ngô thu được 15 loài,
3 loài có mức độ phố biến cao là: Bọ rùa đỏ, bọ rùa 6 vằn và bộ cánh cộc nâu.
Trương Xuân Lam, Vũ Quang Côn (2004) [15] đã có nhận xét số lượng cá thế của
nhóm bắt mồi là bọ xít tỷ lệ số lượng cá thế trên cây ngô đạt 6,93 - 8,52%. Tỷ lệ số lượng cá

thể của nhóm bọ xít bắt mồi (họ Lygaeidae) đạt trung bình 37,02 - 44,91%, nhóm bọ chân
chạy bắt mồi (họ Carabidae) trung bình 9,04 - 20,92%, nhóm ong bắt mồi (họ Vespidae,
Polistidae và Sphecidae) trung bình 10,06 - 14,4% và nhóm côn trùng bắt mồi khác (họ
Staphylinidae, Cicindeliae, Formicidae, Asilidae, Coenagrionidae và Mantidae) trung bình
12,36 - 25,71%. Các nhóm côn trùng bắt mồi có vai trò khá quan trọng trong việc kiếm soát
tập đoàn sâu hại ngô.
1.3.Những vấn để tồn tại chưa được giải quyết
Cây ngô là một trong những cây lương thực có vị trí quan trọng ở Nghệ An. Tuy nhiên
cho đến nay ở Nghệ An hầu như mới chỉ tập trung nghiên cứu khảo nghiệm giống ngô đế


1
9

lựa chọn tập đoàn giống phù hợp với điều kiện khí hậu ở Nghệ An đồng thời nghiên cứu một
số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất cây ngô. Bên cạnh đó còn có một số vấn đề
quan trọng nhưng chưa được các nhà khoa học nghiên cún như:
- Điều tra và xác định đầy đủ thành phần sâu hại trên sinh quần ruộng ngô, xác định
loài sâu gây hại nghiêm trọng (gây hại chính), loài phổ biến và loài ít phố biến trên
sinh quần ruộng ngô.
- Nghiên cúu diễn biến số lượng của các loài sâu chính hại ngô qua các giai đoạn sinh
trưởng của cây ngô tù’ đó xác định thời điếm phát sinh gây hại nặng của sâu trên cây
ngô để khuyến cáo cho người dân chủ động thăm đồng và phòng trù’ kịp thời.
- Nghiên cứu tuổi sâu, giai đoạn phát triển của sâu mẫn cảm nhất với một số loại thuốc
hóa học mà người dân thường dùng để trừ sâu. Từ đó khuyến cáo cho người dân biết
và lựa chọn thời điếm phun thuốc đế đạt hiệu quả trừ sâu cao nhất.
Chính vì những lý do trên đây nên chúng tôi đã tập trung đi sâu nghiên cứu các nội
dung này nhằm góp phần xây dựng quy trình phòng trừ sâu hại trên cây ngô ở huyện Nam
Đàn nói riêng và tỉnh Nghệ An nói chung.
1.4.Những nội dung đề tài tập trung nghiên cứu

-

Điều tra thành phần côn trùng gây hại trên sinh quần ruộng ngô ở huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.

-

Điều tra diễn biến số lượng của các loài sâu hại chính trên ruộng ngô trồng ở 3 vùng
thố nhưỡng đại diện cho huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

-

Bước đầu nghiên cứu đặc điếm sinh học và thử nghiệm một số loại thuốc hóa học
phòng trừ sâu chính hại ngô.

1.5.Đặc điếm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An và huyện Nam Đàn
1.5.1.

Điều kiện tự nhiên, kỉnh tế xã hội tỉnh Nghệ A n

Nghệ An là một tỉnh thuộc vùng Trường Sơn Bắc, có tọa độ địa lý từ 18°35’ - 19°30’
vĩ độ bẳc và 103°52’ - 105°42’ kinh độ đông với tổng diện tích tự nhiên 1.637.068 ha (bằng
1/20 diện tích lãnh thổ Việt Nam).


2
0

Địa hình Nghệ An cú thế chia ra 3 vựng cảnh quan, đây là đặc điếm chi phối đến mọi
hoạt động, nhất là trong sản xuất nụng nghiệp của Nghệ An. Vùng núi cao (chiếm 77% diện

tích), vựng gũ đồi (13%), vùng đồng bằng chỉ chiếm 10% diện tích. Đồng bằng phù sa gồm
các dải đồng bằng Vinh, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Diễn Châu, Đô Lương, Nam Đàn, Hưng
Nguyên, Nghi Lộc. Vùng đất cát ven biển Quỳnh Lun - Diễn Châu, Nghi Lộc - Hưng
Nguyên.
Khí hậu Nghệ An mang đặc tính nhiệt đới gió mùa, với đặc điếm cơ bản là nóng ẩm
mưa nhiều theo mùa. Hàng năm, đất Nghệ An nhận được trung bình 120-140 Kcal/cm 2 bức
xạ mặt trời, nhiệt độ trung bình 23 - 24°c, độ ẩm không khí là 85%, lượng mưa trung bình cả
năm từ 1.600 - 2.000 mm.
Nghệ An là một trong những tỉnh đông dân, với dân số 2.923.647 người (tính đến
21/12/2000), mật độ dân số trung bình toàn tỉnh khoảng 180 người /Km 2. Dân cư phân bố
không đều giữa các vùng, vùng đồng bằng chiếm 10% diện tích nhưng tập trung đến 80%
dân số, vùng núi và gũ đồi chiếm 90% diện tích nhưng chỉ có 20% dân số.
Ngoài ra, sự thay đổi cơ cấu cây trồng cùng với việc đầu tư phân hóa học, thuốc trù’
sâu, thủy lợi tưới tiêu,... đặc biệt từ những năm 70, tỉnh Nghệ An đó chuyến đối mùa vụ, coi
vụ Hè thu là một trong ba vụ sản xuất chính trong năm,... đó là những tác động không nhỏ
đến hệ sinh thái đồng ruộng, trước hết là sâu hại và thiên địch của chúng.
1.5.2.

Điều kiện tự nhiên, kỉnh tế xã hội huyện Nam Đàn

Nam Đàn là huyện nửa đồng bằng, nửa đồi núi có diện tích tự nhiên 29.399,38 ha, có
chiều rộng 10 km, chiều dài 30 Km, trong đó đất nông nghiệp 19.977.000 ha. Cơ cấu sản
xuất bố trí 3 vụ (vụ đông- vụ xuân- vụ hè thu). Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng

23,9°c. Trong những tháng nóng có sự tăng nhiệt độ do ảnh hưởng của áp thấp nóng phía
tây, mùa lạnh bắt đầu cùng với hoạt động của gió mùa Đông Bắc. Tống tích ôn cả năm

8.729°c. Lượng mun trung bình cả năm 1 944,3 mm, độ ấm không khí phố biến từ 84- 86%.
Theo thống kê tính đến ngày 1/4/2009 tổng dân số 155.500 người trong đó tỉ lệ nam chiếm
48,61%, nữ chiếm 51,39%. Mật độ dân số 501 người/Km 2 dân số trong độ tuối lao động



2
1

chiếm 53,7%, nguồn nhân lực chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn.
CHƯƠNG 2.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu

2.1.Địa điếm, thời gian nghiên cứu
* Địa điểm nghiên cứu
- Các ruộng ngô trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Phòng thí nghiệm Sinh thái côn trùng nông nghiệp, Trung tâm thực hành thí nghiệm,
Trường Đại học Vinh.
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012.
2.2.Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
- Các giống ngô được trồng tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Thuốc hóa học: Bassa 50EC, Fastac 5EC, Altach 50EC, Regent 50EC, Padan 95SP.
- Vợt côn trùng (đường kính 40cm, chiều dài 1 - l,2m); Lưới mắt dày đế làm thí
nghiệm phòng trừ sâu hại ngô (ô lưới); Kính hiển vi, kính lúp 2 mắt, kính lúp cầm
tay; số ghi chép số liệu thí nghiệm và số liệu điều tra; Phiếu điều tra diễn biến số
lượng sâu hại ngô ngoài đồng ruộng; Máy chụp ảnh kỹ thuật số Canon 10.0.
2.3.Nội dung nghiên cứu
- Điều tra thành phần loài sâu hại trên ruộng ngô trồng ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An năm 2011 - 2012.
- Diễn biến số lượng của một số loài sâu hại chính (sâu xám, sâu đục thân, rệp ngô và
bọ xít xanh) trên cây ngô trồng ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An năm 2011 - 2012.
- Thử nghiệm một số loại thuốc hóa học phòng trù’ sâu đục thân và bọ xít xanh hại ngô
ở điều kiện thực nghiệm (ô lưới).
2.4.Phương pháp nghiên cứu

Điều tra thành phần loài và diễn biến số lượng của chúng qua các giai đoạn phát triển


2
2

của cây ngô cũng như thử nghiệm phun thuốc trù’ sâu trên một số loài sâu chính hại ngô
tuân thủ theo các phương pháp nghiên cứu thường quy về côn trùng và bảo vệ thực vật (Viện
bảo vệ thực vật, 2000) [30].
2.4.1.

Phương pháp điều tra thành phần sâu hại trên cây ngô

Điều tra thu mẫu định tính: Sử dụng vợt côn trùng có đường kính 40 cm, chiều dài 11,2 m hoặc tay thu bắt toàn bộ các loài sâu hại và thiên địch xuất hiện trên ruộng ngô và khu
vực lân cận, trong số các cá thế côn trùng cùng loài, thu bắt các cá thể đại diện cho các pha
phát triển (Trứng, ấu trùng, nhộng, trưởng thành) ngâm trong cồn 70° đế định loại và bảo
quản mẫu.
Điều tra, thu mẫu định lượng: Mỗi ruộng ngô tiến hành thu mẫu định kỳ
7

ngày/lần, quan sát và đếm số lượng sâu hại tại 5 điểm (2 m 2/ điểm) theo nguyên tắc
đường chéo góc. Các điểm điều tra lần sau không trùng với điểm lần trước. Việc
điều tra được tiến hành vào thời điếm nhất định trong ngày (từ 6h đến 8h sáng).
2.4.2.

Phương pháp nghiên cứu diễn biến so lượng sâu hại ngô

Đe xác định diễn biến số lượng của một số loài sâu hại chính trên sinh quần ruộng ngô,
tiến hành chọn các ruộng điều tra đại diện cho các vùng trồng ngô ở huyện Nam Đàn như
sau:

Vụ ngô đông, chọn các mộng ngô ở xã Khánh Sơn đại diện cho vùng đất bãi ven sông,
xã Vân Diên đại diện cho vùng đất 2 vụ lúa, xã Nam Nghĩa đại diện cho vùng bán sơn địa.
Vụ ngô xuân điều tra trên 2 hình thức canh tác: Ngô thuần và ngô trồng xen với lạc.
Ở mỗi xã (vụ đông) hoặc mỗi hình thức canh tác (vụ xuân) chọn 3 ruộng ngô đại diện
cho khu vực điều tra. Mỗi mộng có diện tích từ 350m 2 đến 500m2, các ruộng cách nhau
khoảng 200 - 300m và hoàn toàn không sử dụng thuốc hóa học trừ sâu, trừ bệnh trong quá
trình điều tra.
Điều tra tình hình diễn biến sâu hại ngô định kỳ 7 ngày/lần theo nguyên tắc 5 điểm
chéo góc, các điểm điều tra không trùng với điểm trước đó. Mỗi điểm điều tra có diện tích
2m2. Theo dõi diễn biến mật độ của sâu hại theo giai đoạn sinh trưởng của cây ngô. Việc
điều tra được thực hiện vào thời gian nhất định trong ngày (6 giờ đến 8 giờ đối với mùa hè
và 7 giờ đến 10 giờ vào mùa đông).


2
3

Đối với các loại sâu hại đặc thù như sâu đục thân, sâu xám, rệp ngô, sâu cuốn lá việc
điều tra xác định mật độ không chính xác vì vậy xác định số lượng của chúng thông qua tỷ
lệ cây bị hại trên đồng ruộng.
2.4.3.

Phương pháp nghiên cứu đặc điếm sinh học của
bọ

xanh
(Nezara viridula L.) và sâu đục thân ngô (Ostrinia nubilalis H.)
Nuôi bọ xít xanh hoặc sâu đục thân ngô trong lọ nhựa sạch đường kính từ 15-20 cm và
cao 15 - 25cm, có bông giữ ấm, đậy vải màn đế thông khí, mỗi lọ nuôi đều có ký hiệu
(etyket) riêng, tương úng với phiếu theo dõi. Mỗi lọ nuôi một cặp (1 đực, 1 cái) hoặc nuôi

theo nhóm, các lọ nuôi được đặt trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Hàng ngày cho chúng ăn thức ăn là cây ngô non hoặc bắp ngô non. Theo dõi và đếm
số trứng đẻ/ổ/1 con cái, tỷ lệ nở của trúng và vũ hóa thành trưởng thành. Các thí nghiệm
được lặp lại ít nhất 3 lần, số lượng cá

thế theo

dõi ở mỗi lần thí nghiệm từ 20 - 30 cá thể/ đối tượng nuôi.
2.4.4.

Phương pháp thử nghiệm một so loại thuốc hỏa học phòng trừ bọ xít

xanh (Nezara viridulaL.) và sâu đục thân ngô (Ostrinia nubilalis H.)
* Thử nghiêm phòng trừ bọ xít xanh (Nazara viridula L.)
- Thí nghiệm 1. Phòng trừ bọ xít xanh trong điều kiện phòng thí nghiệm
Tiến hành thu bắt các cá thể trưởng thành của bọ xít trên các ruộng ngô hoặc đậu đưa
về nuôi tại phòng thí nghiệm Sinh thái côn trùng nông nghiệp. Nuôi bọ xít trong các lọ sạch
có đường kính tò 15- 20cm, cao 15- 25 cm, đậy vải màn thông khí và cung cấp thức ăn sạch
thường xuyên (bắp ngô hoặc cây ngô non). Sử dụng các thuốc: Bassa 50EC, Fastac 5EC,
Altach 50EC để phòng trừ.
Thí nghiệm gồm 4 công thức (CT), 3 lần lặp lại. Mỗi công thức phun cho 2 lọ nuôi, 5
bọ xít trưởng thành/1 lọ, tống số là 24 lọ và 120 bọ xít trưởng thành. Phun thuốc theo nồng
độ khuyến cáo, công thức đối chứng phun bằng nước lã. Trong đó:
CT1: Phun thuốc Bassa 50EC CT2:


2
4

Phun thuốc Altach 50EC CT3: Phun

thuốc Fastac 5EC CT4: Đối chứng
(Phun nước lã)
Theo dõi số lượng bọ xít chết ở các lọ thí nghiệm sau khi phun thuốc 1,
3, 5, ngày.
- Thí nghiệm 2. Phòng trù’ bọ xít xanh trong điều kiện ô lưới Các ô thí nghiệm trồng
ngô có diện tích là 1 m2 và dùng lưới bao quanh. Tiến hành phun thuốc Fastac 5EC
đối với các tuổi của bọ xít: Tuổi 1 và 2; Tuổi 3; Tuổi 4; Tuổi 5 và trưởng thành với
mật độ 10 con/m2. Bọ xít xanh trong các thí nghiệm này là các cá thể khỏe mạnh
được thu bắt từ tự nhiên. Thí nghiệm gồm 6 công thức và bố trí theo phương pháp
khối ngẫu nhiên hoàn toàn (RCB), 3 lần lặp lại. Phun thuốc vào buổi chiều mát theo
nồng độ và liều lượng khuyến cáo.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Dải bảo vệ
«L).
>
o
«■c
«■c


CT3

CT6

CT5

CT2

CT1


CT4

CT6

CT3

CT1

CT2

CT5

CT4

CT5

CT3

CT2

CT4

CT1

CT6

Dải bảo vệ

o
P'

o*
po
<
•ò>

Trong đó:
CT1: Bọ xít xanh tuổi 1,

2

CT4:

Bọ xít xanh tuổi 5

CT2: Bọ xít xanh tuối 3

CT5:

Bọ xít xanh trưởng thành

CT3: Bọ xít xanh tuổi 4

CT6:

Đối chứng phun nước lã

Theo dõi số lượng sâu chết do thuốc và

chết tụ’ nhiên ở các ô thí nghiệm


sau khi phun 1, 3, 5, 7, 9 ngày.
* Thử nghiệm phòng trừ sâu đục thân ngô (Ostrina nubilailỉs H.)
Thu bắt sâu đục thân ngô từ tự nhiên về thả vào các chậu đã trồng sẵn ngô trước đó.
Thí nghiệm gồm 4 công thức, 3 lần lặp lại. Mỗi công thức phun cho 10 chậu, 1 sâu/chậu


2
5

(ngô ở giai đoạn cây non), tổng 120 chậu/120 sâu. Tiến hành thả sâu 2 ngày trước khi phun
đế sâu thích nghi với ký chủ mới. Sử dụng các loại thuốc Rigent 50EC, Padan 95SP, Altach
50EC để phòng trừ. Phun thuốc theo nồng độ khuyến cáo, công thức đối chứng phun bằng
nước lã. Theo dõi số lượng sâu đục thân chết ở các ở các chậu thí nghiệm sau 1,3,
5, 7 ngày.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
CT2

CT3

CT4

CT1

CT3

CT1

CT2

CT4


CT1

CT4

CT3

CT2

Trong đó:
CT1: Phun thuốc Regent 50EC CT2:
Phun thuốc Padan 95SP CT3: Phun thuốc
Altach 50EC CT4: Đối chứng (phun
nước lã)
- Theo dõi số lượng sâu chết ở các ô thí nghiệm sau 1, 3, 5, 7 ngày sau khi phun.
2.4.5.

Phương pháp định loại

* Tài liệu định loại
Cánh cứng (Coleoptera) định loại theo các tài liệu của Andrewes (1929); Andrewes
(1935); Barrion và Litsinger (1994); Hoàng Đức Nhuận (2007); Li Yongxi et al., (1988).
Bọ xít (Heteroptera) định loại theo các tài liệu của Distant (1902); Distant (1908);
Barrion và Litsinger (1994); Li Yongxi et al. (1988).
Các nhóm côn trùng khác định loại theo các tài liệu của Phạm Văn Lầm (1994);
Shepard và ctv (1989); Shun - Ichi et al. (1994); Yasumatsu, Watanabe (1964); Yasumatsu,
Watanabe (1965); Yasumatsu (1982).
* Nguyên tẳc định loại
Nguyên tắc định loại được tiến hành theo Mayr, 1974.



×