Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

KINH NGHIỆM THỰC TIỂN VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH THEO KẾT QUẢ ĐẦU RA TẠI CÁC QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.78 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN MÔN KẾ TOÁN CÔNG
ĐỀ TÀI 25:

KINH NGHIỆM THỰC TIỂN VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
THEO KẾT QUẢ ĐẦU RA TẠI CÁC QUỐC GIA

GVHD

: PHẠM QUANG HUY

Lớp

: Kế toán ngày – K20

SVTH

: Nguyễn Thị Vị Nhân

Tp.Hồ Chí Minh, 11/2012
0


MỤC LỤC
----MỤC LỤC

1



A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2

I. Khái niệm

2

1. Ngân sách nhà nước là gì

2

2. Những nguyên tắc cơ bản quản lý ngân sách nhà nước

2

3. Các phương thức quản lý ngân sách nhà nước

3

II. Phương thức tạo lập và quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra

3

1. Khái niệm

3

2. Đặc điểm của phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra


3

3. Mục đích của phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra

4

4. Vai trò của phương thức lập ngân sách theo đầu ra

4

5. Cách thức tạo lập và quản lý ngân sách theo đầu ra

4

B. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TỪ CÁC QUỐC GIA

5

I. Kinh nghiệm Nhật Bản

5

II. Kinh nghiệm Malaysia

8

III. Kinh nghiệm Singapore

11


IV. Ứng dụng quản lý ngân sách Nhà nước theo kết quả đầu ra và
bài học cho Việt Nam

13

Tài liệu tham khảo

16

1


A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. Khái niệm
1. Ngân sách nhà nước là gì
Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" là một khái niệm được sử dụng rộng rãi
trong đời sống kinh tế, xã hội ở các quốc gia. Tuy nhiên định nghĩa thế nào là
ngân sách nhà nước (NSNN) vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, tuỳ theo quan
điểm của từng trường phái kinh tế, hoặc tuỳ theo các mục đích nghiên cứu
khác nhau của người đưa ra định nghĩa:
 Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là văn
kiện tài chính, mô tả các khoản thu, chi của Chính phủ, được thiết lập hàng
năm.
 Các nhà kinh tế học hiện đại cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về
NSNN. Ví dụ:
 Các nhà kinh tế phương Tây cho rằng NSNN là quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước.
 Theo các nhà kinh tế Nga, NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi
bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.

 Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khóa 11, ngày 16/12/2002 đã
xác định tại Điều 1, Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH khái niệm
về NSNN như sau: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và
được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước”.
2. Những nguyên tắc cơ bản quản lý ngân sách nhà nước
Quản lý NSNN được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau:
 Nguyên tắc thống nhất: đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, hiệu quả; hạn
chế những tiêu cực và những rủi ro, nhất là những rủi ro có tính chất chủ
quan khi quyết định các khoản chi tiêu.
 Nguyên tắc dân chủ: một ngân sách tốt phải phản ảnh lợi ích của các tầng
lớp, các bộ phận, các cộng đồng người trong các chính sách, hoạt động thu
chi ngân sách. Sự tham gia của xã hội, công chúng được thực hiện trong
suốt chu trình ngân sách, từ lập dự toán, chấp hành đến quyết toán ngân
sách, thể hiện nguyên tắc dân chủ trong quản lý ngân sách. Sự tham gia
của người dân sẽ làm cho ngân sách minh bạch hơn,
 Nguyên tắc cân đối ngân sách: kế hoạch ngân sách được lập và thu, chi
ngân sách phải cân đối. Mọi khoản chi phải có nguồn thu bù đắp.
 Nguyên tắc công khai, minh bạch: công khai, minh bạch trong quản lý sẽ
tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định thu
chi tài chính, hạn chế những thất thoát và đảm bảo tính hiệu quả và nguyên
tắc này được thực hiện trong suốt chu trình ngân sách.
 Nguyên tắc quy trách nhiệm: yêu cầu trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân
trong quá trình quản lý ngân sách, bao gồm:
 Quy trách nhiệm giải trình về các hoạt động ngân sách, chịu trách
nhiệm về các quyết định về ngân sách của mình.
 Trách nhiệm đối với cơ quan quản lý cấp trên và trách nhiệm đối với
công chúng, đối với xã hội.
Quy trách nhiệm yêu cầu phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của

từng cá nhân, đơn vị, chính quyền các cấp trong việc thực hiện ngân sách
Nhà nước theo chất lượng công việc đạt được.
2


3. Các phương thức quản lý ngân sách nhà nước
Trong quản lý tài chính công, có các phương thức quản lý NSNN như sau:
 Quản lý ngân sách theo khoản mục: các nội dung ngân sách được khoản
mục hóa. Những khoản mục này luôn được chi tiết và định rõ khoản theo
từng tiểu mục. Với phương thức này các cơ quan, đơn vị phải thực hiện
theo đúng khoản mục quy định và cơ chế trách nhiệm giải trình tập trung
vào các yếu tố đầu vào.
 Quản lý ngân sách theo công việc thực hiện: phân bổ nguồn lực theo
những khối lượng hoạt động của mỗi cơ quan, đơn vị trên cơ sở gắn kết
công việc với chi phí bỏ ra. Quản lý ngân sách theo công việc thực hiện
cho phép ngân sách được xây dựng không phát sinh thêm, mà dựa vào
khối lượng công việc được tiên đoán trước.
 Quản lý ngân sách theo chương trình: tập trung vào sự lựa chọn của ngân
sách trong số các chính sách, chương trình có tính cạnh tranh. Quản lý
ngân sách theo chương trình thiết lập một hệ thống phân phối nguồn lực,
gắn kết chi phí chương trình với kết quả của những chương trình đầu tư
công. Đây là phương thức lập ngân sách đòi hỏi các mục tiêu chương trình
phải kéo dài hơn một năm ngân sách. Bên cạnh đó, lập ngân sách theo
chương trình yêu cầu phải đo lường tính hiệu lực, nghĩa là đo lường đầu ra
và tác động đến mục tiêu.
 Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra: là một công cụ vô cùng quan trọng
trong quản lý công, tạo điều kiện để sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm
đạt được kết quả mong muốn. Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra là
phương thức lập ngân sách dựa vào cơ sở tiếp cận thông tin đầu ra để phân
bổ và đánh giá sử dụng nguồn lực tài chính nhằm hướng vào đạt được

những mục tiêu chiến lược phát triển Nhà nước.
II. Phương thức tạo lập và quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra
1. Khái niệm
 Lập ngân sách theo kết quả đầu ra (NSĐR) là một hoạt động quản lý ngân
sách dựa vào cơ sở tiếp cận những thông tin đầu ra để phân bổ và đánh giá
sử dụng nguồn lực tài chính nhằm hướng vào đạt được những mục tiêu
chiến lược phát triển của chính phủ.
 Lập NSĐR bao hàm một chiến lược tổng thể nhằm đạt được những thay
đổi quan trọng trong việc quản lý và đo lường công việc thực hiện của các
cơ quan nhà nước so với mục tiêu đề ra.
2. Đặc điểm của phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra
 Ngân sách lập theo tính chất mở, công khai, minh bạch.
 Các nguồn tài chính của Nhà nước được tổng hợp toàn bộ trong dự toán
ngân sách nhà nước.
 Ngân sách được lập theo thời gian trung hạn.
 Ngân sách được lập căn cứ theo nhu cầu thực tế, hướng tới người thụ
hưởng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
 Ngân sách được hợp nhất giữa kế hoạch chi thường xuyên và chi đầu tư
phát triển.
 Ngân sách được lập dựa trên nguồn lực được tính trong thời gian trung hạn
và do vậy cần có sự cam kết chặt chẽ.
 Việc phân bổ ngân sách dựa trên thứ tự ưu tiên chiến lược.
3


 Phi tập trung hóa trong quản lý ngân sách, người quản lý được trao quyền
chủ động và trách nhiệm nhiều hơn trong quản lý chi tiêu công.
3. Mục đích của phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra
 Tăng cường quản lý chiến lược và tập trung nâng cao hiệu quả của các cơ
quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Đặt ra những mục tiêu rõ ràng

và cụ thể, tạo điều kiện cho các cơ quan ở khu vực công đạt được mục tiêu
của mình và thông qua một khung kế hoạch, quản lý và hoạt động rõ ràng.
 Gắn các yếu tố đầu vào thuộc nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác
với kết quả đầu ra dự kiến để đạt được mục tiêu và giúp cho việc phân bổ
nguồn lực thể hiện được những ưu tiên. Tập trung vào kết quả đầu ra chính
và các ưu tiên chính hơn là thực hiện các hoạt động hoặc quy trình.
4. Vai trò của phương thức lập ngân sách theo đầu ra
 Quản lý NSĐR góp phần đổi mới chính sách quản lý nguồn lực của khu
vực công nhằm thiết lập 3 vấn đề cơ bản trong quản lý chi tiêu công, đó là:
 Tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể.
 Phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính theo các mục tiêu ưu tiên
chiến lược trong giới hạn nguồn lực cho phép.
 Nâ.ng cao hiệu quả hoạt động về cung cấp hàng hóa công
 Quản lý NSĐR tăng cường các nguyên tắc quản lý tài chính của khu vực
công với mục tiêu là cải thiện sự phân phối và quản lý nguồn lực, việc
thực hiện cung ứng hàng hóa công và tính minh bạch, trách nhiệm. Quản
lý NSĐR cho phép chính phủ và cơ quan đặt đúng quy trình thông tin cần
thiết nhằm:
 Xác định cái gì sẽ đạt được ( kết quả mong muốn).
 Xác định, chi tiết và đo lường (chi phí và số lượng):
o Cái gì nên được làm (các đầu ra được sản xuất/ hoặc mua sắm).
o Cái gì sẽ được làm (các đầu ra sẽ được sản xuất/ hoặc mua sắm).
 Minh họa và kiểm tra mối liên hệ giữa cái gì được sản xuất/ mua sắm
(các đầu ra) và cái gì sẽ đạt được (các kết quả) so với cái gì nên đạt
được (các kết quả mong muốn).
 Nguồn lực tài trợ cho các đầu ra cần thiết để đạt được các kết quả
mong muốn.
 Quản lý NSĐR đặt chính phủ và các cơ quan vào vị trí để đảm bảo rằng:
 Các đầu ra theo yêu cầu để được tài trợ mà nó được xác định thông qua
những mối liên hệ được miêu tả với các kết quả.

 Các đầu ra theo yêu cầu được tài trợ ở những mức độ khối lượng, giá
cả và chất lượng cụ thể.
 Các đầu ra hướng tới mục tiêu và được cung cấp trong khuôn khổ thời
gian yêu cầu.
5. Cách thức tạo lập và quản lý ngân sách theo đầu ra
Tạo lập và quản lý NSĐR phải đặt trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn. Quản lý
NSĐR yêu cầu phải thay đổi phương thức soạn lập ngân sách theo khuôn khổ
chi tiêu trung hạn (MTEF: Medium-Term Expenditure Framework) nhằm kết
nối chính sách, lập kế hoạch và lập ngân sách phù hợp với năng lực của quốc
gia.
Khuôn khổ chi tiêu trung hạn là phương pháp soạn lập NSNN được xác định
trong một giai đoạn dài hơn, trong đó nó giới hạn nguồn lực tổng thể từ trên
xuống và kết hợp với các dự toán kinh phí từ dưới lên hợp thành chính sách
4


chi tiêu được phân bổ phù hợp với các ưu tiên chiến lược đã được Chính phủ
chấp nhận.
MTEF được xây dựng dựa trên nhận thức nguồn lực tài chính của quốc gia có
giới hạn và không tăng trong khoảng thời gian trung hạn, ít ra là 3-5 năm. Vì
vậy, để đạt được những kết quả cao hơn từ những nguồn lực hiện có đòi hỏi
phải thiết lập các công cụ để phân bổ nguồn lực này phù hợp với mục tiêu
chiến lược ưu tiên. Nói khác hơn, MTEF yêu cầu:
 Đánh giá mọi nguồn lực sẵn có, ước tính chi phí thực tế của việc thực hiện
chính sách.
 Tập trung tất cả nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược.
 Phân bổ nguồn lực theo các ưu tiên chiến lược của chính sách một cách
minh bạch.
Mục tiêu của MTEF:
 Khắc phục phương pháp soạn lập ngân sách tăng thêm, cắt giảm tuỳ tiện,

tách biệt ngân sách thường xuyên và ngân sách đầu tư, thiếu minh bạch
trong phân bổ nguồn lực. Việc lập kế hoạch ngân sách trung hạn không thể
thay thế chu kỳ lập ngân sách hàng năm, nhưng đem lại nền tảng cho
chính sách tài chính trong quy trình ngân sách hàng năm. MTEF tạo ra cơ
sở chiến lược cho tạo lập ngân sách để hướng các khoản chi tiêu nhằm đạt
được các mục tiêu đề ra; gắn kết tất cả các khoản chi tiêu bao gồm chi đầu
tư và chi thường xuyên với tổng thể nguồn lực sẵn có (nguồn lực trong
nước và nước ngoài). Quy trình lập ngân sách minh bạch khắc phục việc
khởi xướng đưa ra những chính sách phi thực tế về mặt tài chính.
 Hướng dẫn phân bổ chi tiêu ngân sách từ trung ương đến địa phương trong
sự gắn kết với các ưu tiêu phát triển dựa trên đánh giá nguồn lực tổng thể
và đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực.
 Nâng cao tính hiệu quả của chi tiêu bằng việc yêu cầu các cơ quan, đơn vị
sử dụng ngân sách phải xác định nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động và đo
lường công việc thực hiện giữa đầu ra với đầu vào và đầu ra với kết quả.
 Đưa ra tầm nhìn trung hạn để cho các ngành, các địa phương lập kế hoạch
trước và xác định những chương trình có thể được duy trì. Ngân sách
trung hạn được lập trong giai đoạn 3-5 năm; từng năm một, dự toán ngân
sách được đưa vào, và do vậy đảm bảo tính liên tục của của ngân sách
trung hạn.
B. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TỪ CÁC QUỐC GIA
I. Kinh nghiệm Nhật Bản
Hướng phân bổ ngân sách và đánh giá chính sách dựa trên kết quả
Với diện tích 380 ngàn km2, dân số năm 2011 là 128 triệu người, Nhật bản là nền
kinh tế phát triển và lớn thứ 3 thế giới sau Mỹ và Trung Quốc, GDP bình quân đạt
43.168 USD/người (năm 2010).
Từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, Chính phủ Nhật Bản đã có những cố gắng
đầu tiên triển khai thực hiện hệ thống ngân sách dựa trên chính sách và chương
trình (Policy and Program Budgeting System-PPBS) ở cấp quốc gia. Tuy nhiên,
chương trình đã bị thất bại do sự phản đối của các nhóm chính trị đối lập. Mãi đến

những năm 60, Chính phủ mới thông qua được chiến lược phát triển kế hoạch quốc
gia nhằm nâng thu nhập lên gấp đôi, với một lộ trình tái cơ cấu ngành công nghiệp
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sự vận hành PPBS trải
qua các giai đoạn sau:
5


 Giai đoạn 1971-1999: khủng hoảng tài chính quốc tế và khủng hoảng năng
lượng trong thập niên 70 đã tác động nghiêm trọng tới kinh tế Nhật. Chính phủ
đã áp dụng hệ thống PPBS để kết hợp giữa việc phân bổ ngân sách với những
chính sách ưu tiên. Các biện pháp hành chính được ban hành để tạo khung pháp
lý cho cải cách chuyển đổi từ phương pháp truyền thống sang hệ thống PPBS.
Đồng thời, triển khai công tác đánh giá ở một số Bộ như Bộ Công nghiệp và
Thương mại (MITI 1997) bằng chương trình “Cải cách hành chính
Hashimoto”. Tuy nhiên, việc đánh giá rất chiếu lệ nên đã dẫn đến mâu thuẫn
chính sách giữa các Bộ. Hàng loạt phản đối từ Bộ Tài chính, các Bộ khác cũng
như các đảng cầm quyền, đảng không cầm quyền khiến OAG phải triển khai
thêm các kiểm toán hành chính ngoài các kiểm toán tài chính. Phải đến 19901991, khi tăng trưởng kinh tế và ngân sách bị suy giảm kéo dài mới có những
biện pháp quyết liệt về cải cách hệ thống tài chính và giám sát đánh giá.
 Giai đoạn 1990-2000 là thời kỳ suy thoái kinh tế, phát sinh 3 sức ép là thâm
hụt tài chính tăng cao ở cả cấp độ quốc gia và địa phương; Sự đòi hỏi phải quan
tâm hơn đến bộ phận dân cư yếu thế trong bối cảnh kinh tế trì trệ dẫn đến tỷ lệ
thất nghiệp trong thanh niên cao; Xu hướng thế giới đang thịnh hành áp dụng
phương pháp đánh giá chính sách để quản lý dựa trên kết quả (Policy and
Program Evaluation for Result based Management and Budgeting System PERBM). Do vậy, Chính phủ Nhật phải đưa ra các chính sách mới, trong đó có
việc chính thức áp dụng PERBM nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế có nhiều thay đổi và yêu cầu tăng phúc lợi cho dân
chúng. Năm 2000, Tổng cơ quan hành chính (GAA) đã ban hành Hướng dẫn
đánh giá chính sách
 Giai đoạn 2001-2012: Hệ thống đánh giá chính sách và chương trình cho việc

quản lý và phân bổ ngân sách dựa trên kết quả PERBM. Áp dụng hệ thống
đánh giá quốc gia trong tất cả các Bộ và các cơ quan:
 Trước tiên, thành lập Hội đồng chính sách kinh tế-tài chính do Thủ tướng
đứng đầu và chỉ định một Bộ trưởng chịu trách nhiệm soạn thảo chính
sách kinh tế-tài chính. Chính sách này được thông qua sẽ là định hướng
chính sách chính cho tất cả các Bộ, ngành phải theo và được Bộ Tài chính
tổng hợp trình.
 Thứ 2, thông qua Luật tổ chức Chính phủ được Quốc hội phê chuẩn trong
năm 2002, Ủy ban cải cách hành chính trực thuộc Chính phủ được trao
quyền triển khai, giám sát và đánh giá tất cả các chính sách/chương
trình/dự án lớn của các Bộ, nhằm giảm thiểu sự lãng phí, giúp giảm thâm
hụt ngân sách.
Đến cuối năm 2006, thâm hụt ngân sách giảm từ bằng 190% GDP xuống
120% GDP; từ 19 Bộ xuống còn 14 Bộ; số lượng công chức giảm dần 1%/năm
bằng cách tinh giảm, đào tạo lại và tư nhân hóa một số các loại hình dịch vụ
công. Ngoài ra, Chính phủ cũng chủ trương tạo áp lực cạnh tranh thị trường
trong toàn Chính phủ và các cơ quan dưới quyền. Tư nhân hóa dịch vụ bưu
điện, loại bỏ độc quyền và đặc lợi
Giám sát, đánh giá chính sách nội bộ và từ bên ngoài:
Theo Luật đánh giá chính sách năm 2001, các Bộ phải đánh giá nội bộ tất cả các
chính sách/chương trình thuộc Bộ quản lý và gửi đến cơ quan tổng hợp của Chính
phủ để tổng hợp và trình Nội các. Đây sẽ là cơ sở cho việc phân bổ ngân sách. Các
báo cáo đánh giá chính sách này được công bố rộng rãi hàng năm. Để cho việc
đánh giá chính sách minh bạch và hiệu quả, các Bộ phải xây dựng kế hoạch triển
6


khai ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với các chỉ số giám sát, đánh giá để đo mức độ
thành công hay thất bại của chính sách/chương trình.
Ngoài ra, cũng có quy định về giám sát, đánh giá từ bên ngoài nhằm kiểm chứng

lại những giám sát, đánh giá nội bộ, sử dụng tiêu chí do Bộ Tổng phụ trách hành
chính (MGA) ban hành và công bố trong bản hướng dẫn. Các tiêu chí gồm:Tính
phù hợp; Tính hiệu quả; Tính hiệu lực; Tính tác động; Tính bền vững. Trong
hướng dẫn đánh giá chính sách còn mở rộng thêm một số tiêu chí nữa như: Tính
cần thiết và thiết thực; Tính công bằng, bình đẳng; Sự cấp thiết; Những khía cạnh
đổi mới; Khả năng thay thế; Khả năng vận động đối tác.
Đánh giá chiến lược quốc gia, các chính sách và mục tiêu:
Đầu tháng 6/2010, chính phủ Nhật đã thông qua “Chiến lược tăng trưởng mới” với
các mục tiêu trung hạn, dài hạn đến năm 2020. Hệ thống chính sách vận hành dựa
trên cơ sở kết quả đánh giá, không phụ thuộc vào sự biến động nhân sự của Chính
phủ.
Hội đồng đánh giá chính sách độc lập bên cạnh Văn phòng Chiến lược quốc gia
chịu trách nhiệm xem xét tất cả các báo cáo đánh giá nội bộ của các Bộ trình lên và
nhắc nhở các Bộ xem xét lại các chương trình, dự án (nếu cần thiết) nhằm đạt được
mục tiêu tổng thể của chiến lược tăng trưởng mới:
 Đánh giá toàn diện mục tiêu dài hạn và các chỉ tiêu và các biện pháp của các
chính sách/chương trình (CS/CT) trong bối cảnh có nhiều biến đổi về môi
trường chính sách cả ở trong nước và quốc tế;
 Xây dựng các chỉ số có thể đo đếm, giải trình và kiểm tra được để đánh giá kết
quả của các CS/CT này;
 Làm rõ mức độ đóng góp của CS/CT này cho Chiến lược tăng trưởng mới;
 Lập kế hoạch đánh giá CS/CT mức độ hoàn hành các mục tiêu, chỉ tiêu trung
hạn nhằm đảm bảo cho sự thành công của chiến lược tăng trưởng mới vào
2020;
 Xây dựng hệ thống số liệu thống kê, điều tra với các chỉ số để đánh giá CA/CT
dựa trên bằng chứng và kết quả;
 Lưu giữ các báo cáo này như là tài liệu không tách rời của Chiến lược để minh
chứng cho chu trình PDCA trong tất cả các hoạt động của Chính phủ.
Những khó khăn thách thức trong triển khai PERBM:
Khi áp dụng PERBM, các khó khăn thách thức thường gặp phải là:

 Khó nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của các nhà chính trị và nội các Chính phủ
 Xu hướng theo chủ nghĩa dân túy (lắng nghe nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội).
 Nhu cầu hoàn thiện thể chế và công tác đánh giá nhằm nâng cao thực thi chính
sách.
 Phân bổ ngân sách quốc gia nhằm đáp ứng những ưu tiên trong chính
sách/chương trình.
Định hướng chuyển đổi PERBM hiện hành sang TAP2E3BS:
TAP2E3BS là viết tắt của các từ: minh bạch, giải trình, hướng tới người dân, có sự
tham gia, hiệu quả, hiệu lực và công bằng trong hệ thống phân bổ ngân sách
(Transparent, Accountable, People-oriented, Participatory, Efficient, Effective and
Equitable Approach to Budgeting System). Cách tiếp cận này sẽ phản ánh được
nhu cầu đa dạng của người dân, hướng tới phúc lợi kinh tế, xã hội cho dân; đảm
bảo cho các chính sách, chương trình được triển khai một cách hiệu quả, hiệu lực
và công bằng xã hội. TAP2E3BS đang ngày càng nhiều thành phố của Nhật áp
dụng.
Quản lý ngân sách ở Nhật
7


Năm ngân sách của Nhật bắt đầu từ ngày 1/4 và kết thúc vào ngày 31/3 năm sau
đó. Quy trình ngân sách ở Nhật Bản được bắt đầu ngay đầu năm ngân sách hiện
hành với vai trò đầu mối của Bộ Tài chính. Qui trình này chia thành các bước
chính:
 Lập dự toán thu chi ngân sách (từ tháng 4 đến tháng 8): các bộ chuẩn bị yêu
cầu ngân sách (dự toán thu chi ngân sách của bộ mình). Hội đồng chính sách
kinh tế và tài chính kiểm tra hướng dẫn chuẩn bị yêu cầu ngân sách và Chính
phủ ban hành hướng dẫn chuẩn bị yêu cầu ngân sách. Các Bộ gửi dự toán ngân
sách về Bộ Tài chính trên cơ sở giới hạn trần ngân sách do Bộ Tài chính ban
hành sau khi thống nhất với Thủ tướng và Chánh văn phòng Nội các.
 Từ tháng 9 đến tháng 12, Bộ Tài chính làm việc với các bộ chi tiêu để thống

nhất và hoàn thiện dự toán ngân sách trình Chính phủ. Đến giữa tháng 12, bản
dự thảo Dự toán ngân sách được trình ra Chính phủ. Ở giai đoạn này, mọi
vướng mắc chưa được thống nhất, chủ yếu những vấn đề mang tính chính trị,
sẽ được Chính phủ quyết định
 Chậm nhất đầu tháng 1, Chính phủ trình Dự toán ngân sách mới ra Quốc hội.
Quốc hội sẽ thảo luận và quyết định ngân sách vào tháng 3 hàng năm.
II. Kinh nghiệm Malaysia
Malaysia có diện tích tự nhiên là 329,8 ngàn km2, dân số năm 2011 là 28,9 triệu
người. GDP bình quân gần 8.400 USD/người (theo giá thực tế).
Malaysia là một trong những nước có thành tựu phát triển kinh tế tốt nhất khu vực
Đông Nam Á, GDP tăng trưởng đạt bình quân 6,5% trong suốt 50 năm. Thành tựu
nổi bật này là kết quả của việc đổi mới quản lý kinh tế theo hướng nền kinh tế mở,
công nghiệp hóa và hướng ra xuất khẩu. Trong đổi mới quản lý kinh tế, phương
pháp phân bổ ngân sách dựa trên kết quả chương trình (Program Performance
Budgeting System –PPBS) được áp dụng kể từ năm 1969. Quá trình áp dụng và
phát triển PPBS trải qua các giai đoạn:
 Kể từ năm 1969 bắt đầu áp dụng PPBS đến năm 1990, việc phân bổ ngân sách
căn cứ trên cơ sở thiết lập và đo kết quả thực hiện các chương trình và hoạt
động thông qua các chỉ số chính của các chương trình và hoạt động, đánh giá
tác động của các chương trình và hoạt động này. Phương pháp này phát huy ưu
điểm về tính minh bạch và gắn kết giữa kết quả thực hiện chương trình với chi
phí nguồn lực bỏ ra.
 Giai đoạn 1990-2010, cùng với đòi hỏi phải phân quyền nhiều hơn cho phù hợp
với yêu cầu của một nền kinh tế ngày một lớn mạnh, năm 1990 hệ thống PPBS
đã được đánh giá và điều chỉnh lại thành Hệ thống phân bổ ngân sách sửa đổi
(Modified Budgeting System-MBS). MBS thể hiện sự gắn kết các nguyên tắc
tài chính trong các kế hoạch chiến lược và chính sách. Đồng thời, tăng cường
phân quyền theo nguyên tắc nâng cao trách nhiệm giải trình, quyền tự quyết, tự
chịu trách nhiệm của các cấp quản lý “để các nhà quản lý tự quản lý”.
 Từ 2010 đến nay: dù đã có nền tảng cơ bản, nhưng nền kinh tế Malaysia vẫn

chưa đạt được mức phát triển như trước khi khủng hoảng tài chính châu Á xảy
ra. Chính phủ đã ban hành chính sách chuyển đổi quốc gia (National
Transformation Policy–NTP), bao gồm chương trình chuyển đổi của Chính phủ
(GTP) và chương trình chuyển đổi kinh tế (ETP). Để đảm bảo cho quá trình
phát triển bền vững, Kế hoạch 10 năm lần thứ 10 (giai đoạn 2011-2020) của
Malaysia đã được thông qua với cách tiếp cận mới đó là cách tiếp cận dựa trên
kết quả (Outcome Based Approach-OBA). Cách tiếp cận này là một công cụ
8


quản lý chiến lược nhằm đảm bảo cho mối liên kết chặt chẽ giữa công tác kế
hoạch, triển khai thực hiện các chương trình, bố trí các nguồn lực nhằm đạt
được mục tiêu, kết quả đề ra là trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm
2020. Văn phòng Thủ tướng là cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế quốc dân trung và dài hạn, các chính sách và chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở đó, mỗi Bộ sẽ xây dựng kế hoạch, xác định các
lĩnh vực chủ chốt và chương trình của ngành mình. Để đảm bảo cho OBA
thành công, 4 sáng kiến đã được đề xuất trong triển khai kế hoạch và điều hành
của Chính phủ để đảm bảo hiệu quả trong đầu tư công, gắn kết chặt chẽ giữa
chi tiêu ngân sách và kết quả đạt được:
 Áp dụng hệ thống phân bổ ngân sách dựa trên kết quả (Outcome Based
Budgeting-OBB), dự kiến sẽ áp dụng từ năm tài chính 2013. Với hệ thống
này, nhu cầu về kinh phí đầu tư và chi phí vận hành cho mỗi chương trình
được lồng ghép làm một
 Áp dụng kế hoạch 2 năm cuốn chiếu trong kế hoạch 5 năm: Phương pháp
này giúp cho Chính phủ có thể cam kết thực hiện các mục tiêu/chương
trình trong pham vi và khả năng nguồn lực; có thể điều chỉnh một cách
linh hoạt hơn khi có cơ hội. Các dự án, chương trình được phân bổ ngân
sách cho một chu kỳ 2 năm để đảm bảo tính liên hoàn giữa kế hoạch và
triển khai thực hiện.

 Gắn kết cách tiếp cận tổng hợp trong công tác kế hoạch: Tăng cường công
tác phối hợp giữa các cơ quan trong giai đoạn đầu chuẩn bị kế hoạch để
đảm bảo rằng các nguồn lực được bố trí hợp lý, hiệu quả. Cách tiếp cận
tổng hợp đòi hỏi các thành phần liên quan phải kiểm tra một cách toàn
diện các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, chi phí và lợi ích trước khi
lựa chọn dự án.
 Thường xuyên giám sát, đánh giá kết quả: Đây là khâu quan trọng nhất
trong OBA. Hệ thống thông tin quản lý được củng cố để tạo điều kiện cho
việc giám sát, đánh giá và báo cáo.
Công tác đánh giá được coi là mắt xích quan trọng nhất trong chu trình lập kế
hoạch, triển khai và đánh giá. Trước đây, Chính phủ Malaysia thiên về đánh
giá từ bên ngoài để đảm bảo tính công bằng. Tuy nhiên, việc đánh giá từ bên
ngoài cũng có những hạn chế do không đủ số liệu. Hơn nữa, nhận thấy rằng,
các nhà thực thi chương trình, chính sách cũng rất cần tham gia cả công đoạn
đánh giá, bởi họ biết rất rõ cái gì làm được, cái gì không, điểm mạnh, điểm yếu
vv…Vì vậy, Chính phủ đã thể chế hóa tự đánh giá nội bộ (Internalised selfevaluation).
Quản lý ngân sách ở Malaysia
Năm ngân sách của Malaysia được tính theo năm dương lịch. Ngân sách tại
Malaysia bao gồm ngân sách hoạt động (do Kho bạc Nhà nước quản lý, chi thường
xuyên và các khoản nợ nhà nước, lương hưu và các khoản tiền thưởng theo quy
định) và ngân sách phát triển (do Văn phòng Thủ tướng quản lý).
Quản lý ngân sách của Malaysia đang trong giai đoạn chuyển đổi từ mô hình quản
lý “kiểu truyền thống” sang mô hình quản lý “ngân sách mới”, dựa theo kết quả
đầu ra, chú trọng hiệu quả; gắn kế hoạch chi tiêu hàng năm với kế hoạch tài chính
trung và dài hạn. Phương pháp lập ngân sách mới được thực hiện theo phương
pháp cuốn chiếu, có điều chỉnh khi cần thiết. Việc áp dụng hệ thống quản lý ngân
sách theo kết quả đầu ra sẽ khuyến khích cơ quan sử dụng ngân sách tiết kiệm
nguồn lực, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Nếu đạt được kết quả đầu ra theo
9



thoả thuận, cơ quan thụ hưởng ngân sách được giữ lại khoản tiền đã được phân bổ,
cơ quan kiểm soát không cần kiểm tra quy trình thực hiện. Trường hợp không đạt
được kết quả đầu ra thì quy trình chi tiêu quyết toán sẽ được các cơ quan chức
năng kiểm tra, rà soát rất kỹ.
Quy trình ngân sách được chia thành các bước chính:
 Chuẩn bị dự toán (tháng 1): đầu năm, Bộ Tài chính ra Thông tư hướng dẫn về
lập dự toán ngân sách. Căn cứ vào đó, các cơ quan Chính phủ lập, trình dự toán
NSNN của đơn vị mình. Trong thời gian này, các quan chức của Bộ Tài chính
và các Bộ, ngành khác gặp gỡ và trao đổi bước đầu về một số vấn đề quan
trọng của ngân sách các Bộ, ngành; trong đó có yêu cầu đánh giá tổng kết tình
hình ngân sách năm trước, dự báo tình hình và các chỉ tiêu, phương hướng cụ
thể trong năm tài khoá mới.
 Thảo luận dự toán (tháng 3-9): Bộ Tài chính nhận tờ trình dự toán ngân sách
của các cơ quan Chính phủ và thực hiện các nghiên cứu, phân tích về bản dự
toán ngân sách đó. Thực hiện rà soát, thảo luận sơ bộ về dự toán ngân sách giữa
cơ quan tài chính và cơ quan trình dự toán. Tổ chức Hội nghị thảo lụân về
NSNN do Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Tài chính chủ trì để lập dự toán NSNN,
trong đó có phân tích và đánh giá rõ tình hình thực hịên NSNN năm hịên hành,
dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, trong khu vực và thế giới, các
nguồn đầu tư và các động lực chính đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, đặc biệt
lưu ý đóng góp của khu vực tư nhân; từ đó đưa ra khung chính sách chung về
NSNN cho năm tài khoá mới. Sau đó, Bộ Tài chính trình dự toán ngân sách lên
Nội các. Thành phần nội các gồm Bộ trưởng của một số Bộ quan trọng
 Trình phê chuẩn (tháng 10,11): Dự toán ngân sách được trình lên Quốc hội.
Thủ tướng sẽ đọc diễn văn về ngân sách trước Quốc hội. Trước đó, dự toán
ngân sách phải được Quốc hội (Thượng viện và Hạ viện) thảo luận và thông
qua.
 Triển khai thực hiện (cuối tháng 12): Sau khi ngân sách được Quốc hội thông
qua sẽ được gửi đến để Nhà vua phê chuẩn. Sau đó, dự toán NSNN được đăng

trên công báo và Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy định chi tiêu, và ngân
sách được chuyển xuống các Bộ, ngành chi tiêu cho năm tài khoá mới
Việc phân bổ ngân sách hoạt động và ngân sách phát triển dựa trên khuôn khổ kinh
tế vĩ mô, nhưng đối với ngân sách hoạt động thì hàng tháng các Bộ, ngành có báo
cáo về tình hình chi tiêu ngân sách nhằm khắc phục tình trạng chi tiêu dồn ép vào
cuối năm. Còn đối với ngân sách phát triển thì sau 2,5 năm sẽ tiến hành đánh giá
lại để xem xét hiệu quả của các dự án, công trình đã được đầu tư từ nguồn ngân
sách này. Uỷ ban Tài khoản công của Quốc hội sẽ xem xét và đánh giá về tình hình
sử dụng ngân sách trong năm tài chính (quyết toán NSNN) trên cơ sở báo cáo tổng
hợp của Bộ Tài chính. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước cũng lập báo cáo kiểm toán.
Dựa vào đó, Uỷ ban Tài khoản công yêu cầu các Bộ, ngành giải trình về tình hình
sử dụng ngân sách của Bộ, ngành mình
Thực tế kinh nghiệm của Malaysia cho thấy, lịch biểu tài chính trong năm ngân
sách được phân chia hợp lý, các khâu của mỗi cơ quan tham gia quy trình ngân
sách dàn đều ra các tháng trong năm. Do đó, tránh được tình trạng dồn ép về mặt
thời gian trong khi xây dựng dự toán, thẩm tra, quyết định ngân sách.
Malaysia, cũng như tất cả các nước trong khu vực, quy định một cơ quan cấp bộ
chủ trì việc chuẩn bị và soạn lập dự toán ngân sách. Việc tập trung một đầu mối có
ưu điểm lớn trong việc quản lý thống nhất, cung cấp cái nhìn toàn diện về ngân
sách trên cơ sở nắm chắc nguồn thu, tạo cơ sở tốt cho việc bố trí sử dụng ngân
10


sách. Mức độ tập trung và sự phối hợp giữa nguồn và sử dụng nguồn được đẩy
mạnh hơn, hiệu quả hơn.
III. Kinh nghiệm Singapore
Singapore có diện tích khá nhỏ, chỉ 692,7 km2 với dân số gần 5 triệu người
(2009), GDP bình quân khoảng 48.000 USD/người (2009).
Singapore đã chuyển sang quản lý theo kết quả đầu ra từ những năm đầu của thập
kỷ 90 nhằm tăng cường hiệu quả quản lý khu vực công, khuyến khích tính tự chủ,

tự chịu trách nhịêm và tăng cường hiệu quả, nhấn mạnh đến khả năng quản lý theo
kết quả đầu ra. Theo xu hướng đó, từ những năm đầu của thế kỷ 21, Singapore đã
sử dụng khái niệm “kế toán cộng dồn” để phản ánh hiệu quả và kết quả trong quản
lý NSNN. Hệ thống kế toán NSNN cũng thay đổi. Kế toán các nguồn lực tài chính
và quá trình lập ngân sách được gắn kết chặt chẽ nhằm bao quát hết các chi phí và
các nguồn lực trong khu vực công. Bộ Tài chính tập trung làm chính sách tài chính
vĩ mô và bảo đảm phân bổ nguồn lực giữa các Bộ. Về phần mình, các Bộ chủ quản
phải cam kết tối đa hoá việc sử dụng nguồn lực theo mục tiêu và các kết quả đầu
ra.
Khuôn khổ quản lý NSNN theo kết quả đầu ra bao gồm 4 trụ cột:
 “Trần ngân sách”: là giới hạn % ngân sách tính theo GDP mà các Bộ, ngành sẽ
nhận được khi phân bổ. Trong quá trình thảo luận ngân sách, nếu nhu cầu chi
tiêu của Bộ ngành nào đó lớn hơn khả năng nguồn lực thì sử dụng công cụ giới
hạn ngân sách và Quỹ Tái đầu tư để lập ngân sách cho Bộ, ngành đó
 “Tối đa hoá sự thận trọng”: phải tiến hành lập ngân sách toàn ngành, tăng
cường tính linh hoạt và tự chủ trong sử dụng ngân sách cho các Bộ, ngành;
những Bộ, ngành nào sử dụng ngân sách dưới 95% sẽ bị điều chỉnh. Cơ chế sử
dụng ngân sách linh hoạt áp dụng cho các Bộ, ngành được thể hịên như sau:
 Cho phép chi ứng trước dự toán nhưng không quá 10% của ngân sách năm
hịên hành và phải hoàn trả cả gốc và lãi sau 3 năm.
 Cho phép chuyển nguồn từ năm trước sang năm sau.
 Cho phép sử dụng kết dư ngân sách và các nguồn tiền tiết kiệm được
nhưng không quá 5%
 “Phải quản lý được chi phí”: đòi hỏi phải tăng cường công tác kế toán các
nguồn lực trong quá trình lập ngân sách, định lượng được giá trị kinh tế tăng
thêm
 “Làm gia tăng giá trị kinh tế”: nghĩa là phải tăng cường tính hiệu quả kinh tế
của việc chi tiêu NSNN, tăng cường khả năng quản lý, kiểm soát và kiểm toán.
Chuyển sang quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, Singapore kiên trì thực hiện
mục tiêu chính sách tài khoá là:

 Thúc đấy tăng trưởng kinh tế bền vững, không lạm phát;
 Bảo đảm cân bằng ngân sách theo chu kỳ kinh doanh, trong đó số thu từ hoạt
động kinh doanh và đầu tư ròng của Nhà nước phải lớn hơn hoặc bằng số chi
thường xuyên và số chi đầu tư, có phần chuyển giao đặc biệt; đồng thời, phải
đảm bảo an toàn dự trữ quốc gia.
Hệ thống phân bổ ngân sách trước đây ở Singapore chủ yếu dựa trên yếu tố đầu
vào, gắn với các nội dung chi cụ thể mà không chú ý đến hiệu quả đầu ra. Hệ
thống lập ngân sách theo kết quả đầu ra hiện nay đã có những thay đổi đáng kể,
Chính phủ xem các Bộ, ngành như là những người cung cấp dịch vụ và phân bổ
ngân sách cho các Bộ, ngành theo mức độ công việc hoàn thành.
11


Với việc thực hiện lập ngân sách theo kết quả đầu ra, các Bộ, ngành sẽ được quản
lý theo mô hình tự chủ tài chính. Các cơ quan tự chủ tài chính là các cơ quan Nhà
nước có “kết quả đầu ra” và “mục tiêu hoạt động” đã được xác định rõ, những cơ
quan này được linh hoạt trong quản lý để có thể cung cấp dịch vụ một cách tốt
hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước có cơ chế khuyến khích việc hoàn thành mục tiêu đề
ra, áp dụng cơ chế quản lý linh hoạt: Thủ trưởng cơ quan, đơn vị sẽ được trao
quyền chủ động và linh hoạt tối đa đối với các vấn đề trong phạm vi ngân sách
được duyệt.
Trong quá trình lập ngân sách theo kết quả đầu ra ở Singapore, việc xác định kế
hoạch đầu ra là một công đoạn quan trọng nhất, là cơ sở cho việc thực hiện lập
ngân sách theo kết quả đầu ra. Kế hoạch đầu ra cần được soạn thảo phù hợp với kế
hoạch ngân sách hàng năm và trong chừng mực có thể, việc phân bổ ngân sách
cần gắn liền với mức sản lượng đầu ra. Kế hoạch đầu ra cũng chính là một công cụ
để đánh giá hoạt động của đơn vị nhằm khuyến khích đạt mục tiêu đã đặt ra.
Về các chỉ số đánh giá kết quả đầu ra:
Singapore thường sử dụng 5 chỉ số khác nhau để đánh giá kết quả hoạt động của
một cơ quan, đơn vị tự chủ tài chính áp dụng phương thức lập ngân sách theo kết

quả đầu ra. Nội dung cơ bản của từng chỉ số như sau:
 Kết quả tài chính: kết quả tài chính là chỉ số về tình hình tài chính mà cơ quan
được giao quyền tự chủ tài chính phải thực hiện. Tất cả các Bộ, ngành phải lập
Chỉ số phục hồi chi phí (CRR) đối với các chương trình và hoạt động của
mình.
 Số lượng sản phẩm đầu ra: Sản phẩm đầu ra của một số cơ quan có thể dễ dàng
định lượng (ví dụ như số lượng bệnh nhân được khám của phòng khám đa
khoa…); nhưng sản phẩm đầu ra của các cơ quan khác khó định lượng hơn (ví
dụ như cơ quan hoạch định chính sách hay cơ quan thực thi pháp luật…). Vì
vậy, để khắc phục khó khăn này, cần làm rõ số lượng các sản phẩm đầu ra
ngay trong quá trình xác định mục tiêu và lập ra kế hoạch về các hoạt động.
 Chất lượng dịch vụ: Nâng cao chất lượng dịch vụ là một trong những mục tiêu
của cơ chế lập ngân sách theo kết quả đầu ra. Việc tìm ra nhu cầu để dựa vào
đó đặt mục tiêu về chất lượng sản phẩm được Chính phủ Singapore xem là yêu
cầu rất quan trọng trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc khu vực
công.
 Hiệu quả hoạt động: Hiệu quả hoạt động là thước đo mà Chính phủ Singapore
sử dụng cũng tương tự như cách tiếp cận về hiệu quả mà các nước, trong đó có
Việt Nam thường sử dụng.
 Kết quả hoạt động: Đây là một chỉ tiêu quan trọng và có tính chất quyết định.
Các cơ quan, đơn vị được coi là hoạt động có kết quả nếu đạt được các mục
tiêu thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình và đạt được kế hoạch sản phẩm đầu
ra.
Việc đạt được kế hoạch sản phẩm đầu ra thể hiện trình độ thành thạo của một cơ
quan, đơn vị trong việc thực hiện công việc của mình, thuộc chức năng, nhiệm vụ
của mình.
Quản lý ngân sách ở Singapore
Ơ Singapore, quá trình chuyển đổi từ mô hình quản lý ngân sách truyền thống
(đầu vào) sang mô hình quản lý ngân sách mới (theo kết quả và hiệu quả đầu ra) là
khá rõ nét. Việc lập và trình dự toán NSNN vẫn là nhịêm vụ của Chính phủ, trong

12


đó Bộ Tài chính đóng vai trò trung tâm để tổng hợp dự toán và đưa dự toán ra Nội
các thông qua, trình Quốc hội thảo luận và quyết định các hạng mục lớn. Sau khi
Quốc hội thông qua dự toán NSNN sẽ cho phép Chính phủ tổ chức thu và chi
NSNN.
Năm ngân sách của Singapore bắt đầu từ ngày 1/4 và kết thúc vào ngày 31/3 năm
sau. Quy trình ngân sách được chia thành các bước chính:
 Dự toán NSNN được trình lên Quốc hội vào khoảng tháng 9. Các nghị sĩ sẽ
xem xét báo cáo ngân sách, sau đó thảo luận về ngân sách. Giai đoạn này, Bộ
trưởng Bộ tài chính sẽ giải trình và tiếp thu ý kiến của các nghị sĩ. Đến tháng
12, dự toán NSNN được trình lên Nội các.
 Tháng 1 năm sau, Nội các sẽ xem xét thảo luận về dự toán NSNN.
 Đến tháng 3 năm sau, dự toán NSNN được trình lên Quốc hội để biểu quyết và
sau đó Tổng thống phê chuẩn; Sau khi Tổng thống phê chuẩn, dự toán NSNN
có giá trị pháp lý như một đạo luật ngân sách thường niên.
Quốc hội Singapore có 2 Uỷ ban để giám sát về NSNN:
 Uỷ ban Tài khoản công: cùng Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán và
thẩm tra quyết toán NSNN để trình Quốc hội xem xét phê chuẩn quyết toán
NSNN hàng năm. Khi Singapore chuyển sang quản lý ngân sách theo kết quả
đầu ra thì công việc của Uỷ ban này và của Tổng Kiểm toán Nhà nước không
chỉ là việc chỉ ra những sai phạm, mà điều quan trọng hơn là cần đánh giá tính
hiệu quả của quản lý NSNN.
 Uỷ ban Dự toán: xem xét dự toán chi tiêu của Chính phủ và đánh giá các báo
cáo chi tiêu ngân sách định kỳ 6 tháng của các Bộ. Khi Singapore chuyển sang
quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra thì Uỷ ban này chú trọng vào việc phân
tích các chính sách vĩ mô, mà không đi vào chi tiết dự toán chi tiêu của các Bộ
như trước.
Uỷ ban Dự toán tiến hành bỏ phiếu về ngân sách cho từng Bộ theo 2 lần:

 Bỏ phiếu lần 1: Mục đích là xem xét cắt giảm hoặc điều chỉnh bao nhiêu
ngân sách đối với từng Bộ.
 Bỏ phiếu lần 2: Mục đích là quyết định số ngân sách mới cho từng Bộ sau
khi đã cắt giảm và điều chỉnh.
Uỷ ban Dự toán sẽ báo cáo về ngân sách mới cho từng Bộ lên Quốc hội và
Quốc hội sẽ tiến hành biểu quyết chung. Khi Quốc hội không thông qua dự
toán NSNN thì Chính phủ được phép sử dụng khoản tiền nhưng không quá
nửa số ngân sách của năm trước. Trường hợp có chi tiêu đột xuất phát sinh
trong năm tài chính, Chính phủ lập dự toán ngân sách bổ sung và trình Quốc
hội. Dự toán ngân sách bổ sung cũng được xem xét thông qua giống như khi
xem xét dự toán ngân sách chính thức.
IV. Ứng dụng quản lý ngân sách Nhà nước theo kết quả đầu ra và bài học cho
Việt Nam
“Quản lý tài chính công tốt” là vấn đề của nhiều nước trên thế giới. Trong
những năm cuối Thế kỷ 20 đã xuất hiện những khái niệm mới về quản lý tài chính
công ở các nước phát triển có tình trạng nợ công tương đối cao nhằm đảm bảo tính
bền vững của ngân sách quốc gia. Nhiều quốc gia đã và đang thực hiện cải cách tài
chính công mạnh mẽ với trọng tâm là quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra và áp
dụng khuôn khổ tài chính, ngân sách trung hạn nhằm giúp Chính phủ quản lý, phân
bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực công cho những ưu tiên chiến lược. Đây cũng
chính là mối quan tâm hiện nay của Việt Nam.
13


Thực tiễn quá trình chuyển đổi mô hình quản lý ngân sách ở các quốc gia như
Nhật, Malaysia, Singapore đã nêu trên, cho thấy việc quản lý, phân bổ ngân sách
theo kết quả đầu ra là phương thức quản lý tiên tiến, hiệu quả. Tuy nhiên, để thực
hiện theo phương thức này, cần chuẩn bị rất chu đáo, trước hết cần thống nhất nhận
thức chung của các cơ quan chức năng về phương pháp quản lý mới; đồng thời,
phải xây dựng được hệ thống các chỉ số đánh giá kết quả đầu ra và nâng cao năng

lực cung cấp thông tin về tài chính - ngân sách của các cơ quan, đặc biệt là cơ quan
dân cử.
Một trong những khó khăn và thách thức mà các nước đã gặp phải là tạo lập hệ
thống các chỉ tiêu, chỉ số đo lường và đánh giá kết quả đầu ra. Ở Singapore, các
Bộ, ngành khi trình dự toán ngân sách đã xây dựng hàng nghìn chỉ tiêu đánh giá
kết quả đầu ra, nhưng Quốc hội chỉ xem xét khoảng 150 chỉ tiêu đánh giá kết quả
đầu ra. Như vậy, khi chuyển sang quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra thì công
việc trọng tâm là phải xác lập được các nguyên tắc, phương pháp và cách thức lập
các chỉ tiêu, chỉ số đánh giá kết quả đầu ra. Đây là vấn đề hết sức phức tạp.
Việc lập ngân sách theo kết quả đầu ra là phương thức quản lý ngân sách nhằm
gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả hoạt động. Qua
đó gắn bó chặt chẽ giữa việc phân bổ ngân sách cho từng khoản mục chi với các
mục tiêu dự kiến phải đạt được từ những khoản mục chi đó. Chuyển đổi phương
thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra chính là sự chuyển dịch từ việc tập
trung kiểm soát chi tiêu từ “đầu vào” (như yêu cầu phải chi theo đúng khoản mục
và định mức…) sang kiểm soát “đầu ra” gắn với kết quả cụ thể; qua đó thay đổi
quan niệm của các đơn vị sử dụng NSNN từ chỗ chấp hành một cách thụ động,
không bị ràng buộc về kết quả sử dụng nguồn lực sang việc được trao quyền chủ
động, năng động, tự chủ và tự chịu trách nhịêm trong việc thực thi các mục tiêu,
nhịêm vụ trong phạm vi nguồn lực được giao. Các đơn vị sử dụng ngân sách phải
có trách nhiệm giải trình chặt chẽ, minh bạch và có sự giám sát của cơ quan quản
lý cấp trên.
Mục tiêu cơ bản của việc lập ngân sách theo kết quả đầu ra là đòi hỏi các nhà
quản lý khu vực công, thông qua việc được trao quyền tự chủ về tài chính trong
quản lý, phải có trách nhiệm hơn đối với công việc được giao để đạt được mục tiêu
của cơ quan, đơn vị mình. Nói cách khác, việc lập ngân sách theo kết quả đầu ra
nhấn mạnh đến kết quả cần đạt được, đến mục tiêu công việc và sản phẩm đầu ra
cụ thể với các chế độ ưu đãi, khuyến khích nhằm tối đa hoá việc sử dụng các
nguồn lực và phân cấp quản lý đúng mức độ. Tính chịu trách nhiệm là cơ sở, nền
tảng để có được “kết quả” và để đánh giá kết quả đối với hầu hết các hoạt động của

khu vực công, cần phải sử dụng đồng thời cả hai tiêu chí: định tính và định lượng.
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá kết quả phụ thuộc vào đặc thù của mỗi hoạt
động và điều kiện của mỗi quốc gia. Có được các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt
động tốt sẽ thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quản lý NSNN theo mục tiêu, chương
trình, nhịêm vụ và kết quả đầu ra.
Khi xây dựng dự toán ngân sách theo kết quả đầu ra phải gắn bó chặt chẽ giữa
khả năng ngân sách với việc thực hiện những mục tiêu, hịêu quả cụ thể; tạo dựng
được sự gắn kết chặt chẽ giữa tài chính - ngân sách với các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội. Việc chuyển đổi mô hình quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra phải
gắn với việc xây dưng và thực hịên khuôn khổ chi tiêu trung hạn. Khuôn khổ chi
tiêu trung hạn bao gồm việc cân đối các nhu cầu của các lĩnh vực với tổng nguồn
lực hịên có, trên cơ sở các ưu tiên tổng thể cấp quốc gia và các ưu tiên của từng bộ.
Khuôn khổ này đòi hỏi phải soạn lập các Chiến lược ngành (trong trung hạn) và
xác định rõ Nhiệm vụ, Mục tiêu, Kết quả hoạt động. Trên cơ sở đó, xây dựng một
14


ngân sách của ngành (bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư) nhằm phản ánh
những chi phí cần thiết của các chính sách ngành. Tổng nhu cầu chi tiêu được xác
định trên cơ sở xác định chi phí cho các hoạt động đã được quyết định, được lựa
chọn ưu tiên nhằm đạt được các sản phẩm đầu ra trong mỗi lĩnh vực.
Ngân sách được Quốc hội thảo luận là ngân sách của nhà nước trung ương.
Hàng năm, Chính phủ Trung ương đều có khoản trợ cấp, bổ sung cho ngân sách
các địa phương.
Lịch biểu tài chính của các nước thể hiện trong năm ngân sách được phân chia
khá hợp lý, các khâu của mỗi cơ quan tham gia quy trình ngân sách dàn đều ra các
tháng trong năm. Vì vậy, tránh được tình trạng dồn ép về mặt thời gian trong quá
trình xây dựng dự toán hay thẩm tra, quyết định ngân sách.
Ở Việt Nam, bắt đầu xây dựng dự toán ngân sách vào khoảng tháng 6, sau đó
các cấp ngân sách lập kế hoạch theo phương thức từ trên xuống và từ dưới lên,

theo quy định của Luật NSNN, Quốc hội phê chuẩn dự toán ngân sách trước 15/11,
vì vậy thời gian cho các cơ quan đánh giá, thẩm định dự toán là rất ngắn, đặc biệt
các cơ quan của Quốc hội, trong khi từ tháng 1 đến tháng 6 của lịch biểu tài chính
còn nhiều tháng trống, chưa đề cập đến những hoạt động về ngân sách của các cơ
quan chức năng. Như vậy, để triển khai các hoạt động xây dựng dự toán ngân sách
nhà nước đạt được kết quả tốt, việc hướng dẫn lập dự toán có thể tiến hành sớm, từ
tháng 1 hoặc tháng 2, để dành thêm thời gian cho các cơ quan Quốc hội thảo luận,
thẩm tra ngân sách Nhà nước do Chính phủ trình, đồng thời các cấp ngân sách
cũng đỡ dồn ép về mặt thời gian khi xây dựng, thảo luận dự toán NSNN.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO





Báo cáo Kết quả khảo sát tại Malaysia và Singapore. Ủy ban Kinh tế và Ngân sách,
QH11, 2007.
Cải cách quản lý công thông qua hệ thống lập kế hoạch và ngân sách dựa trên kết quả:
Kinh nghiệm của Nhật Bản và Malaysia. Phạm Thị Tước.
Cơ sở lý luận, thực tiễn và đánh giá tình hình thực hiện thí điểm khuôn khổ ngân sách
trung hạn tại Việt Nam. Báo cáo chuyên đề. Vũ Như Thăng, 8/2012.
Implementation of Outcome Based Budgeting (OBB) in the Malaysian Public Sector.
Koshy Slaid.

16




×