NHÂN BẢN – CLONING NGƯỜI
Gi¶ng viªn híng dÉn
: PGS. TS VŨ QUANG MẠNH
Häc viªn thùc hiÖn
:
Vương Văn Thắng
Líp
:
Cao häc – K18 Sinh
Ngµnh
:
SINH HỌC
A. Lời mở đầu
Trong vài thập kỷ gần đây, chúng ta đã được chứng kiến nhiều thành tựu
quan trọng trong nghiên cứu về tế bào gốc và nhân bản cũng như những tranh
cãi về tính đạo đức trong nghiên cứu lĩnh vực này. Nghiên cứu về tế bào gốc và
nhân bản trang bị cho chúng ta những hiểu biết về quá trình hình thành cơ thể
sinh vật từ một tế bào đơn lẻ và quá trình các tế bào khỏe mạnh thay thế các tế
bào bị tổn thương trong các cơ thể trưởng thành, mang lại cho nhân loại hy
vọng chữa được nhiều bệnh mãn tính và nan giải mà hiện nay chưa có biện
pháp điều trị hiệu quả. Trong thế kỷ 21, nhân loại đón đợi liệu pháp điều trị thay
thế tế bào hay tế bào gốc trị liệu. Các nghiên cứu thực nghiệm trên động vật đã
chứng minh liệu pháp điều trị mới này là có thể và đã có nhiều bằng chứng cho
phép chúng ta hy vọng vào triển vọng của tế bào gốc người. Tuy nhiên công việc
này mới đang ở giai đoạn đầu tiên và gặp không ít khó khăn về kỹ thuật cũng
như các vấn đề liên quan đến đạo đức và luân lý. Trong chuyên luận này chúng
tôi trình bày một số vấn đề tổng quan về nhân bản ở người.
.
1
B . Nội dung
I. Nhân bản người
1. Khái niệm nhân bản
Nhân bản (cloning) là tạo ra “bản sao” của một tế bào hoặc một sinh vật. Các “bản
sao” được tạo ra bằng kỹ thuật cloning được gọi là các clone, các clone này giống y
hệt nhau về mặt di truyền.
Nhân bản người có thể xảy ra trong tự nhiên hoặc nhân tạo. Đây là một hình
thức sinh sản đặc biệt mà kết quả là tạo ra các cơ thể giống hệt nhau về gen. Có
hai kiểu nhân bản là nhân bản phôi (nhân bản từ các tế bào phôi) và nhân bản
vô tính từ các tế bào trưởng thành. Nhân bản phôi người có thể xẩy ra trong tự
nhiên hoặc nhân tạo (các trường hợp sinh đôi cùng trứng là ví dụ điển hình của
nhân bản phôi người và trong tự nhiên) còn nhân bản vô tính từ các tế bào
trưởng thành chỉ có thể xảy ra trong phòng thí nghiệm. Trong nhân bản vô tính từ
một tế bào trưởng thành, “bản sao” (clone) sẽ là một người giống y chang
“bố/mẹ” về mặt di truyền. “Bố/mẹ” này chính là người cho nhân tế bào lưỡng bội
để nhân bản. Nhân bản vô tính có thể thực hiện được với các tế bào có nhân
lưỡng bội lấy từ phôi, thai, hoặc từ một người trưởng thành, thậm chí có thể từ
các mô đông lạnh.
2. Kỹ thuật nhân bản
Nhân bản phôi người (cloning) hiện nay dùng một trong 3 kỹ thuật sau: Phân
tách các tế bào blastomere (blastomere separation), chia cắt phôi túi (blastocyst
division) và kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân (somatic cell nuclear transfer).
2.1 Nhân bản phôi bằng phân tách các tế bào blastomere (blastomere
seperation):
Đầu tiên trứng và tinh trùng được thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành phôi.
Phôi này được nuôi cấy cho phát triển đến giai đoạn 2 hoặc 4 tế bào (mỗi tế bào
trong khối 2 hoặc 4 tế bào này được gọi là một blastomere). Đến giai đoạn này
người ta tách bỏ màng bọc phôi và chuyển phôi vào một môi trường đặc biệt làm
cho các blastomere tách rời nhau ra. Mỗi blastomere này sau đó được nuôi cấy
riêng biệt cho phép hình thành nên một phôi. Phương pháp này có thể tạo ra tối
đa là 4 phôi bản sao giống hệt phôi ban đầu về mặt di truyền. Mỗi phôi mới được
tạo ra bằng phương pháp này sau đó có thể đem cấy vào tử cung một “mẹ nuôi”
cho phép phôi phát triển thành thai nhi trong quá trình mang thai của “mẹ nuôi”.
Trong kỹ thuật này, các cá thể “bản sao” vẫn mang bộ gen lưỡng bội có nguồn
gốc từ hai bố-mẹ.
2.2. Nhân bản phôi bằng chia cắt phôi túi (blastocyst division):
Đầu tiên trứng và tinh trùng cũng được thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành
2
3