TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƢ PHẠM
BỘ MÔN SƢ PHẠM LỊCH SỬ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Sƣ Phạm Lịch Sử
ẢNH HƢỞNG CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO
HÒA HẢO ĐẾN ĐỜI SỐNG TÍN ĐỒ Ở CÙ LAO
TÂN LỘC – QUẬN THỐT NỐT – TP CẦN THƠ
Cán bộ hướng dẫn:
Ths. KHOA NĂNG LẬP
Sinh viên thực hiện:
ĐẶNG NGỌC ÂN
Lớp: Sư Phạm Lịch Sử - Khóa 35
MSSV: 6095911
Cần Thơ, 5 - 2013
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
LỜI CẢM TẠ
Trong suốt quá trình tiến hành thực hiện đề tài luận văn của mình chúng tôi
gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Nhưng với sự giúp đỡ, động viên, an ủi và sự
hướng dẫn tận tình của quý thầy cô, bạn bè và người thân là động lực để giúp
chúng tôi vượt qua những khó khăn, thử thách đó.
Đầu tiên tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Thầy Khoa Năng Lập, người đã
cho em cơ hội đồng thời thầy cũng là người trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Em xin cám ơn quý thầy cô trong Bộ môn Sư phạm Lịch Sử, các thầy cô
trong trung tâm học liệu và thư viện thành phố cùng ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo
phường Tân Lộc đã tạo điều kiện để em có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp
này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến bạn bè và gia đình đã luôn
ủng hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Đặng Ngọc Ân
SVTH: Đặng Ngọc Ân
i
CBHD: Ths.GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ............................................................................................... i
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. .................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ......................................................... 2
3. Lịch sử nghiên cứu. ............................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu. ...................................................................... 3
CHƢƠNG I NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO ....... 5
1.1. Thân thế và sự nghiệp của Đức Huỳnh giáo chủ. ................................ 5
1.2 Giáo lý và Giới luật.............................................................................. 9
1.3 Nghi thức thờ phượng và cầu cúng. ................................................... 22
CHƢƠNG II ẢNH HƢỞNG CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
ĐẾN ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY CỦA TÍN ĐỒ Ở CÙ LAO TÂN LỘC 28
2.1. Tình hình của tín đồ theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo. ........................... 28
2.2. Ảnh hưởng của giáo lý đến cách ăn, ở của tín đồ. ............................. 34
2.3. Ảnh hưởng của giáo lý đến trang phục của tín đồ............................. 38
2.4. Ảnh hưởng của giáo lý đến cách thức làm ăn sinh sống của tín đồ. ... 41
CHƢƠNG III ẢNH HƢỞNG CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
ĐẾN QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA TÍN ĐỒ Ở CÙ LAO TÂN LỘC ........... 43
3.1. Trong quan hệ gia đình. .................................................................... 45
3.2. Trong hôn nhân, tang lễ. ................................................................... 50
3.3. Trong cộng đồng xã hội. ................................................................... 56
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................... 67
CHÚ THÍCH ............................................................................................. 70
PHỤ LỤC................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 76
SVTH: Đặng Ngọc Ân
ii
CBHD: Ths.GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc ngay vào
thời điểm nước ta lâm vào tình thế vô cùng khó khăn, bị thực dân pháp và đế
quốc Nhật cai trị đã làm cho đời sống nhân dân vô cùng cơ cực. Giữa lúc ấy,
Phật giáo Hòa Hảo được Đức Huỳnh giáo chủ khai sáng với phương pháp tu học
phù hợp với căn cơ trình độ của chúng sanh. Chủ trương lấy tứ đại trọng ân làm
nền tảng cộng thêm việc tu tại gia cư sĩ với pháp môn học phật tu nhân nên chỉ
trong một thời gian ngắn mà tín đồ theo học lên đến 2 triệu người. Sau đó được
truyền bá rộng rải khắp các tỉnh miền Đồng bằng sông Cửu Long đặc biệt là ở
Châu Đốc, An Giang, Cần thơ,... Ngày nay thì Phật giáo Hòa Hảo không ngừng
lớn mạnh và được truyền bá không những trong nước mà còn lan rộng ra nhiều
nước trên thế giới. Đặc biệt khi nói đến người tín đồ Hòa Hảo thì người ta nghĩ
ngay đến những việc làm của họ - công tác từ thiện xã hội. Đây là một trong
những mặt nổi trội của người tín đồ. Với tấm lòng bi bác ai, giàu đức hiếu sinh
thì người tín đồ đã dấn thân vào trong xã hội để làm những việc giúp ích cho
đời, cho xã hội. Nào là bắc cầu bồi lộ, thuốc nam, làm nhà tình thương hay là
thành lập tổ từ thiện để nấu cơm, cháo, nước sôi ở các bệnh viện để cho bệnh
nhân nghèo, mua xe chuyển bệnh,... Tất cả những việc làm đó chủ yếu vì mục
tiêu “tốt đời đẹp đạo“ cùng nhau xây dựng một đất nước ngày một thêm giàu
mạnh và ngày càng phát triển như Đức Thầy đã từng mong ước “đời đạo tương
lân rạng chói ngòi“. Nhưng tại sao người tín đồ Hòa Hảo lại có thể làm những
việc như thế trong khi Đức Huỳnh giáo chủ đã vắng mặt cách đây mấy mươi
năm? Tất cả đều được những lời chỉ bảo của Ngài đều được tựu chung lại trong
quyển Sấm giảng thi văn giáo lý toàn bộ mà hàng ngày người tín đồ Hòa Hảo đã
trì hành theo. Chính vì lẽ đó, để hiểu rõ hơn giáo lý Hòa Hảo ảnh hưởng đến đời
SVTH: Đặng Ngọc Ân
1
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
sống, cách ăn ở, sinh hoạt của người tín đồ Hòa Hảo như thế nào? Cách Trì
hành nó ra sao? Nên tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo Hòa
Hảo đến đời sống của tín đồ ở cù lao Tân Lộc – quận Thốt Nốt – TP Cần Thơ“.
để làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình với mục đích là để tìm hiểu rõ hơn
và nắm bắt một cách sâu sắc hơn về tôn giáo của mình đang theo tu học. Tuy
nhiên ở đây do đề tài này hơi rộng và vượt quá khả năng cho phép nên tôi chỉ
khảo xác trên vùng Cù lao Tân Lộc – Quận Thốt Nốt – TP Cần Thơ. Nơi có hơn
95% người dân tu theo đạo Hòa Hảo và công tác từ thiện xã hội cũng là nét nổi
bậc nhất của người tín đồ nơi đây.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu về văn hóa tâm
linh mà cụ thể là trên lĩnh vực tôn giáo – Phật Giáo Hòa Hảo. Song, trong khuôn
khổ của một luận văn tốt nghiệp, tôi chỉ tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của
giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo ở cù lao Tân Lộc thuộc quận Thốt Nốt – TP Cần
Thơ ở một số khía cạnh chủ yếu sau:
Tìm hiểu khái quát về nét cơ bản đạo Phật giáo Hòa Hảo.
Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo Hòa Hảo đến đời sống hằng ngày của
tín đồ.
Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo Hòa Hảo trong quan hệ xã hội của tín
đồ.
3. Lịch sử nghiên cứu.
Phật giáo Hòa Hảo là một nhánh của đạo Phật, chứa đựng nhiều nội dung
phong phú về lịch sử, tư tưởng, văn hóa,... Đặc biệt với chính sách tự do tín
ngưỡng tôn giáo của nước ta đã làm cho Đạo Hòa Hảo không ngừng lớn mạnh
và phát triển. Với “công tác từ thiện xã hội“ đã góp phần làm cho xã hội ngày
càng một tốt đẹp và văn minh hơn. Thế nên đề tài nghiên cứu về đạo Phật giáo
SVTH: Đặng Ngọc Ân
2
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
Hòa Hảo là một trong những đề tài thu hút được nhiều soạn giả, sinh viên trong
các trường đại học, cao đẵng nghiên cứu tìm hiểu với nhiều khía cạnh khác nhau
như tác phẩm “tìm hiểu nghiên cứu phật giáo Hòa Hảo ở miền Tây Nam Bộ“
của tác giả Đoàn Nô đã nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của đạo
ở miền Tây Nam Bộ như về giáo lý, giới luật, các giai đoạn phát triển của đạo,...
Hay là đề tài luân văn tốt nghiệp của Đặng Minh Phụng – Sinh viên Khóa 31
chuyên ngành sư Phạm Lịch sử của trường Đại Học Cần Thơ đã chọn đề tài
“Tìm hiểu đạo Hòa Hảo ở Nam Bộ“ với nội dung chủ yếu là nghiên cứu về tư
tưởng hòa hiếu trong đạo Phật giáo Hòa Hảo. Riêng tôi cũng chọn đề tài về Phật
giáo Hòa Hảo làm đề tài luận văn cho mình nhưng tôi tập trung nghiên cứu về
ảnh hưởng giáo lý của đạo Hòa Hảo đến đời sống tín đồ ở cù lao Tân Lộc thuộc
Quận Thốt Nốt – TP Cần Thơ để hiểu rõ hơn về cách sống, ăn ở, giao tiếp của
người tín đồ nơi đây. Đặc biệt là phong trào làm công tác từ thiện xã hội diễn ra
một cách rầm rộ, và ngày càng lan rộng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này thì tôi đã sử dụng hai phương pháp
nghiên cứu cơ bản trong nghiên cứu lịch sử, đó là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử: với phương pháp lịch sử này đã giúp tôi tìm hiểu
những mặt biểu hiện của đạo Hòa Hảo thông qua việc nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển. Từ đó có cái nhìn khái quát về Đạo Hòa Hảo.
Phương pháp lôgic: Sử dụng phương pháp lôgic với mục đích để khái
quát nêu lên các tư tưởng, các nội dung có tác dụng chi phối và ảnh hưởng sâu
sắc của đạo đến đời sống hằng ngày của tín đồ, từ cách ăn ở đến giao tiếp sinh
hoạt.
SVTH: Đặng Ngọc Ân
3
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
Qua hai phương pháp này giúp tôi đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề.
Bên cạnh đó tôi còn sử dụng phương pháp bổ trợ khác như phân tích, tổng hợp,
quan sát thực tế,... nhằm làm rõ vấn đề này hơn.
5. Bố cục đề tài.
Đề tài ngoài các phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, phần chú
thích, phụ lục và tài liệu tham khảo thì đề tài gồm có 3 chương chính:
Chƣơng 1. Những nét cơ bản về Phật giáo Hòa Hảo
Chƣơng 2. Ảnh hƣởng của giáo lý Phật giáo Hòa Hảo đến đời sống
hằng ngày của tín đồ ở cù lao Tân Lộc.
Chƣơng 3. Ảnh hƣởng của giáo lý Phật giáo Hòa Hảo đến quan hệ xã
hội của tín đồ ở cù lao Tân Lộc.
SVTH: Đặng Ngọc Ân
4
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
1.1. Thân thế và sự nghiệp của Đức Huỳnh giáo chủ.
1.1.1. Thân thế.
Đức Huỳnh Giáo Chủ tên thật là Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 15 tháng 1 năm
1920 nhằm ngày 25 tháng 11 ÂL năm Kỷ Mùi tại làng Hòa Hảo nằm trên Bắc
ngạn sông Vàm Nao, thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc ( ngày nay thuộc thị
trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Thân sanh của Ngài là Đức ông
Huỳnh Công Bộ - lúc bấy giờ là một hương cả tại làng Hòa Hảo và thân mẫu là
Đức bà Lê Thị Nhậm. Đức ông có hai đời vợ, người vợ lớn sanh được hai người
con, sau khi người vợ cả mất thì Đức ông lấy bà Lê Thị Nhậm và sinh được ba
người con là Đức thầy và hai người em là Huỳnh Thị Kim Biên và Huỳnh
Thạnh Mậu.
Tính cách thì ngay từ lúc còn bé ngày đã tỏ ra hơn người trên mọi phương
diện. Tánh Ngài điềm đạm ít chịu giễu cợt cười đùa thường tìm nơi thanh vắng
ngồi trầm tư mặc tưởng. Ngài không thích đờn ca hát xướng vì thế nên những
hội hè đình đám, những nơi tụ hợp đông người Ngài luôn luôn tránh xa. Đặc
biệt Ngài giàu lòng từ bi và đức hiếu sanh không thích những thú vui có ý sát
hại hay gây tổn thương đến các loài vật như các bạn đồng trang lứa khác như đá
dế, cá thia thia, đá gà,...Khi gần đến tuổi thành niên thì Ngài cả thẹn đối với phụ
nữ, hễ ai đề cập đến vấn đề hôn nhân thì bị Ngài phản đối ngay. Ngài tuyên bố
rằng thích sống độc thân để được tự do hoạt động.
Về học lực, ngay từ khi cắp sách đến trường Ngài đã tỏ ra xuất sắc hơn
chúng bạn. Ban sơ, Đức ông cho Ngài học ở lớp sơ đẳng tại trường Hòa Hảo,
SVTH: Đặng Ngọc Ân
5
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
tiếp sau là học tại trường tiểu học bổ túc Tân Châu. Sau khi đậu được bằng tiểu
học Ngài phải nghỉ học vì đau yếu liên miên. Năm 15 tuổi nhiều cơn sốt rét dữ
dội phát sanh làm cho Đức giáo chủ ngày càng gầy yếu , mất ăn mất ngủ. Chứng
bệnh này thỉnh thoảng sanh nhiều biến chứng làm cho Ngài càng tiều tụy da dẻ
xanh gầy. Mặc dù Đức Ông và Đức Bà hết lòng lo chạy chữa từ Đông y, Tây y
đến cách chữa bệnh bằng pháp thuật bùa ngãi song bệnh vẫn không thuyên
giảm. Đến năm 1939 sau khi hướng dẫn thân phụ đi viếng các am động miền
núi Thất sơn và Tà lơn – những núi non nổi tiếng linh thiêng hùng vĩ – Ngài đã
tỏ ra đại ngộ. Ngày 18-5-1939 (kỷ Mão) Ngài đã đăng cơ khai sáng Đạo Phật
giáo Hòa Hảo, tại lễ khai sáng có hàng ngàn người ngưỡng mộ đến dự, họ phủ
phục và suy tôn Ngài là Đức Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo hay còn gọi là Đức
Thầy. Danh từ Phật giáo Hòa Hảo có ý nghĩa là đạo phật được hoằng khai tại
làng Hòa Hảo. Thực chất toàn bộ triết lý căn bản cốt lõi trong giáo lý Phật giáo
Hòa Hảo chẳng khác gì đạo Phật chánh tông của Đức Thích Ca Mâu Ni, có điều
là Đức Huỳnh Giáo chủ cô đọng nội dung chuyển thể thành văn vần nhằm đáp
ứng trình độ dân trí, hoàn cảnh xã hội nước ta thời bấy giờ. Ngài chủ trương tu
tại gia, pháp môn học phật tu nhân. Phương pháp truyền bá đạo pháp của Ngài
là “trên thì nói phật pháp cho kẻ có lòng mộ Đạo qui-căn, gây gốc thiện-duyên
cùng Thầy Tổ, dưới thì dung huyền-diệu của Tiên-gia độ bịnh để cho kẻ ít căn
lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ-bi của Chư vị với Trăm Quan…”
(1)
Chính vì thế chỉ ra đời trong một thời gian ngắn nhưng số lượng tín đồ theo đạo
khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng. Cũng vì lẽ đó làm chính quyền cai
trị lo sợ nên chúng đã tìm cách đưa Đức thầy đi nhiều nơi như Sa Đéc, Bạc Liêu
thậm chí là nhà thương Chợ Quán (nhà thương điên) ở Sài Gòn nhằm tách biệt
Ngài với tín đồ. Đến Ngài 16-4-1947 Đức Thầy vắng mặt cho đến ngày nay, có
tin đồn ngày đã bị sát hại. Tuy nhiên, trong lòng mỗi người tín đồ Hòa Hảo đều
SVTH: Đặng Ngọc Ân
6
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
giữ vững niềm tin rằng Đức Thầy vẫn còn sống và một ngày nào đó thì Ngài sẽ
trở về. Trong bài ''Từ giã làng Nhơn Nghĩa'' Ngài cho tín đồ mình biết rằng:
Bàn tay lật ngửa bàn tay
Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sinh
Hay là:
“ Chừng nào Thầy lại gia trung
Thì trong bổn đạo bóng tùng phủ che”
Theo một số tài liệu của Phật giáo Hòa Hảo cũng như của chính Giáo chủ
trong kệ giảng của mình đã chỉ rõ Ngài là hiên thân chuyển kiếp mang tính kế
tục của 4 vị bồ tát (hay còn gọi là chư tổ sư), đó là:
+ Đức Phật Thầy Tây An chính danh là Đoàn Minh Huyên, sinh năm
1807, nguên quán xã Tòng Sơn, Sa Đéc. Năm 1849 lập ra phái Bửu Sơn Kỳ
Hương, tu và giảng đạo tại chùa Tây An cổ tự (núi Sam – An Giang) nên được
gọi là Đức Phật Thầy Tây An, tịch năm 1856, Đức Phật Thầy chủ trương canh
tân phật đạo và truyền giáo theo pháp môn hoc phật tu nhân đền đáp Tứ đại
trọng ân. Trong đó Ân đất nước được Ngài đề cao và nhấn mạnh nhiều nhất,
phái Bửu Sơn Kỳ Hương thờ Trần Điều (tấm vải đỏ hình chữ nhật) được lòng
khuôn kiếng thờ chính diện trên tủ thờ của mỗi gia đình tính đồ. Phật Thầy Tây
An để lại kinh “Giác mê”. Còn lập tường chính trị của Ngài là chống quân xâm
lược Pháp. Người đại đệ tử của Đức Phật Thầy là Đức cố quản Trần Văn Thành,
trong trận tử chiến với thực dân Pháp ở Láng Linh – An Giang nổi tiếng đã hy
sinh mà ngày nay cứ vào ngày giỗ của ông 21/02 Âm lịch hàng năm lại có hàng
vạn, hàng ngàn tính đồ Phật giáo Hòa Hảo qui tụ về đền thờ dâng hương kỉ niệm
“Đức cố quản Trần Văn Thành”.
+ Đức Phật Trùm (gốc người Khơme) quê ở sốc Lương Phi núi Tà Lơn
thuộc quận Tịnh Biên - tỉnh Châu Đốc. Người đời còn gọi là ông Đạo Đèn vì
thấy Ngài trị bệnh hay dung sáp đốt cho bệnh nhân ngửi là hết bệnh. Ngài tu và
SVTH: Đặng Ngọc Ân
7
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
truyền đạo ở núi Tà Lơn năm 1868 và tịch năm 1875, Ngài chủ trương tu tại gia
và cũng tiết lộ thân phận là tiền kiếp của Đức Phật Thầy Tây An.
+ Đức Bổn Sư chính danh là Ngô Lợi sinh năm 1830, mở đạo năm 1878,
tu và giảng đạo tại núi Tượng, tịch năm 1890 (có tài liệu viết rằng Ngài tịch vào
năm 1909), Ngài lập ra tông phái Hiếu Nghĩa, cũng tu và giảng phật pháp nhưng
chủ yếu là tu tại gia.
+ Sư vãi bán khoai. Xuất hiện ở Kinh Vĩnh Tế (1902), chưa có tài liệu
nào nói rã lai lịch của ông Sư vãi bán khoai, chỉ biết ông truyền đạo phật lời lẽ
và phương thức tu hành rất giống với chủ trương của các vị Bồ tát ( Tổ sư )
trước đó. Kệ giảng của ông để lại là “sám giảng người đời”. Người chuyển kiếp
cuối cùng là Đức Huỳnh giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo như nói ở phần trên.
1.1.2. Sự nghiệp của Đức Huỳnh giáo chủ.
Đức Huỳnh giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo là một trong những vị cổ Phật
lâm phàm độ thế. Ngài là một bậc sinh như tri, trên thông thiên văn, hạ đạt địa
lý và trung hóa nhân sự. Chính vì lẽ đó ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão Ngài đã
khai sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo, chỉ trong một thời gian ngắn mà đã có hai
triệu tín đồ theo đạo. Ngoài ra Ngài không những là một thầy thuốc tài ba với
cách trị bệnh hết sức huyền diệu mà còn là một nhà văn thiên tài với nhiều bài
thi, sấm, đối họa làm bao nhiêu danh sĩ đương thời đều nể phục. Sau khi khai
sáng Đạo Hòa Hảo, Đức Huỳnh giáo chủ đã sử dùng ba phương pháp để truyền
bá đạo pháp cũng như tạo lòng tin để tín đồ chuyên tâm tu đạo. Việc cùng lúc sử
dụng ba phương pháp đó còn gọi là “tam độ nhất như” – trị bệnh độ đời, thuyết
pháp độ đời, viết sấm giảng.
Về phương diện trị bệnh độ đời, Ngài sử dụng phương pháp hết sức
huyền diệu là chỉ dùng giấy vàng, nước lã. Có khi thì dùng lá xoài, lá mít, lá ổi,
bông trang, bông thọ,… vậy mà chữa được vô số chứng bệnh kì lạ như dịch tả,
tê liệt, câm điếc,… Nhưng Ngài lại phân ra hai hạng bệnh nhân: kẻ đau căn và
SVTH: Đặng Ngọc Ân
8
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
người đau quả. Ngài khẳng định đau căn thì chữa được còn đau quả thì không
ông thầy nào trị nổi.
Về thuyết Pháp độ đời: Bên cạnh việc trị bệnh thì Ngài còn thuyết giảng
những giáo lý cao siêu của nhà Phật cho “kẻ có lòng mộ đạo quy căn cùng Thầy
Tổ”.Ngài thuyết giảng cả ngày lẫn đêm mà không biết mệt mỏi. Chính phương
pháp thuyết giảng này đã thu hút rất đông người vì trong lời thuyết giảng còn ẩn
ý những huyền cơ, thức tỉnh lòng người hầu ăn năn cải hối làm lành lánh giữ.
Mặt khác Đức huỳnh giáo chủ còn phải đáp họa lại những học giả, trí thức nho
sĩ thời bấy giờ đến thử tài của Ngài như ông Chín Diệm tức Nguyễn Kỳ Trân ở
Quận Lấp vò, ông Nguyễn Phước Còn ở quận Chợ Mới,… Chính sự siêu phàm
của Ngài mà làm cho toàn thể tín đồ theo đạo có đủ cơ sở đức tin để chuyên tâm
tu tập cho đến ngày thành công viên mãn.
Sáng tác kệ giảng: trong thời gian 7 năm 9 tháng 7 ngày(từ 18/5/1939 đến
25/2/1947) hoằng khai đạo pháp Ngài đã viết ra sáu quyển sấm giảng và trên
200 bài rời sau này được tập hợp trong “sấm giảng thi văn giáo lý toàn bộ” của
Phật Giáo Hòa Hảo. Phần này sẽ được nói rõ hơn ở phần sau.
1.2 Giáo lý và Giới luật.
1.2.1 Giáo lý.
Sau khi sáng lập ra đạo Phật giáo Hòa Hảo vào 18-5 năm Kỷ Mão (1939)
thì bên cạnh việc độ bệnh giúp đời và thuyết giảng nhưng chưa chỉ pháp môn tu
hành là điều mà những người muốn tu hành cần phải có, để nương theo đó mà tu
học hầu cho đắc thành quả vị phật hay hoàn toàn giải thoát. Chính vì thế Ngài
bắt đầu viết Sấm Giảng để trình bày hay phổ truyền giáo pháp của Ngài.
Tuy Phật giáo Hòa Hảo là một mối đạo nhưng triết lý căn bản vẫn là đạo
Phật. Bởi vì Đức Thầy từng bảo rằng: ta không quên ta là một đệ tử trung thành
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (2) hay là:
SVTH: Đặng Ngọc Ân
9
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
“Đạo vô vi của phật ân cần
Nối theo chí Thích Ca ngày trước”. (3)
Nhưng nét đặc trưng trong giáo lý Phật giáo Hòa Hảo là pháp môn học
phật tu nhân để tu đền nợ thế cho rồi thì sau mới được đứng ngồi tòa sen, đắc
thành đạo quả.
Về phương pháp truyền đạt, phần lớn ngài sử dụng văn vần để người đọc
hứng thú, dễ nghe, dễ tiếp nhận, vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, vừa đáp ứng
được trình độ nhận thức của quần chúng thời bấy giờ. Thật vậy, trong bối cảnh
xã hội nước ta lúc này thì thực dân Pháp dung chính sách ngu dân để trị, đạo
Phật đang ở thời kỳ “thoái trào” nên mấy ai hiểu được tiếng Phạn trong kinh
sách hoặc dù có dịch sang Việt ngữ hay Hán ngữ thì cũng chỉ giới hạn ở một số
tăng ni có kiến thức, còn phật tử, giới bình dân, nhất là nông dân miền Tây Nam
bộ thì mấy ai hiểu được kinh sám cảu Phật dạy những gì mà tu tập hay hành trì:
“Quá mắc mỏ bởi chân Phạn ngữ
Nên người đời khó kiếm cho ra
Mõ chuông bày đọc tụng ó la
Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý”(4)
Chính vì thế Ngài ra đời tế độ để đáp ứng căn cơ nguyện vọng của chúng
sanh mà truyền giáo pháp siêu mầu của Đức Phật để lại:
“Quyết dạy trần nên nói thường
Cho sanh chúng đời nay dễ biết” (5)
Hay là:
“Dạy bổn đạo lấy câu trung đẳng
Chẳng nói cao vì sắp hết đời” (6)
Toàn bộ giáo lý Phật giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh giáo chủ chỉ gói gọn
trong quyển “Sấm giảng thi văn giáo lý toàn bộ” (trên 500 trang khổ 15x20cm)
bao gồm 2 phần là: phần sám giảng giáo lý gồm 5 quyển sám giảng bằng văn
SVTH: Đặng Ngọc Ân
10
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
vần, 1 quyển bằng văn xuôi và phần còn lại là phần thi văn giáo lý với gần hai
trăm bài thi thơ hay đáp họa. Sau đây là khái lược về những quuyển sấm giảng
của Ngài đã viết:
+ Sấm giảng quyển 1 “Khuyên người đời tu niệm” được Đức Thầy viết
vào khoảng tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) tại Hòa Hảo, phẩm kinh nay được viết
theo thể thơ lục bát, dài 912 câu. Trong quyển này, Đức Thầy đánh thức bá tánh
vạn dân bằng cách tiên tri những cảnh lầm than khốn khổ mà nhân loại phải trải
qua trong thời can hoa binh lửa. Cũng trong quyển này Ngài đã cho biết quá
trình đi dạo lục châu để tiếp cân bá tánh bằng cách hóa hiện thành người ăn xin
đui cùi, lão đưa đò, người bán cá, bán thuốc hát rong,… nhằm dễ bề thâm nhập
quần chúng thuyết giảng kinh kệ nhằm thức tỉnh người đời và khuyên người đời
tu niệm. Song tính đặc biệt của quyển này có lẽ là “Sấm” mở màng cho thời kỳ
“hạ ngươn mạt pháp”, “thảm họa sắp tràn lan” nên Ngài tiết lộ rằng:
“Hạ ngươn nay đã hết đời
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang
Năm Mèo kỷ mão rõ ràng
Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi”.
Hay là:
“Thấy đời ly loạn bất an
Khắp trong các nước nhộn nhàng đao binh”.
Để từ đó Ngài chú tâm vào việc khuyên người đời tu niệm, làm lành lánh
dữ được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong quyển này, cụ thể:
“Tu hành đâu có tốn xu
Mà sao thoát khỏi lao tù thế giang”
Hay là
“Khuyên trong lê thứ trẻ già
Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho”
SVTH: Đặng Ngọc Ân
11
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
Ở cái thời Lang-xa thống trị, nước mất nhà tan mà những người tham gia
cộng tác, làm việc cho triều đình hay cộng tác cho Pháp thì Ngài ví như những
kẻ đui mù không thấy xa hiểu rộng. Ngài ám chỉ:
“Thương ai ham võng ham dù
Cũng như những kẻ đui mù đi đêm…”
Qua đây ta thấy tuy đây là quyển thứ nhất nhưng đã cho thấy được sự
huyền diệu nhiệm mầu của bậc hiển thánh trong những lời tiên đón thiên cơ,
thời cuộc một cách chính xác góp phần thức tỉnh chúng sanh, bá tánh tìm về
đường ngay nẻo chánh mà quay đầu hướng thiện.
+ Sấm giảng quyển 2 “Kệ dân của người khùng” được Đức Thầy viết
ngày 12 tháng 9 năm Kỷ mão (1939) tại Hòa Hảo, thánh phẩm này được viết
theo thể văn thất ngôn trường thiên gồm 476 câu. Cũng như trong quyển nhất,
Đức thầy tiếp tục tiên tri những tai nàn sắp đến, những đau thương chết chóc,
sinh linh đồ khổ nhưng ngài nêu cụ thể là ở đất nước Việt Nam, thảm cảnh của
dân tộc Việt Nam:
“Thương hại bấy lê dân đứt ruột
Thảm vợ con đói rách đùm đeo
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc…”
Bên cạnh đó, Ngài cũng tiên tri những tai nàn sắp xảy đến vừa khuyên
chúng sanh làm lành lánh dữ, lo tinh tấn tu hành thì sẽ được vãng sanh cực lạc:
“Đến chừng đó bốn phương có giặc
Khắp hoàn cầu thiết thiết that ha
Vậy sớm mau kiếm chữ ma-ha
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa…”
SVTH: Đặng Ngọc Ân
12
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
Ngoài ra Ngài còn đánh đổ mê tín dị đoan của những nhà sư dối tu chỉ
dụng âm thinh sắc tướng, mượn bồ đề chuỗi hột lòe đời hoặc lừa gạt bá tánh
thập phương:
“Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ
Từ xưa nay có mấy ai thành…”
Hơn thế nữa, Đức Thầy cũng không quên những bậc thượng trí thượng
căn nên Ngài cũng giáo thuyết them những điều vừa cao siêu vừa đầy chơn lý:
“Phật tại tâm chớ có đâu xa
Mà tìm kiếm ở trên non núi”
Hoặc là:
“Đạo Thích Ca nhiều nỗi cao sâu
Phải tìm kiếm cái không mới có”
Đồng thời qua đây Ngài tự khẳng định xứ mệnh của mình đối với Đức
Thế Tôn đã giao phó nhằm tạo một niềm tin mãnh liệt trong tín đồ trên bước
đường tu tập:
“Đức Di Đà truyền mở đạo lành
Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy”
+ Sấm giảng quyển 3 “Sám giảng” được Ngài viết theo thể văn lục bát
năm 1939 tại Hòa Hảo, phẩm kinh này dài 612 câu. Trong quyển này Ngài dạy
tu nhân đạo (đạo làm người) một cách hoàn toàn để đền đáp công ơn cha mẹ và
đắc thành đạo quả:
“Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”
Đồng thời Ngài dạy trai gái phải biết gìn giữ tam cang ngũ thường và tam
tùng tứ đức, cũng như cách cư xữ đối đãi với bà con nội ngoại, cô bác anh em,
xóm giềng lân cận. Đặc biệt là phần hiếu đạo không những lúc cha mẹ còn sống
SVTH: Đặng Ngọc Ân
13
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
mà còn hiếu đạo lúc lâm chung, Ngài dạy bỏ bớt cóc keng, trống đờn lễ nhạc tế
và bớt giết con vật đặng mà cúng tế:
“Bỏ bớt rình rang một khi
Nếu cha mẹ chết làm y lời này
Là lời truyền giáo của Thầy
Bông hoa cầu Phật hiệp vày đi chôn”
Hay là
“Dương trần lắm chuyện lạ kỳ
Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo
Của tiền chớ có bỏ theo
Chết rồi tế lễ bò heo làm gì”
+ Sấm giảng quyển 4 “Giác mê tâm kệ” được Đức Thầy viết theo thể thơ
thất ngôn trường thiên vào ngày 20 tháng 9 năm 1939 tại Hòa Hảo, phẩm kinh
này dày 846 câu. Trong phẩm kinh này Ngài tuyên truyền những pháp môn
hành đạo của Đức Thích Ca khi xưa như Tứ Diệu Đế, Bát chánh đạo, Bát
nhẫn… và giảng giải thế nào là tứ khổ, tứ đổ tường, ngũ uẩn, lục căn, lục trần,…
cho người đời theo đó mà tu hành cho đắc quả. Bên cạnh dạy tín đồ làm tròn
nhơn đạo thì Ngài còn hướng cho bổn đạo tín đồ bước lên nấc thang cao hơn
trên co đường tu học, tu tâm. Cụ thể:
“Nếu ai mà biết chữ tu trì
Tâm bình tịnh được thì phát huệ”
Hay là:
“Mài gươm trí cho tinh cho khiết
Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không”.
Ngài cũng nhấn mạnh viêc tu tâm – là một pháp môn thiền định rất cao
trong giáo lý nhà phật, ở đó tâm không còn vọng đọng, tránh được mọi phiền
não và chỉ có được ở những người tu hành tinh tấn, ngộ đạo. Ngài dạy rằng:
SVTH: Đặng Ngọc Ân
14
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
“Địa ngục cũng tại tâm làm quấy
Về thiên đàng tâm ấy tạo ra
Cái chữ tâm mà quỷ hay ma
Tiên hay phật cũng là tại nó”.
Với quyển này Đức Huỳnh Giáo Chủ đang xây dựng hoàn chỉnh một con
người tiến dần đến ngưỡng cửa Phật đường, đi đúng theo giáo lý chân truyền
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
+ Sấm giảng quyển 5 “ Khuyến Thiện” (lời khuyến thiện của ông vô danh
cư sĩ) Phẩm kinh này đoạn đầu và đoạn cuối được Đức Thầy viết theo thể thơ
lục bát, đoan giữa theo thể thất ngôn trường thiên vào năm Tân Tỵ (1941) tại
nhà thương Chợ Quán dài 756 câu. Nội dung thánh phẩm này Ngài nhắc lại sự
tích của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, luận giải về tám sự khổ trong cõi ta bà, sự
diệt ngũ-trược, trừ thập ác và hành thập thiện. Cũng trong quyển này, Ngài
khuyên người đời tu theo pháp môn tịnh độ để cầu sanh về cực lạc vì trong thời
kỳ hạ ngươn mạt pháp này thì đây là pháp môn cứu cánh, phù hợp với căn cơ
trình độ của tất cả chúng sanh:
“Môn tịnh độ là phương cứu cánh
Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa
Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa
Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng”
Hay là:
“Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ
Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh
Nếu như ai cố chí làm lành
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc”
Đặc biệt nếu xét về mặt “lôgic”, thì sấm giảng quyển 5 này thể hiện tính
liên tục và kế thừa quyển 4 “Giác mê tâm kệ” nhằm chân lý hóa triết lý Phật
SVTH: Đặng Ngọc Ân
15
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
giáo, không phải là những điệp khúc trong các quyển kệ giảng trước, mà tái
khẳng định sự mầu nhiệm của đạo đưa con người thoát khỏi kiếp luân hồi, đi
đến giải thoát.
“Tiếng kệ tù bi quá diệu trầm
Diệt lòng tham vọng diệt thinh âm
Trần giang say đắm theo màu sắc
Tịnh độ giác thuyền trị dục tâm…”
Hay là:
“Hào quang chư phật rọi mười phương
Đạo pháp xem qua chớ gọi thường
Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu
Cố công gìn giữ tánh thuần lương”
Bên cạnh đó Ngài cũng kêu gọi lòng hy sinh với sự thành thật của tăng đồ
nhà phật và sự hưởng ứng của thiện nam tín nữ:
“Nếu xuất gia thì phải hy sinh
Cả vật chất tinh thần lo đạo”
+ Sấm giảng quyển 6 “Tôn chỉ hành đạo – cách tu hiền và sự ăn ở của
người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo” (những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền).
Thánh phẩm này được Đức Thầy viết theo lối văn xuôi vào tháng 5 năm 1945
dương lịch, tại Sài Gòn. Trong phẩm kinh này, Ngài đã nêu lên những điều sơ
lược cần biết của kẻ tu hiền, luận giải về tam nghiệp, bát chánh đạo, chỉ dẫn tín
đồ thực hiện tứ đại trọng ân, hành thập thiện, trừ thập ác. Bên cạnh đó Ngài
cũng chỉ dạy cách thờ phượng, cầu cúng, hôn nhân, tang lễ theo đúng tinh thần
Phật giáo và phong tục cổ truyền của dân tộc cũng như cách đối đãi với các tăng
sư, chùa chiền, với các tôn giáo khác và nhân sinh. Đồng thời Ngài cũng khuyên
tất cả mọi người nên chăm cần học hỏi để mở mang trí tuệ, luyện tập thể dục,
giữ gìn vệ sinh để tạo cho mình một sức khỏe dồi dào ngõ hầu làm việc đạo
SVTH: Đặng Ngọc Ân
16
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
nghĩa, nên làm nghề lương thiện và tránh lường cân tráo đấu, đầu cơ buôn
lậu,…Đặc biệt trong quuyển này còn có bài “Lời khuyên bổn đạo” tức “Tám
điều răn cấm” mà mỗi người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo phài hành theo. Nó cũng
được xem như là giới luật của Đạo này.
Ngoài ra, Đức thầy còn viết rất nhiều bài thi, bài văn, những bài đáp họa
với các học sĩ dương thời. Những bài này được Ngài viết theo nhiều thể loại như
tứ tuyệt, thất ngôn bát cú đường luật, lục bát,…, hay những bài văn với lời lẽ
hùng hồn, cảm động, ý tứ và bí ẩn sâu xa. Tất cả những bài này được tín đồ Phật
giáo Hòa hảo tập trung lại thành quyển “thi văn giáo lý của Đức Huỳnh giáo
chủ”.
Tóm lại, giáo lý Phật giáo Hòa Hảo không phải là một kho tàng kinh điển,
mà ở đó chỉ có 6 quyển với vài trăm trang sách nhưng nội dung kệ giảng của
Ngài đã lý giải được các vấn đề bức xúc trong xã hội, đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng đạo Phật của tín đồ, đạo làm người trong đối nhân xử thế, bổn phận
nghĩa vụ công dân với quốc gia dân tộc và cũng không chỉ giới hạn ở lĩnh vực tu
thân, giáo lý của Ngài còn làm sáng tỏ chân lý của nhà Phật, phát huy công đức
tu hành của các bậc tăng ni, giáo phẩm trên con đường chấn hưng Phật giáo, vun
vén đạo mầu,…như Đức Thầy đã từng dạy:
“Chớ chia rẽ phải đồng tâm lực
Khua vọng vàng đánh thức bốn phương
Chấn hưng Phật giáo học đường
Dưới trên hòa thuận trọn đường quy nguyên”
Có thể nói trong hoàn cảnh nước nhà bị xâm lược, nô dịch, đói nghèo,
Phật giáo Hòa Hảo và giáo lý của Đạo này ra đời và đến với đông đảo quần
chúng nghèo nàn, ít học là để cứu rỗi họ khỏi chìm đắm trong mê hoặc thần
quyền, đem chân lý đại đồng, từ bi bác ái và giá trị nhân sinh quan của Phật giáo
để khai mở trí tuệ, đánh thức lòng yêu nước, giúp cho số đông quần chúng sớm
SVTH: Đặng Ngọc Ân
17
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
theo kịp đà tiến bộ của xã hội. Chính vì thế Đạo Hòa Hảo không chỉ có sức cảm
hóa, thuyết phục mà còn tạo được một đức tin lớn trong lòng của mỗi người tín
đồ. Dù trải qua bao giai đoan thăng trầm nhưng Đạo Hòa Hảo vẫn đứng vững và
phát triển cho đến ngày nay.
1.2.2 Giới luật.
Một đất nước thái bình thịnh trị căn bản là toàn dân phải chấp hành luật
pháp nghiêm minh. Trong tôn giáo cũng vậy, tôn giáo nào cũng đều có giới luật
bắt môn nhơn đệ tử phải tuân thủ theo, vì rằng khi đã làm môn nhơn đệ tử của
một tôn giáo nào mà không nghiêm thủ giới luật thì mới lấy đâu đảm bảo rằng
kẻ kia là một tín đồ. Thế nên trong đạo phật, giới luật là đứng đầu các hạnh, vì
vậy người tu có giữ giới đạo nghiêm minh thì tâm tánh mới an định và khi tánh
an định thì trí tuệ mới phát khai. Ngài Đàm Nhất Luật Sư có nói rằng: “Tam thế
phật pháp…giới vi căn bản, bản chi bất tu, đạo viễn hồ tai”(7) – chư phật ba đời
thuyết pháp, đều lấy giới hạnh làm căn bản, căn bản không tu xa đạo lắm vậy.
Tôn giáo Phật giáo Hòa Hảo cũng vậy cũng rất coi trọng việc giữ gìn giới luật.
Đức Huỳnh giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo có dạy rằng:
“Phật từ bi độ trong nhơn vật
Là luật kinh dạy rất tinh tường
Nếu chẳng nghe hồn vướng tai ương” (8)
Vậy giới luật là gì? Giới có nghĩa là phòng ngừa ngăn cấm sự sai trái của
nhân tâm; Luật là phép tắc, những nghi thức, giới cấm để người tu hành cần
phải gìn giữ. Vậy giới luật là điều luật ngăn cấm các tín đồ làm đều sái quấy, tà
vạy.
Giới luật giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống của người tu hành.
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật Thích Ca đã dặn dò “này các tỳ kheo sau khi ta
diệt độ, các ông nên tự mình thấp đuốc lên mà đi, lấy giới luật làm thầy, cũng
như người đi trong đêm tối mà gặp đèn sáng, người nghèo được của báo, dù ta
SVTH: Đặng Ngọc Ân
18
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
có trụ ở đời này cũng chẳng khác pháp này vậy” (9). Đức Huỳnh giáo chủ xác
định giáo lý của Ngài “rút trong các luật các kinh” và đã khẳng định để tín đồ trì
hành:
“Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta
Bố thí, trì chay, giữ giới mà”(10)
Muốn tránh khỏi con đường khổ ở thế gian đó là “cái sanh, cái bịnh, các
lão, cái tử, được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác… rồi đến
người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai”. Ngài dạy
chúng ta phải quyết tâm trì hành: bố thí, trì chay và giữ giới. Đó là ba chân của
một đỉnh giải thoát. Ngài còn dạy chúng ta “Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì
chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt là ở chỗ giữ giới luật hàng ngày”. Do tín
đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều thuộc hạng tại gia cư sĩ học phật tu nhân, không
phân biệt nam nữ, già trẻ, Đức Thầy khuyên giữ “Tám điều răn cấm” cùng
“những điều nên tránh hẳn hoặc châm chế hoặc nên làm” và vừa hành thập
thiện (tránh tam nghiệp và chừa thập ác) theo tinh thần tam tụ giới: “Điều cần
yếu là phải làm hết các việc từ thiện. Tránh tất cả điều độc ác. Quyết rửa tấm
lòng cho trong sạch”(11). Trong tám điều răn cấm, điều nào cũng mang tinh thần
tam tụ giới (tránh ác, hành thiện, đem lợi ích cho mọi người). Sau đây là “tám
điều răn cấm” mà Đức Huỳnh giáo chủ muốn tín đồ phải hành theo:
“ Điều thứ nhất: Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, chơi bời theo đàn
điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.
Điều thứ nhì: Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn
và lo tu hành chơn chất, chẳng nên gây gỗ lẫn nhau, hay tha thứ tội cho nhau
trong khi nóng giận.
Điều thứ ba: Ta chẳng nên ăn xài chưng dọn cho thái quá và lợi dụng
tiền tài mà đành quên nhân nghĩa và đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu
sang phụ người nghèo khó.
SVTH: Đặng Ngọc Ân
19
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
Điều thứ tư: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc
nguyền rủa, vì Thầm Thánh không cang phạm đến ta.
Điều thứ năm: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát sanh
hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà
than thứ tội cho ta, vì nếu ta làm tôi sẽ huỏng tội, còn hạng ăn đò cúng kiếng mà
làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại
ta.
Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn
tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không
xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường,
đói rách,tàn tật.
Điều thứ bảy; Đứng trước về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho
minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.
Điều thứ tám: Tóm tắt ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu
dắt nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi
Tây Phương an dưỡng, mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở về cứu vớt chúng
sanh.
Tất cả thiện nam tín nữ trong Tôn giáo nhà phật lúc rảnh việc nên thường
coi kệ giảng mà giữ gìn phong hóa nước nhà, giữ những tục lệ chơn chánh, bỏ
tất cả những sự dị đoan mê tín mà làm cho đạo đức suy đồi.
Đạo pháp thường hay dung với hòa,
Xét người cho tột xét thân ta.
Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
Ta thứ được người, người thứ ta”. (12)
Qua đây chúng ta thấy, giới luật của Phật giáo Hòa Hảo cũng có chỗ
giống ngũ giới, thập giới của đạo phật, diệu dụng của nó cốt yếu để tín đồ với
pháp môn học phật tu nhân, hoàn thành hạnh đức để có thể đắc thành đạo quả,
SVTH: Đặng Ngọc Ân
20
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
siêu sanh về cảnh giới an lành. Cứ theo trình tự của “tám điều răn cấm” mà Đức
Thầy đã sắp thì từ điều thứ nhất tới diều thứ tám là một sự tu tiến từ hành thấp
đến cao như:
Điều thứ nhất: hoàn bị hạnh tu nhân.
Điều thứ hai: rèn luyện đức tánh cần kiệm, tinh tấn, khoan dung.
Điều thứ ba: rèn luyện đức tánh thanh đạm, chơn chánh, bố thí, cương
trực.
Điều thứ tư: hoàn bị hạnh chánh ngữ.
Điều thứ năm: rèn luyện đức tánh hiếu sanh.
Điều thứ sáu: Hoàn bị hạnh chánh kiến.
Điều thứ bảy: khai mở chánh trí.
Điều thứ tám: gây tình tương thân tương ái và khai thị pháp môn thiền
tịnh song tu, và thực hành bồ tát hạnh.
Nói tóm lại Đức Thầy với tám điều răn cấm là khuyên tu nhân đạo, khai
mở tâm lành tánh tốt, khai mở chánh kiến và chánh trí, hoàn thành đạo quả, và
được vãng sanh cực lạc.
Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy được trong hai thời cúng sáng chiều của
người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cũng là giới luật căn bản của Đạo:
“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa
Vọng cửu huyền sớm tối mới mầu”
Trong thời cúng sáng chiều thì Đức Thầy dạy chúng ta sám hối mỗi khi
làm lỗi. Trong bài “quy y” của Ngài có dạy rằng: “nguyện cải hối ăn năn, làm
lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật đạo”. (13)
Tuy nhiên tất cả các giới luật điều khoản của nhà Phật cũng như những
điều răn cấm của Đạo Phật giáo Hòa Hảo đều mang ba tính chất: tự nguyện,
thiết thực, tùy duyên. Nhưng tựu chung lại đều mang sự an vui, trật tự xã hội ổn
định, dân giàu, nước mạnh, ấm no và hạnh phúc.
SVTH: Đặng Ngọc Ân
21
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập
Luận văn tốt nghiệp Đại học – Khóa 35
Chuyên ngành Sư phạm lịch sử
1.3 Nghi thức thờ phƣợng và cầu cúng.
1.3.1. Nghi thức thờ phƣợng.
Như chúng ta đã biết mỗi một tín ngưỡng tôn giáo hay mỗi một mối đạo
đều có nguyên tắc thờ phượng khác nhau. Mỗi đạo giáo đều có cơ sở thờ tự để
phật tử (giáo đồ) hành lễ, cầu cúng, học tập kinh sám. Ví như đạo Phật thì xây
dựng chùa chiền thờ các vị Phật, bồ tát, Thiên Chúa thì có nhà thờ Đức Chúa
Jesus, Đức Mẹ Maria đồng trinh, Cao Đài thì có các Tòa thánh,… Tuy nhiên,
Đạo Hòa Hảo không chủ trương xây dựng chùa chiền, không thờ tượng hình
ảnh. Việc phụng thờ và hành đạo của tín đồ Hòa Hảo rất đơn giản, chủ yếu là
tiến hành tại gia. Đức Huỳnh giáo chủ dạy rằng “từ trước đến nay, các chùa
chiền đã tạo quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn-kính đấng Từ-Bi mới làm
ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ-lợi. Bây giờ chúng ta
không nên tạo thêm nữa. Làm thế chúng ta không có ý hủy-báng sự thờ-phượng
của các chùa-chiền. Cách thờ phượng tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta
cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư sĩ ở nhà không nên tạo thêm
nữa; nên thờ đơn giảncho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào
nhoáng bề ngoài.”(14). Thế nhưng, tuy là chủ trương không xây dựng chùa chiền
nhưng thực tế đạo Hòa Hảo vẫn quản lí một số chùa chiền của phật giáo chủ yếu
là ở những nơi đa số là tín đồ của Phật giáo chuyển theo tín ngưỡng Hòa Hảo.
Sau này ở các xã, các ấp người ta cho xây dựng các “tòa đọc giảng” để đọc sấm
giảng và dạy giáo lý cho tín đồ, nhưng đó không phải là nơi thờ tự của đạo. Đặc
biệt, trước cửa sân mỗi nhà của người tín đồ Phât giáo Hòa Hảo điều có một bàn
thông thiên với một lư hương (chân nhang), lọ cấm hoa, 3 cái chung đựng nước
là để người tín đồ cầu cúng mỗi ngày.
Trong mỗi nhà của người tín đồ cũng có thể xem như là một nơi thờ tự
nhỏ (am nhỏ) vì có đủ 3 ngôi thờ tôn kính được đặt ngay chính diện trong gian
nhà: thứ nhất là bàn thờ cửu huyền thất tổ (bàn thờ ông bà tổ tiên), thứ hai là
SVTH: Đặng Ngọc Ân
22
CBHD: ThS. GVC. Thầy Khoa Năng Lập