Sáng kiến kinh nghiệm
PHÒNG GD&ĐT HẢI LĂNG
TRƯỜNG THCS HẢI CHÁNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC
MÔN TOÁN CHO HỌC SINH KHỐI 6,7.
HỌ VÀ TÊN :ĐẶNG THỊ QUỲNH NHI
TỔ :TOÁN TIN
Hải Chánh.Ngày
Đặng Thị Quỳnh Nhi
tháng
năm 2010
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN I:
MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài:
Những năm gần đây, định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được
thống nhất theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ
chức hướng dẫn của giáo viên. Học sinh phải tự giác chủ động tìm tòi phát hiện,
giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng các kiến thức, kỹ năng thu
nhận được… Và thực tế, việc áp dụng phương pháp dạy học đã phát huy tối đa
năng lực học tập của học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh khá trở lên.Còn đối
với những đối tượng học sinh yếu, kém thì sao?
Tình trạng học sinh học yếu môn Toán ở cấp THCS là một thực tế đáng lo
ngại và là nỗi băn khoăn trăn trở của nhiều giáo viên dạy Toán. Có nhiều nguyên
nhân làm cho học sinh học yếu môn Toán, song nguyên nhân chính là học sinh
chưa có phương pháp học tập đúng đắn, có nhiều lỗ hỗng về kiến thức, kỹ năng.
Từ thực tế đó tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, tìm ra giải pháp để khắc
phục tình trạng trên mới có thể nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo cho
học sinh niềm say mê học tập nhất là đối với môn Toán.Đa số học sinh cho rằng
môn toán khó nhất.Tại sao học sinh chúng ta vẫn cứ học kém? Để thích toán đã
rồi mới học được.Đúng toán là môn 3k ( khô - khó - khổ).Theo điều tra học sinh
khối 7 có bảng số liệu sau:
Mức độ
Yêu thích
Vừa
Không thích
Số lượng
15/75
28/75
27/75
Chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu nguyên nhân tại sao các em học sinh lại
không thích học bộ môn toán như vậy?Nguyên nhân này làm chúng tôi trăn
trở,băn khoăn.Khi được hỏi em học toán như thế nào?Em có hiểu bài khi thầy cô
dạy không?Em hiểu nhưng rồi khi làm bài em quên.Có sách tham khảo không?
Nhiều sách trên thị trường quá em không biết chọn lựa tài liệu nào tham khảo,đa
số mua sách giải về chép bài.Các em có tham gia học nhóm không?Hoạt động
nhóm ở lớp thì thực hiện như thế nào?.....Kết quả tìm hiểu cho thấy các em đa số
không có phương pháp tự học tập bộ môn toán như thế nào cho có hiệu quả.Làm
thế nào trong các tiết dạy giáo viên có thể xây dựng được phương pháp tự học
cho học sinh lớp 6,7.Đây là lớp học đầu cấp ,các em còn khá lúng túng trong
cách học của các bộ môn.Ở lứa tuổi học sinh tiểu học còn thụ động trong học tập
,ở cấp II các em phải lĩnh hội nhiều kiến thức đòi hỏi việc các em tự học nhiều
hơn Sự định hướng đúng đắn trong công tác giảng dạy của giáo viên giúp các
em có cách học tốt tạo nền tảng kiến thức,lòng say mê trong bộ môn toán là rất
quan trọng .
Làm việc gì người ta cũng cần phải có phương pháp, vì có phương pháp
mới dẫn tới thành công. Việc học đòi hỏi phải có phương pháp một cách chặt
chẽ hơn.
Tự học giúp các em có thể tự chíêm lĩnh tri thức .Các em tự mình đi tìm
các kiến thức nhằm khắc sâu kiến thức và bồi dưỡng lòng say mê toán học. Dưới
sự hướng dẫn của giáo viên giúp các em có phương hướng đúng trong sự tìm
tòi ,sáng taọ làm các em nhớ lâu và nhớ kỉ hơn ,rèn kỉ năng giải toán tốt hơn
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
Quan điểm dạy học tích cực đã được vĩ nhân Khổng Tử đút kết “ Nói cho
tôi biết - tôi sẽ quên, chỉ cho tôi thấy - có thể tôi sẽ nhớ, cho tôi tham gia -tôi sẽ
hiểu”.
Trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là việc rèn luyện phương
pháp học tập của học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả mà còn
là một mục tiêu dạy học.
Xét về chuỗi các phưong pháp học thì cốt lõi nhất vẫn là phương pháp tự
học của học sinh. Nếu rèn được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học
thì sẽ tạo cho các em lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
người, kết quả học tập sẽ cao lên. Do vậy hoạt động “tự học” trong quá trình dạy
có ý nghĩa to lớn, nó giúp người học chuyển từ học tập thụ động sang tự học chủ
động, quá trình tự học không chỉ diễn ra ở nhà mà nó còn phải diễn ra trên lớp ở
tất cả các giờ học nhất là trong giờ học toán.Vì vậy tôi đã thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm xây dựng phương pháp tự học môn toán cho học sinh khối 6,7.
II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
-Giúp học sinh định hướng được các phương pháp tự học .
-Hình thành các kỉ năng tự học cho học sinh nhằm chiếm lĩnh tri thức .
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1.Đối tượng :
Học sinh lớp 6, 7-trường trung học cơ sở Hải Chánh - Hải Lăng -Quảng Trị
2.Thời gian nghiên cứu :
Năm học 2009-2010
3. Phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này là sự kết hợp của nhiều phương
pháp nghiên cứu :
a. Phương pháp quan sát :
Quan sát hoạt động dạy của giáo viên, học sinh .
b. Phương pháp điều tra giáo dục :Là phương pháp khảo sát một số lượng
lớn các đối tượng nghiên cứu ở một hay nhiều lĩnh vực vào một hay nhiều thời
điểm. Điều tra giáo dục nhằm thu thập rộng rãi các số liệu hiện tượng để từ đó
phát hiện các vấn đề cần giải quyết. Xác định tính phổ biến, nguyên nhân. Chuẩn
bị các bước nghiên cứu tiếp theo. Ở đây, sử dụng phương pháp điều tra thông qua
trò chuyện, trao đổi với học sinh và điều tra bằng câu hỏi .
c . Phương pháp tổng kết kinh nghiệm :
Tham khảo những bản báo cáo, sách, ở đồng nghiệp…. và kết quả thực
hiện tổng kết nên những kinh nghiệm. Giáo viên trao đổi để tìm hiểu về vấn đề
học tập của từng học sinh với giáo viên đã dạy qua năm trước đó, đồng thời đầu
năm học kiểm tra chất lượng để đánh giá từng học sinh chính xác hơn
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN II:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1. Đổi mới PPDH - một cách hiểu ?
Có thể hiểu và nên hiểu đổi mới PPDH với các mức độ sau đây :
- Là sự cải tiến, hoàn thiện các PPDH đang sử dụng để góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả của dạy học
- Là sự thay đổi PPDH đang sử dụng bằng các PPDH mới tối ưu, kết
hợp với việc sử dụng các phương tiện truyền thông đa phương tiện; từ đó hình
thành nên các “kiểu” Dạy-Học mới với mong muốn đem lại hiệu quả cao hơn.
Cho dù đổi mới ở mức độ nào thì việc dạy - học cũng phải hướng đến
“Dạy - Học lấy học sinh làm trung tâm” với các tiêu chí sau đây :
Thứ nhất : Người dạy phải luôn luôn hướng đến người học, nắm được
đặc điểm, kiểu tư duy của người học, dạy cho người học cái họ cần, giáo dục
cần, xã hội cần chứ không phải chỉ dạy cái mình có.
Thứ hai : Hoạt động hóa người học – giao việc, bằng nhiều phương
thức tạo điều kiện buộc người học làm việc, người học phải là người chủ động
chiếm lĩnh tri thức bằng nhiều con đường khác nhau - Tự mình “chuyển” chỗ ở
của khái niệm từ “quê hương” thứ nhất tới “quê hương” thứ hai - Tâm hồn mình.
Thứ ba : Hợp tác giữa các thành viên - Đảm bảo sự thống nhất biện
chứng giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể trong dạy học
Thứ tư : Thực hiện có hiệu quả “học đi đôi với hành” ,“lý luận gắn liền
với thực tiễn”, khai thác tối đa vốn kinh nghiệm của người học.
Thứ năm : Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học truyền thông đa
phương tiện, góp phần huy động tối đa các giác quan của người học tham gia
vào quá trình dạy học.
2.Tự học là gì?
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc
để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng
nhưng chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy tư duy để thoát khỏi
“lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và đã thành thạo thì hay đặt những dấu
hỏi, phát hiện vấn đề .
3.Các phương pháp tự học trên vào chu trình tự học :
Đó là một chu trình ba giai đoạn:
Giai đoạn 1- Tự nghiên cứu: Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải
thích, phát hiện vấn đề, định hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới
(chỉ mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có
tính chất cá nhân.
Giai đoạn 2 - Tự thể hiện: Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng
lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình,
tự thể hiện qua sự đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy, tạo ra sản phẩm có
tính chất xã hội của cộng đồng lớp học.
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
Giai đoạn 3 - Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: Sau khi tự thể hiện mình qua sự
hợp tác trao đổi với các bạn và thầy, sau khi thầy kết luận, người học tự kiểm
tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản
phẩm khoa học.
Chu trình tự nghiên cứu → tự thể hiện→ tự kiểm tra, tự điều chỉnh “thực
chất cũng là con đường” phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết, và giải quyết
vấn đề của nghiên cứu khoa học.
4. Tâm lý của học sinh :
Giáo viên cần hiểu được tâm lý của học sinh như:
- Học sinh khao khát tự nguyện thamgia trả lời các câu hỏi của giáo viên,
bổ sung các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề
nêu ra.
- Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo
viên trình bày chưa đủ rõ.
- Hay nhất là tổ chức những tình huống có vấn đề đòi hỏi dự đoán, nêu giả
thiết, tranh luận những ý kiến trái ngược.
- Tiến hành dạy học ở mức độ thích hợp nhất đối với trình độ phát triển của
học sinh. Một nội dung quá dể hoặc quá khó đều không gây được hứng thú. Cần
biết dẩn dắt để học sinh luôn luôn tìm thấy cái mới, có thể tự lực giành lấy kiến
thức mới, cảm thấy mình mỗi ngày một trưởng thành.
II.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Rèn luyện phương pháp tự học phải trở thành một mục tiêu học tập:
Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học
tập đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học - đào tạo trong nhà
trường. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận
thức. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn chủ động và độc lập, tự lực tìm
tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên.
Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, cần tự rèn luyện
phương pháp tự học, đây không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả học
tập mà là một mục tiêu quan trọng của học tập. Có như vậy thì phương pháp tự
học mới thực sự là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học.Trong các
phương pháp học tập mang lại hiệu quả cao thì cốt lõi là phương pháp tự học
.Nếu rèn cho học sinh được phương pháp,kĩ năng thói quen,ý chí tự học thì sẽ
tạo cho học sinh lòng ham học ,khơi dậy nội lực vốn có của mỗi học sinh ,kết
quả học tập sẽ tăng lên gấp bội,tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang
học tập chủ động .
Tuỳ theo tình hình cụ thể giáo viên có thể yêu cầu nội dung tự học của các
em như sau:
• Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu
• Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
•
Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu
• Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập
•
Xem thêm
•
Liên kết ngoài
• Thảo luận
Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu
Giáo viên giúp học sinh nắm kiến thức cơ bản, tối thiểu, cần thiết. Giáo viên cần
kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học sinh hiểu khái
niệm không hình thức.Đồng thời với cung cấp kiến thức mới là củng cố khắc sâu
thông qua ví dụ và phản ví dụ. Chú ý phân tích các sai lầm thường gặp.
Tổng kết tri thức và các tri thức phương pháp có trong bài. Đây là giai đoạn khó
khăn nhất, giai đoạn làm quen tiến tới hiểu kiến thức mới, đồng thời là giai đoạn
quan trọng nhất, giai đoạn cung cấp kiến thức chuẩn cho học sinh. Kinh nghiệm
cho thấy khi hoàn thành tốt giai đoạn này học sinh sẽ tiếp thu tốt hơn ở các giai
đoạn sau.
Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn
Giáo viên cho ví dụ tương tự học sinh bước đầu làm theo hướng dẫn, chỉ đạo
của giáo viên. Học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán.
Giai đoạn này thường vẫn còn lúng túng và sai lầm, do học sinh chưa thuộc,
chưa hiểu sâu sắc. Tuy nhiên giai đoạn 2 vẫn có tác dụng gợi động cơ cho giai
đoạn 3.
Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu
Giáo viên ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo mẫu mà giáo viên đã đưa ra
ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Giáo viên tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này
học sinh độc lập thao tác. Học sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài
tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. Giáo viên có thể nắm bắt được
việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của cả lớp và từng cá nhân thông qua
giai đoạn này, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. Giai đoạn 3
có tác dụng gợi động cơ trung gian. Giáo viên thường vận dụng giai đoạn này
khi ra bài tập về nhà.
Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập
Giáo viên nên ra cho học sinh: Hoặc là một bài tập tương tự khác để học sinh
làm ngay tại lớp. Hoặc là bài tập ra về nhà tương tự với bài được học, nhằm rèn
luyện kĩ năng. Hoặc là bài kiểm tra thử. Hoặc là đề thi của năm học trước, nhằm
kích thích học tập bộ môn. Giai đoạn này có tác dụng gợi động cơ kết thúc một
nội dung dạy học. Giáo viên thường vận dụng giai đoạn này trong kiểm tra.Để
có thể dạy học theo bốn giai đoạn như trên đòi hỏi giáo viên phải:
Hiểu sâu sắc kiến thức và các tri thức phương pháp.
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
Trong soạn bài, giáo viên cần chuẩn bị cả bốn loại bài tập cho 4 giai đoạn, bên
cạnh đó còn phải biết phân bậc bài tập cho từng đối tượng học sinh trong lớp.
Và phải biết điều hành các đối tượng học sinh trong một lớp cùng hoạt động
bằng cách giao cho mỗi loại đối tượng một dạng bài tập phù hợp với nhận thức
của họ, có như thế giờ học mới sinh động và lôi cuốn. Dựa vào tình hình cụ thể
với các đối tượng học sinh giáo viên yêu cầu mức độ tự học của các em khác
nhau.Không thể yêu cầu một em học sinh yếu đi chứng minh một bài tập khó
.Nếu giáo viên không nắm được trình độ chuẩn của các em mà đòi hỏi cao sẽ
làm các em nhuẩn chí ,không muốn phấn đấu vươn lên và ngược lại đối với các
em học sinh giỏi nếu giáo viên yêu cầu thấp cũng làm các em tự mãn từ đó
không phát huy được sự tìm tòi sáng tạo của các em.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự học trong tiết dạy :
*Kiến thức trọng tâm trong bài này là gì ?Em cần học nội dung nào?Ví dụ :
Trong tiết ước và bội lớp 6 giáo viên yêu cầu học sinh tự xác đinh kiến thức
trong tâm
• Nắm định nghiã ước và bội của một số.Kí hiệu tập hợp ước và bội của một
số.
• Kiểm tra một số có hay không là ước hoặc bội của một số cho trước
• Xác định ước và bội của một số cho trước trong các trường hợp đơn giản.
*Giới thiệu tài liệu tham khảo:Đối với học sinh khá giỏi thì giáo viên yêu cầu
học sinh tìm thêm tài liệu tham khảo về các nhà toán học,các bài toán nâng cao .
Tiết:Hàm số ở lóp 7 giáo viên giới thệu thêm cách biểu thị hàm số bởi bảng
,công thức , sơ đồ ven .Các em có thể đọc thêm tài liệu: “Bài tập nâng cao và
một số chuyên đề toán 7” trang 46-47 của tác giả Bùi Văn Tuyên.Ra thêm các
bài tập nâng cao đối với lớp chọn 6A trong bài tia phân giác của một góc: Cho
xÔy và yÔz là hai gó kề bù.Vẽ tia Om,On lần lượt là tia phân giác của xÔy và
yÔz .Tính mÔn?
*Bài tập về nhà : Từ đễ đến khó và phân dạng bài tập cho học sinh trong các tiết
phân loại bài tập cho từng đối tượng học sinh khá ,giỏi ,yếu. Các tiết dạy cần
phân dạng các loại bài tập sau đó học sinh xác định một số bài tập thuộc các
dạng đó hoặc tự rút ra bài học hôm nay có những dạng bài tập nào ?Các em hãy
tự cho ví dụ hoặc lấy ví dụ ở sgk.
Tiết: Mặt phẳng toạ độ lớp 7 có các dạng bài :
• Dạng 1:Xác định toạ độ của một điểm và ngược lại cho toạ độ một điểm
xác định điểm đó
• Dạng 2:Vẽ đồ thị hàm số
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
• Dạng 3:Cho một hàm số xác định các điểm sau có thuộc đồ thị hàm số
không?
• Dạng 4:Cho hàm số đi qua điểm nào đó và xác định hàm số
• Dạng 5 nâng cao : Tìm toạ độ giao điểm của hai đồ thị hàm số .Tìm
GTLN, GTNN
• Tiết :Tính chất ba đường trung tuyến của một tam giác lớp 7 thì có các
yêu cầu dành riêng cho các đối tượmg học sinh khi về nhà :
Đối tượng
Yếu
Yêu cầu
+Ba đường trung tuyến thì cắt nhau tại một điểm .Tính chất
của điểm đó.
+Biết tính chất đường trung tuyến của tam giác vuông
+Bài tập 23,24 trang 66 sgk
TB
Ngoài yêu cầu trên thì:Tìm được trọng tâm của tam giác
bằng các cách khác nhau? làm bài tập 23,24,25SGK
Khá
+BTVN: 23:24;25;26;27.
Xác định tâm của đường tròn đi qua 3 đỉnh đối với trường
hợp đặc biệt là tam giác vuông?
Giỏi
Tổng hợp các phương pháp chứng minh đường trung tuyến .
Mở rộng :Hai tam giác có chung một đỉnh và có chung một
trung tuyến thì trọng tâm có cùng một trọng tâm
Trung tuyến của tam giác chia các tam giác có diện tích như
thế nào?Chứng minh?
*Hướng dẫn một số dạng bài tập khó cho học sinh.
Tiết luyện tập dãy tỉ số bằng nhau giáo viên nên hướng dẫn học sinh bài tập :
Tìm x,y sao cho
x y
= ; xy = 10
2 5
x y
Đặt k = = Ta có x = 2k ; y = 5k
2 5
Do xy = 10 ⇒ 2k . 5k = 10
⇒ 10 k2 = 10
⇒
k2 = 1
⇒
k = ±1
k = 1 ⇒x = 2 ; y = 5 ;
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
k = -1 ⇒ x=-2 ; y = -5 ;
*Yêu cầu các em giải bài toán bằng các phương pháp khác nhau.Lựa chọn
phương án tối ưu nhất để giải nhằm rèn luyện phương pháp đồng thời rèn luyện
tư duy sáng tạo ,tự mày mò tìm hiểu vấn đề .
*Kiểm tra tình hình học tập của học sinh thông qua việc chuẩn bị bài trứơc khi
đến lớp cả bài củ và bài mới.Giáo viên kiểm tra, đồng thời yêu cầu học sinh tự
kiểm tra lẫn nhau . Nâng cao chất lượng các câu hỏi :Xét chất lượng câu hỏi về
mặt yêu cầu năng lực nhận thức, người ta phân biệt hai loại chính:
• Loại câu hỏi có yêu cầu thấp, đòi hỏi tái hiện các kiến thức sự kiện, nhớ
lại và trình bày một cách có chọn lọc, có hệ thống.
• Loại câu hỏi có yêu cầu cao, đòi hỏi sự thông hiểu, phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa, vận dụng kiến thức.
*Tự học còn thể hiện qua việc hoạt động nhóm :Các câu hỏi nên khó một chút
so với trình độ hiện tại của học sinh và một công việc đòi hỏi nhiều thao tác thì
giáo viên yêu cầu hoạt động nhóm .Trong tiết tia phân giác của một góc ở lớp 6
thì giáo viên yêu cầu hoạt động theo nhóm bài tập sau: “Cho xÔy và yÔz là hai
gó kề bù.Vẽ tia Om,On lần lượt là tia phân giác của xÔy và yÔz .Tính mÔn?
Cách dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ:
• Lớp học được chia thành những nhóm từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích, yêu
cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ
định, ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học,
các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ khác nhau.
•
Nhóm bầu ra nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân
công mỗi nhóm viên hoàn thành một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi
thành viên đều phải làm việc tích cực, không ỷ lại vào một vài người có
hiểu biết và năng động hơn, các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm
hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc
của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả nhóm. Để trình bày
kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện,
hoặc có thể phân công mỗi nhóm viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ học
tập là khá phức tạp.
2.Giáo viên và học sinh đánh giá năng lực tự học của mình và đối chiếu kết
quả học tập bộ môn với năm trước :Hình thức kiểm tra,đánh giá học sinh cần
phải kết hợp nhiều hình thức đánh giá: giáo viên đánh giá học sinh, học sinh
đánh giá lẫn nhau, học sinh tự đánh giá và đánh giá trong nhiều thời điểm, nhằm
đánh giá thường xuyên những tiến bộ của học sinh trong mỗi giờ học.Từ đó giáo
viên đánh giá học sinh tự nhận thức về vấn đề tự học qua vở bài tập và mức độ
tiến bộ của học sinh đồng thời yêu cầu học sinh đánh giá về bạn.Học sinh điều
chỉnh phương pháp học tập của mình.So sánh đối chiếu với kết quả đạt được.
III.Bài học kinh nghiệm :
1.Hướng dẫn học sinh tự học:
Tự học ở nhà trước hết phải xuất phát từ sự nổ lực đam mê môn học,có
phương pháp tự học, và có đủ các tài liệu cần thiết để tra cứu, do vậy để học sinh
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
có thể tự học ở nhà một cách có hiệu quả thì giáo viên phải hướng dẫn và trang
bị cho các em phương pháp học: Phải biết phân bổ thời gian hợp lý (giờ nào việc
nấy), biết cách nghiên cứu SGK tìm tòi trước những kiến thức có liên quan.
- Tự học ở trường diễn ra dễ dàng hơn, giáo viên cần chú ý tăng cường hoạt
động học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác. Quá trình trao đổi nhóm lẫn
nhau chính là quá trình tự học hiệu quả nhất ở lứa tuổi các em, nơi đó diễn ra
môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, và chính từ giao tiếp này các em tự
kiểm tra và ghi nhớ lâu dài các kiến thức của bài học.
- Để phần tự học của các em đạt hiệu quả thì phần dặn dò ở cuối tiết học giáo
viên không nên dặn dò chung chung như soạn bài 6, làm bài 5 trang…
SGK mà phải hướng dẫn thật kỹ và cụ thể về:
Chuẩn bị kiến thức có liên quan.
Chuẩn bị đồ dùng học tập ở tiết sau.
Giao việc phù hợp cho từng đối tượng, hướng dẫn gợi ý cho bài tập về nhà.
2.Đổi mới vai trò của giáo viên với học sinh:
a.Vai trò của giáo viên:
Thiết kế những hoạt động học tập giúp học sinh có thể tự thu thập thông tin và
xử lý thông tin để tìm ra kiến thức thông qua hoạt động cá nhân hoặc nhóm.Điều
quan trọng của việc thiết kế này là tính logic của nội dung sao cho nổi bật và
xoáy sâu trọng tâm. Hệ thống câu hỏi có tác động làm kích thích tư duy độc lập
chủ động và tích cực, kích thích lòng ham học hỏi, tạo sự say mê chiếm lĩnh tri
thức,tạo điều kiện cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập một cách tự
giác,chủ động và bộc lộ khả năng tự nhận thức của mình.
b.Vai trò của học sinh:
Học sinh được tham gia vào các hoạt động học tập hướng vào sự tìm kiếm và
phát hiện ra kiến thức. Học sinh được quan sát, phân tích lý luận theo cách suy
nghĩ của mình,hình thành dần năng lực tự học thông qua hoạt động nhóm,giúp
học sinh có tính kiên định,mạnh dạn xử lý tình huống.
- Chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt động của thầy sang thiết kế các hoạt
động của trò.
- Tăng cường tổ chức các công tác độc lập hoặc làm việc theo nhóm nhỏ sao cho
“Học sinh suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, hợp tác với nhau nhiều
hơn, trình bày ý kiến của mình nhiều hơn”.
- Nâng cao chất lượng câu hỏi, giảm số lượng câu hỏi tái hiện kiến thức, tăng tỉ
lệ câu hỏi yêu cầu tư duy, bám theo các hoạt động dự kiến làm cho học sinh tích
cực, độc lập và sáng tạo trong học tập. Chú trọng nhận xét sửa chữa các câu trả
lời của học sinh. Chú ý các câu hỏi phải đ ược lựa chọn phục vụ cho việc đổi
mới phương pháp, chẳng hạn các câu hỏi tạo tình huống có vấn đề, câu hỏi giúp
học sinh phát hiện kiến thức mới, câu hỏi tạo điều kiện cho học sinh giải quyết
vấn đề, câu hỏi giúp học sinh đào sâu suy nghĩ, khai thác kiến thức hoặc vận
dụng kiến thức vào thực tiễn ... Các câu hỏi nên khó một chút so với trình độ
hiện tại của học sinh nhằm kích thích học sinh suy nghĩ tìm tòi.
Liên tục rèn luyện như vậy nhằm đạt tới mục đích là học sinh biết đặt ra
và giải quyết vấn đề liên quan đến những khía cạnh khác nhau của tri thức.Từ đó
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
học sinh có tính tự chủ, tự mình giải quyết và kết thúc vấn đề và hình thành tính
tập thể, biết chọn lọc lấy ý kiến hay của tập thể thành ý kiến riêng của mình.
VI. Kết quả :
Sau thời gian thực hiện kết quả đạt được như sau khi điều tra tổng kết
hoạt động :Ý thức học tập của học sinh đã tăng lên .Các em bước đầu xây dựng
phương pháp học tập bộ môn toán tự tìm tòi kiến thức trong các tài liệu;tự chiếm
lĩnh tri thức và làm bài tập về nhà khá đầy đủ.Đồng thời các em đã có ý thức khi
hoạt động nhóm có sự tham gia khá tích cực giữa các đối tượng học sinh.Mức
độ yêu thích bộ môn tăng lên rỏ rệt
Mức độ
số lượng
Yêu thích
20/75
Vừa
45/75
Không thích
10/75
Tuy nhiên thời gian thực hiện chuyên đề còn ít nên kết quả là một số học
sinh yếu vẫn chưa thực hiện được phương pháp tự học bộ môn toán, số lượng
học sinh không biết tự chiếm lĩnh tri thức,còn thụ động trong học tập và đối phó
với sự kiểm tra của giáo viên vẫn còn cao.
VII.Kiến nghị, đề xuất:
-Nhà trường tổ chức các buổi ngoại khoá về phương pháp học tập trao đổi kinh
nghiệm học tập các bộ môn nhằm giúp học sinh có phương pháp và ý thức học
tập đúng đắn.
-Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt toán học “Đố vui để học” giúp học
sinh hình thành kỉ năng sống và tạo sự hứng thú trong học tập bộ môn.
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010
Sáng kiến kinh nghiệm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, Giáo dục Việt Nam hướng tới tương
lai vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
[2]
Nguyễn Nghĩa Dán, Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh, Tạp chí
“Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1998.
[3]
Phạm Trọng Luận, Về khái niệm “Học sinh là trung tâm”, Tạp chí
“Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1995.
[4]
Sách giáo khoa toán 6.7.Chương trình dạy học INTEL.
[5]
Chuẩn kiến thức kỉ năng.
Đặng Thị Quỳnh Nhi
Năm học 2009-2010