Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Hệ thống tài chính của thái lan (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.75 KB, 23 trang )

Hệ thống tài chính của Thái Lan
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Thái lan hiện nay được đánh giá là một nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở
khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung, trong suốt quá trình phát
triển nền kinh tế Thái Lan không thể tránh khỏi những lúc thất bại, khó khăn.
Tuy nhiên những khó khăn đó đều được Thái Lan vượt qua và coi đó là bài học
kinh nghiệm để phát triển kinh tế.
Vào thập niên 90 của thế kỉ XX một cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ đã đổ
bộ vào nền kinh tế Châu làm chao đảo cả những nước lớn. Và cuộc khủng
hoảng đó bắt nguồn tại Thái Lan. Vào ngày 2-7-1997 khủng hoảng đã chính
thức bùng nổ khi chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht, sau đó cuộc
khủng hoảng đã lan rộng ra một số nước trong khu vực đã làm cho nền kinh tế
khu vực nói chung và đặc biệt là kinh tế Thái Lan nói riêng thụt lùi về tăng
trưởng trong một thời gian khá dài. Cuộc khủng hoảng tài chính –tiền tệ đã làm
cho Thái Lan lâm vào một tình trạng khó khăn kinh tế chưa từng có trong lịch
sử hàng thập kỷ phát triển của mình. Đứng trước những khó khó khăn thách
thức to lớn đó chính phủ Thái Lan đã có những chính sách để vực dậy đất nước
mình sau cuộc khủng hoảng trên tất cả mọi mặt.
Thái Lan luôn được xem là một nơi thu hút các nhà đầu tư, một nơi mà nền
kinh tế có tốc độ phát triển qua từng giai đoạn khá vững chắc và có những
bước tiến mạnh trong tiến trình phát triển để khẳng định mình, để không bị tụt
lại so với nền kinh tế thế giới, cũng như để tránh những sai làm đáng tiếc dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. Và để không một lần nữa lặp
lại lịch sử của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Đông Á 1997 - 1998, Thái
Lan cần phải thận trọng trong những bước đi của mình, hướng đến tương lai
nhưng không thể bỏ qua quá khứ, vì quá khứ là tiền đề của tương lai.
Vì vậy việc nghiên cứu về “hệ thống tài chính của Thái Lan” có thể giúp tất cả
các quốc gia đang trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở Châu Á, mà
đặc biệt trong đó có Việt Nam rút ra được bài học kinh nghiệm, tiếp thu những


cái tốt và tránh những cái sai lầm mà Thái Lan đã mắc phải.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu về hệ thống tài chính của Thái Lan giúp nhận thức đầy đủ và
đánh giá khách quan về tình hình của hệ thống tài chính Thái Lan trước, trong
và sau cuộc khủng khoảng năm 1997 - 1998. Từ đó rút ra được những bài học
kinh nghiệm đắt giá trong quá trình phát triển kinh tế của Thái Lan để áp dụng
vào Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước đặc biệt
là ở giai đoạn hiện nay.
3. Bố cục bài nghiên cứu
Để làm rõ được chủ đề nghiên cứu nhóm, chúng tôi xin được đưa ra 3 phần:
Phần 1: Lý thuyết chung về hệ thống tài chính
Phần 2: Thực trạng về hệ thống tài chính của Thái Lan


Phần 3: Phân tích, đánh giá hệ thống tài chính của Thái Lan và bài học rút ra
cho Việt Nam.
I : LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

1 Khái niệm và thành phần của HTTC:
a) Khái niệm: Hệ thống tài chính (Financial System) là một tổng thể bao gồm các
chủ thể dư thừa và thiếu hụt vốn (người tiết kiệm và nhà đầu tư), tổ chức tài
chính, thị trường tài chính, các tổ chức quản lý giám sát và điều hành hệ thống
tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính theo thời gian.
b) Thành phần HTTC

Người tiết kiệm và người đầu tư
Người tiết kiệm là các chủ thể có nhu cầu về các công cụ tài chính hay là người
cung cấp nguồn vốn dư thừa tạm thời cho thị trường.
Người đầu tư là các chủ thể kinh tế có nhu cầu vốn để thực hiện kế hoạch sản
xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Họ đạt nguồn vốn cần thiết thông qua phát hành các

công cụ tài chính đa dạng.
Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi mua bán các công cụ tài chính, nhờ đó mà vốn được
chuyển giao từ các chủ thể dư thừa vốn đến các chủ thể có nhu cầu về vốn.
Cấu trúc của thị trường tài chính: Thị trường nợ - Thị trường vốn cố phần, Thị
trường tiền tệ - Thị trường vốn, Thị trường sơ cấp – Thị trường thứ cấp.


Các tổ chức tài chính
Các ngân hàng trung gian Các tổ chức tài chính cung cấp các dịch vụ và sản
phẩm tài chính cho khách hàng.

• Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
• Các trung gian đầu tư
• Các tổ chức tài chính khác
Các tổ chức quản lý và giám sát hệ thống tài chính
Mục tiêu hoạt động của hệ thống giám sát tài chính: đảm bảo quyền lợi của
công chúng, duy trì sự ổn định, đảm bảo sự lành mạnh và đảm bảo hiệu quả của hệ
thống tài chính.
Mô hình tổ chức các cơ quan giám sát hệ thống tài chính






Mô hình GS theo đặc điểm thể chế
Mô hình GS theo chức năng
Mô hình GS lưỡng đỉnh
Mô hình GS hợp nhất

2. Phương thức luân chuyển vốn

a) Luân chuyển vốn trực tiếp: vốn được chuyển giao trực tiếp từ người tiết kiệm đến
người đầu tư.
Hình thức chuyển giao vốn này phần lớn thông qua vai trò của người môi giới( hưởng
hoa hồng)

Người tiết kiệm

Vốn

Vốn

Người môi giới
Công cụ tài chính

Người đi vay


b) Luân chuyển vốn gián tiếp: theo phương thưc này vốn được chuyển giao từ
người tiết kiệm điến người đầu tư thông qua vai trò các trung gian tài chính.

Người tiết kiệm

Trung gian tài chính

Người đi vay cưới cùng

Cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy nhận nợ khác,...

CD, sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, hợp đồng
bảo hiểm....

3. Phân loại cấu trúc hệ thống tài chính
- Dựa vào cách thức luân chuyển vốn.
+ Kênh dẫn vốn trực tiếp
+ Kênh dẫn vốn gián tiếp
- Dựa vào tầm quan trọng của kênh dẫn vốn và cấu trúc tài chính quốc gia
+ Hệ thống tài chính dựa vào thị trường
+ Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng


II : THỰC TRẠNG VỀ HTTC THÁI LAN

1. Khái quát hệ thống tài chính của Thái Lan trước cuộc khủng hoảng
Những năm trước năm khủng hoảng kinh tế - tài chính nền kinh tế của Thái Lan
phát triển rất tích cực: GDP tăng cao liên tục, xuất khẩu phát triển, lạm phát thấp,
ngân sách chính phủ luôn dư thừa và cán cân thanh toán có thể kiểm soát được,
đầu tư tăng vọt và tình trạng thất nghiệp hầu như không có.
• Các doanh nghiệp hoạt động ngày càng kém hiệu quả
Tăng trưởng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng với lãi suất tiết
kiệm trong nước cao (bình quân 16,3% năm, trong khi ở Mỹ là 7,6), và tỉ
giá hối đoái gần như cố định đã tạo nên một môi trường kinh doanh rất hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn
và tín dụng thương mại. Một điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn
1991-1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất
nhỏ so với đầu tư tài chính gián tiếp và sử dụng vốn vay ngắn hạn nước
ngoài. Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài
chính và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì
phải trả nợ thường xuyên và bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu

quả, là nếu doanh nghiệp kinh doanh không tốt thì hiệu quả ản xuất kinh
doanh của các công ty sẽ thấp.
Thế nhưng, tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình
quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/năm vào năm 1991 xuống chỉ
còn 1%/năm năm vào 1996 . Trong một nền kinh tế mà lãi xuất cho vay là
16,3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ
ràng là đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”.
Bảng 1: Số liệu nền kinh tế Thái Lan từ năm 1991 - 1998
Năm
Tăng trưởng GDP
(%)
Tỷ giá hối đoái
Lạm phát

1991
7.0

1992
7.1

1993
8.2

1994
8.6

1995
8.7

1996

6.7

1997
-0.4

1998
-8.3

25.2
5.7

25.3
4.1

25.3
4.6

25
5.1

25.1
5.8

25.6
4.8

47.2
5.6

41.3

8.1

Xuất khẩu (tỷ USD)
Nhập khẩu (tỷ USD)
Cán cân thương mại
(tỷ USD)
Cán cân tài khoản
vãng lai (tỷ USD)
Cán cân tài khoản
vốn (tỷ USD)
Đầu tư trực tiếp
thuần (tỷ USD)
Đầu tư tài chính

28.2
-34.2
-5.9

32.1
-36.2
-4.16

36.4
-40.1
-4.3

44.4
-48.2
-3.7


55.4
-63.4
-7.7

54.4
-60.9
-9.5

56.7
-55.1
-1.5

-40.6
12.3

-7.59

-6.3

-6.36

-8.08

-13.5

-14.7

-3.02

14.3


11.7

9.47

10.5

14.1

21.9

10.5

-15.8

-9.5

1.85

1.97

1.57

0.87

1.38

1.40

3.34


-0.08

0.92

5.45

7.48

4.18

5.54

4.36

TB(9196)=5.02
Tổng(9196)=-35.26
Tổng(9196)=-85.29
Tổng(9196)=8.844
Tổng(91-


thuần (tỷ USD)
Đầu tư khác thuần
(tỷ USD)
Nợ nước ngoài (tỷ
USD)
Nợ ngắn hạn (tỷ
USD)
Dự trữ ngoại tệ (tỷ

USD)
Đầu tư cố định tính
bằng % GDP
Nguồn:

9.99

6.58

3.47

35.99

39.61 45.84

8.81

16.6

14.5

23.5

60.99

65.0

49.0

97.0


43.6

45.7

45.6

18.4

21.2

25.4

30.3

37

38.7

23.0

38.0

39.5

39.9

40.1

42.8


39.8

39.1

96)=16.4
Tổng(9196)=60.04

29.5
TB (9196)=40

Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 12 năm 2002 của Thái Lan

• Ngân hàng hoạt động ngày càng kém hiệu quả
Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần buông lỏng vai trò giám sát
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài
chính của Thái Lan đã rất tích cực vay nợ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp
trong nước.
Tổng nợ nước ngoài so với tổng tài sản nước ngoài mà hệ thống ngân hàng có tăng
từ 171% (1991) lên 694% (1996). Đồng thời ROA của hệ thống ngân hàng Thái
Lan chỉ còn 0,99%/năm. Rõ ràng Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng
“phá sản Ngân hàng”.
• Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán
Trong suốt các năm 1991-1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt,
tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD.
Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến
khích do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát trong
nước cao hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so với
đồng USD. Để bù đắp thâm hụt thương mại và để có vốn đầu tư bình quân
40%GDP mỗi năm thì con đường không tránh khỏi là phải vay tiền nước ngoài (từ

các ngân hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các nước...). Vì vậy
nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ
USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm, và bằng 54% GDP. Nợ ngắn hạn
chiếm: 67% tổng nợ nước ngoài (1995), 51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn
hạn năm 1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái
Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Nếu các nhà
đầu tư Thái Lan cũng phải thả nổi đồng nội địa Baht, thì chính họ sẽ bán cổ phiếu,
trái phiếu, đòi nợ ngắn hạn, đổi từ tiền Baht ra USD, làm tăng cầu ngoại tệ đột
ngột. Kết quả là tỉ giá hối đoái sẽ tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả
năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày càng cao. Đến tháng 6/1997 nợ nước ngoài
của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan.
Tóm lại, cuối 1996 đầu 1997, Thái Lan đã tích lũy cả 3 nguy cơ khủng hoảng ở
mức cao.
2. Tình hình Thái Lan khi khủng hoảng xảy ra


Đầu năm đến tháng 3 năm 1997, người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn của
mình ở dạng tiền mặt ra khỏi các ngân hàng và các công ty tài chính, buộc chính
phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoáng ngày 3/3/1997. Chính phủ yêu cầu các
tổ chức tài chính phải tăng cường dự trữ tiền mặt, thông báo 10 công ty tài chính ở
trạng thái không bình thường (Unico housing Co.Ltd; Thai-Fuji; Royal
International; Sri Dhana; Eastern Finance; County….).
Ngày 4 và 5/3/1997 hơn 21,4 tỉ Baht (820tr USD) đã được rút khỏi các ngân hàng
và công ty tài chính. Ngày 9/4/1997, tỉ giá hối đoái tăng lên mức 26,08baht/USD
và cho đến ngày 25/6/1997, tổng số công ty tài chính bị đóng cửa là 58/91 cty
(64%) trên toàn quốc. Để giữ tỉ giá hối đoái, chính phủ phải bán ngoại tệ làm dự
trữ ngoại tệ giảm mạnh từ 38,78 tỉ USD vào tháng 6/1996 xuống còn 37.7 tỉ USD
vào tháng 12/1996 và còn 31.4 tỉ USD vào 30/6/1997. Nếu mức độ giảm sút dự trữ
quốc gia của quý 2 năm 1997 kéo dài thêm khoảng 2-3 quý nữa thì lúc đó dự trữ
ngoại tệ quốc gia chỉ còn khoảng 10 tỉ USD , bằng 1/3 mức dự trữ ngoại tệ năm

1996 , và chính phủ sẽ buộc phải thả nổi tỉ giá hối đoái vì hoàn toàn không còn khả
năng bán ngoại tệ để duy trì tỉ giá hối đoái. Có lẽ thấy trước nguy cơ này, ngày
2/7/1997 chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht, kết quả là tỉ giá tăng từ
25 Baht/USD (vào tháng 6/1997) lên 53Baht/USD (tháng 1/1998) nghĩa là tăng
112% trong 6 tháng.
Như vậy, cuộc khủng hoảng ở Thái Lan bùng nổ do hoạt động trước hết của vòng
xoáy khủng hoảng số 3 (Sơ đồ 1) khi người dân và nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các
ngân hàng, làm phá sản hàng loạt ngân hàng
và lũy
cácnguy
côngcơtykhủng
tài chính,
Tích
hoảngkế đó là tác
động của vòng xoáy khủng hoảng số 2 và số 1 (sơ đồ 1), khi họ đổi đồng Baht lấy
ngoại tệ USD, làm tỷ giá hối đoái tăng vọt. Chỉ trong năm 1997, hơn 22 tỷ USD
cho vay ngắn hạn đã được thu hồi và
rút ra
khỏikinh
Tháidoanh
Lan.kém
Sự hiệu
phá quả,
sản của
cáclợi nhuận 1%/nă
Doanh
nghiệp
tỷ suất
ngân hàng, các công ty tài chính và sự tăng vọt của tỷ giá hối đoái sẽ làm cho các
doanh nghiệp vốn đã kém hiệu quả bị thua lỗ, phá sản (Sơ đồ 1). Trong năm tháng

đầu năm 1998, gần 4000 doanh nghiệp ở Thái Lan bị phá sản, tạo nền vòng xoáy
khủng hoảng số 4 (Sơ đồ 1). Ngân
Lúc này
sựcông
phátysản
doanh
nghiệp,
tuylợitác
hàng,
tài của
chínhcác
kém
hiệu quả,
tỷ suất
nhuận 0,99%/năm
động chậm hơn, song sẽ thúc đẩy quá trình phá sản của các ngân hàng, công ty tài
chính. Trong tổng số 108 ngân hàng, công ty tài chính của Thái Lan, từ tháng
4/1997 đến tháng 3/1998, 64 Ngân hàng, công ty tài chính có vấn đề (chiếm 59%),
trong đóTỷ56giángân
hànggần
bị như
đìnhcốchỉ
hoạt
động,
4 bị quốc
hữubath
hóabị hoặc
hối đoái
định
(25,34

bath/USD)
Đồng
lên giáChính
25%, phủ
thâm hụt tài khoản
giám sát và 4 bị bán cho các Công ty nước ngoài.

Nội tệ mất giá nhan
Ngườ

Nguy cơ Quốc gia mất khả năng thanh toán 1996: Nợ nước ngoài ngắn hạn: 45,7 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ: 38,7 USD, thâm

1

T

Các nhà đầu tư nước n


Hậu quả trực tiếp của khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái Lan là:
- Các ngân hàng, công ty tại chính, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, kinh tế quốc
gia suy thoái. Tăng trưởng kinh tế từ 6,7% năm 1996 giảm còn -0,4% năm 1997,
-8,3% năm 1998 và 1% năm 1999.
- Gần 2 triệu người lao động mất việc làm, mất thu nhập.
- Các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin, rút vốn ra khỏi đất nước, làm xấu đi môi
trường đầu tư. Năm 1995, 1996, mỗi năm có khoảng 20 tỷ USD vốn được rót vào
Thái Lan nhưng năm 1997, 15,8 tỷ USD được rýt ra khỏi quốc gia, năm 1998,
thêm 9,5 tỷ USD vốn chạy ra nước ngoài.
Trong tiến trình khủng hoảng, sau khi thả nổi đồng Baht, tỷ giá hối đoái đã không
ngừng tăng lên, từ tháng 7/1997 tới tháng 1/1998 đã đạt mức 53 baht/USD, bằng

212% mức tháng 6/1997. Chỉ lúc này, 1/1998, khi chính phủ cam kết chính thức sẽ
trả tất cả các khoản nợ của ngân hàng thương mại, kể cả nước ngoài, thì tỷ giá hối
đoái mới giảm.
3. Tình hình hoạt động của hệ thống tài chính Thái Lan sau cuộc khủng hoảng
đến hiện nay
3.1 Năm 2013
Trong năm 2013, hệ thống tài chính của Thái Lan đã phát triển và mở rộng nhanh
chóng để đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế và hỗ trợ sự phát triển của đất
nước. Trong đó, hệ thống tài chính Thái Lan đã trở thành kết nối chặt chẽ hơn với các
hệ thống tài chính quốc tế thông qua việc mở rộng thương mại quốc tế và đầu tư, đổi
mới tài chính và tiến bộ trong công nghệ và truyền thông. Do đó, hệ thống tài chính
nhạy cảm hơn với các yếu tố trong nước và sự biến động trong hệ thống kinh tế và tài
chính toàn cầu.
Cơ cấu hệ thống tài chính Thái Lan: các tổ chức tài chính, thị trường tài chính và hệ
thống thanh toán.
3.1.1 Các tổ chức tài chính


Bảng 2: Số lượng và kích thước tài sản của các tổ chức tài chính Quý 3 năm 2013
Các tổ chức tài chính

Số lượng

Ngân hàng Thái Lan
Các công ty lưu ký
Ngân hàng thương mại
Các tổ chức tài chính chuyên ngành
Hợp tác xã tiết kiệm và tổ chức tín dụng
Quỹ thị trường tiền tệ
Tổ chức tài chính mà không được nhận

tiền gửi
Quỹ tương hỗ
Công ty bảo hiểm
Quỹ phát triển tổ chức tài chính
Thẻ tín dụng và công ty cho vay cá nhân
Công ty nắm giữ
Quỹ Provident
Quỹ hưu trí
Công ty chứng khoán
Công ty cho thuê tài chính
Hợp tác xã nông nghiệp
Tiệm cầm đồ
(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)

1
1936
30
6
1860
40
8206

% tổng tài sản của các tổ
chức tài chính
15
57
39,3
12
4,7
0,9

28

1239
67
1
39
912
427
1
46
935
3983
556

7,1
5,8
3,2
3,2
2,5
1,8
1,6
0,7
0,5
0,4
0,2

Tính đến tháng 9 năm 2013, tổng tài sản của các tổ chức tài chính lên tới 4090 tỷ baht,
57% trong số đó đã được nắm giữ bởi công ty lưu ký, trong khi các tập đoàn phi lưu
ký và BOT chỉ chiếm 28% và 15%. Xét về quy mô tài sản, các công ty lưu ký nổi bật
hơn so với các tập đoàn phi lưu ký.

Các công ty lưu ký quan trọng nhất là ngân hàng thương mại và SFIs vì với mạng lưới
chi nhánh rộng cho phép nó phục vụ các doanh nghiệp và người tiêu dùng rộng rãi
hơn các loại khác của các tổ chức tài chính. Vào cuối năm 2013, các ngân hàng
thương mại và SFIs cùng nhau sở hữu khoảng 8.200 chi nhánh và 55.400 máy ATM
trên toàn quốc.
Ngân hàng thương mại
Sự ổn định tổng thể của các ngân hàng thương mại được duy trì tốt. Khả năng kiếm
lời vẫn tiếp tục tạo cho ngân hàng nguồn vốn và các khoản trích lập dự phòng lớn,
giúp tăng cường khả năng cho ngân hàng thương mại để đối phó với những rủi ro
trong tương lai, đặc biệt là rủi ro tín dụng, đó là nguy cơ chính của hệ thống ngân
hàng Thái, các khoản vay chiếm 70% trong tổng tài sản của các ngân hàng.
Trong năm 2013, sự biến động của thị trường tài chính như thị trường vốn và thị
trường ngoại hối đã ảnh hưởng đến các ngân hàng thương mại.


Danh mục đầu tư của ngân hàng thương mại: chứng khoán giao dịch và sẵn sàng bán
chiếm 13% trong đó cổ phiếu chiếm 0,8% và trái phiếu chiếm 12,2%; trái phiếu đến
ngày đáo hạn chiếm 2%; các khoản cho vay chiếm 66,6%; các khoản đầu tư khác
chiếm 1,1% và các tài sản khác chiếm 17,2%.
Từ số liệu trên ta có thấy xu hướng sử dụng nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng
thương mại Thái Lan năm 2013 chủ yếu là cho vay.
Biểu đồ 1: Danh mục đầu tư của NHTM

(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Ngân hàng thương mại cũng đã quan tâm nhiều hơn trong việc hỗ trợ đầu tư ra nước
ngoài của khu vực tư nhân cho việc mở rộng thương mại quốc tế và đầu tư, và tự do
hóa đầu tư ra nước ngoài. Trong quý 3 năm 2013, cho vay ngân hàng thương mại cho
mục đích thương mại và đầu tư quốc tế đạt 913.000.000 baht 7, tăng hơn gấp đôi so
với năm 2008, mặc dù cho vay như vậy vẫn chỉ chiếm 8,8 % của tổng số tiền vay.
Tăng trưởng trong cho vay tiêu dùng vẫn tiếp tục ở mức cao, mặc dù nó đã giảm tốc

đáng kể đến 15,7 % trong tất cả các loại cho vay. Tăng trưởng giảm tốc này là song
song với một sự suy giảm trong tiêu dùng cá nhân và tiêu chuẩn bảo lãnh nghiêm ngặt
hơn các ngân hàng thương mại, sau khi nợ hộ gia đình đã tăng lên rõ rệt như một kết
quả của các biện pháp kích thích kinh tế của chính phủ trong giai đoạn trước đây.
Biểu đồ 2: Danh mục và sự tăng trưởng của các khoản vay trong quý 3 năm 2013


(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Chất lượng cho vay chung vẫn mạnh, có dấu hiệu giảm nhẹ trong cho vay tiêu dùng.
Chất lượng cho vay chung vẫn mạnh nhờ vào những nỗ lực liên tục của các ngân hàng
trong quản lý rủi ro, theo phản ánh của các tỷ lệ nợ xấu đó giảm xuống còn 2,2 % và
tỷ lệ SM mà ổn định ở mức 2,2 % trong quý 3 năm 2013. Chất lượng của các khoản
vay DN tiếp tục cải thiện, trong đó cả tỷ lệ nợ xấu và SM giảm liên tục đạt 2.2 và 1.9
%, tương ứng. Chất lượng tín dụng của các công ty lớn là tốt hơn so với các DN vừa
và nhỏ (với tỷ lệ nợ xấu là 1,2 so với 3,4 %). Hơn nữa, tỷ lệ nợ xấu của SMEs đã có
xu hướng tăng lên, đặc biệt là trong sản xuất và thương mại do chi phí lao động cao
hơn và sự chững lại của nền kinh tế. Chất lượng cho vay tiêu dùng bắt đầu xấu đi, với
sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu và SM cho vay tự động, cho vay thẻ tín dụng và vay cá nhân.
Tiền gửi tiếp tục là nguồn chính của quỹ, mặc dù một số thay đổi trong cơ cấu
nguồn vốn gần đó (chiếm 68,4 % tổng số quỹ). Tuy nhiên, trong năm qua, cơ cấu

tiền gửi có sự thay đổi do tỉ lệ tiền gửi bán lẻ, tiền gửi không kì hạn, tiền gửi
tiết kiệm giảm.
Biểu đồ 3: Khoản cho vay, tiền gửi và khoản vay


(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
3.1.2 Thị trường tài chính
Thị trường tài chính bao gồm (1) thị trường tiền tệ trong đó cung cấp thanh khoản
ngắn hạn cho các tổ chức tài chính thông qua cho vay liên ngân hàng và mua lại thị

trường; (2) thị trường vốn trong đó cung cấp trung hạn và huy động vốn dài hạn thông
qua trái phiếu và thị trường chứng khoán.
Thị trường tiền tệ
Chính sách lãi suất trong năm 2013 đã có những điều chỉnh phù hợp và hỗ trợ cho
tăng trưởng nền kinh tế Thái Lan trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi chậm chạp và
tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Lạm phát trong năm 2013 của Thái Lan trong 9 tháng đầu năm giảm liên tiếp từ
3,39% (tháng 1) xuống còn 1,42% (tháng 9) cũng là mức thấp nhất trong năm. Việc
giảm tỷ lệ lạm phát phản ánh nỗ lực của chính phủ Thái Lan trong việc kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên những tháng cuối năm lạm phát tăng trở lại.Trong suốt quý đầu tiên
của năm 2013, NHTW Thái Lan (BOT) và Ủy ban chính sách tiền tệ (MPC) đã giữ
vững lãi suất cơ bản ở mức 2,75%/năm. BOT đã tiếp tục một chính sách tiền tệ một
cách thận trọng về rủi ro đối với biến động tỷ giá, dòng vốn và sự ổn định tài chính,
đặc biệt là khả năng về một bong bóng trong ngành bất động sản năng động. Ngày
29/5/2013, ngân hàng Thái Lan và Ủy ban chính sách tiền tệ Thái Lan đã bỏ phiếu
quyết định giảm lãi suất xuống còn 2,5%/năm đã làm cho lãi suất liên ngân hàng giảm
dần đều đến tháng 8 xuống còn 2,45%/năm và có xu thế ổn định ở các tháng tiếp theo
với mức lãi suất 2,46%/năm. Do tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Thái lan trong quý 1
thấp hơn so với dự kiến, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 5,3% so với cùng kì năm ngoái.
Đến ngày 27/11/2013, ngân hàng Thái Lan mới tiếp tục có sự điều chỉnh lãi suất lần
thứ 2 trong năm với việc cắt giảm lãi suất 0,25% xuống còn 2,5%/năm. Do sự tăng
trưởng của kinh tế Thái Lan trong quý 3 là yếu hơn so với dự kiến. GDP thực tế chỉ
tăng 2,7% so với cùng kì năm ngoái. Quý 4/2013 kinh tế Thái Lan chỉ tăng 0,6% so
với quý trước, thấp hơn nhiều so với con số 2,7% của quý 3/2013.
Thị trường vốn :


Vào cuối quý 3 năm 2013, thị trường vốn là nguồn tài chính quan trọng cho cả hai
chính phủ và khu vực tư nhân. Thị trường trái phiếu có 9100 tỷ baht tổng dư nợ trái
phiếu, bao gồm cả ngắn hạn và dài hạn trái phiếu (Bảng 3). Đồng thời, mức vốn hóa

thị trường cổ phiếu đạt 11.9 nghìn tỷ baht, với công ty là người chơi chính. Đối với thị
trường ngoại hối, giá trị hàng tháng các giao dịch của các tổ chức có thẩm quyền trung
bình là 5.5 tỷ baht. Quy mô thị trường đạt 2,0 nghìn tỷ tiền Baht với phần lớn các giao
dịch được thực hiện bởi các tổ chức tài chính; trong khi thị trường phái sinh là chưa
được sử dụng rộng rãi, nơi hầu hết các giao dịch đều được bảo hiểm rủi ro bởi các đối
tác trên thị trường OTC
Bảng 3: Vốn hóa thị trường của trái phiếu và chứng khoán quý 3 năm 2013 (đơn vị: tỷ
THB)
Trái phiếu
Cổ phiếu
Các tổ chức tài chính
3,903.0
2,340.1
Các tổ chức phi tài chính
1,577.5
9,607.0
Chính phủ
3,455.3
Người không cư trú
124.2
Tổng
9,060.0
11,947.1
(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Thị trường tài chính Thái Lan đã biến động do sự thay đổi đột ngột theo hướng
dòng vốn bắt nguồn từ những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu và rủi ro từ
Thái Lan và các khu vực triển vọng khác. Trong năm 2013, thị trường tài chính Thái
Lan bị ảnh hưởng bởi biến động tài chính toàn cầu theo cách thức giống như các thị
trường khác trong khu vực. Hơn nữa, sự suy thoái của nền kinh tế trong nửa cuối năm
do suy giảm xuất khẩu, nhu cầu trong nước chậm chạp, và không chắc chắn về chính

trị, niềm tin của nhà đầu tư bị ảnh hưởng cộng thêm sự biến động về dòng vốn.
Trong bốn tháng đầu năm 2013, đã có luồng vốn phù hợp dịch chuyển vào các thị
trường tài chính Thái. Thị trường trái phiếu nhận lãi suất tương đối cao từ các nhà đầu
tư nước ngoài so với các thị trường chứng khoán, nơi chốt lời bán tháo đã được nhìn
thấy trong một số giai đoạn (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 4: Dòng vốn chảy vào thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu


Tuy nhiên, từ cuối tháng tư trở đi, dòng vốn bắt đầu chậm lại và thị trường tài
chính trở nên bất ổn hơn sau mối quan tâm của nhà đầu tư Thái Lan sẽ áp đặt các biện
pháp kiểm soát vốn để ngăn chặn sự tăng giá của đồng baht. Hơn nữa, nước Mỹ thực
thi chính sách nới lỏng tiền tệ, vấn đề thâm hụt tài khoản vãng lai ở một số nước trong
khu vực, và làm suy yếu triển vọng kinh tế của khu vực như Thái Lan, khiến nhà đầu
tư nước ngoài giảm trọng lượng của tài sản tài chính khu vực trong danh mục đầu tư
của họ. Đối với Thái Lan, điều này đã dẫn đến một lượng vốn từ hai thị trường chứng
khoán và trái phiếu là 8,6 tỷ đô la Mỹ chảy ra ngoài giữa tháng năm và tháng tám.
Trong tháng chín, sau khi Mỹ không thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ như dự
kiến trước đó, các nhà đầu tư nước ngoài quay trở lại thị trường tài chính khu vực như
Thái Lan. Tuy nhiên, có một bán tháo trong quý cuối cùng cho nên các nhà đầu tư trở
nên không chắc chắn về tình hình tài chính của Mỹ, không khí chính trị Thái và triển
vọng kinh tế, cũng như các thông báo của Fed vào giữa tháng mười hai dẫn đến việc
giảm mua tài sản vào tháng Giêng năm 2014.
Thị trường chứng khoán
Trong suốt năm 2013, các giao dịch chứng khoán Thái Lan (SET) Index biến động
mạnh, phù hợp với hướng của dòng vốn nước ngoài, mặc dù các nhà đầu tư trong
nước đã đóng một vai trò rất quan trọng trong nửa đầu năm nay.
Trong năm tháng đầu năm, SET Index tiếp tục xu hướng tăng để đạt mức cao nhất
tại lúc đóng cửa là 1,643.43 điểm vào ngày 21 tháng năm 2013, hay tăng 18.1% từ
1,391.93 điểm vào cuối năm 2012 (Biểu đồ 5). Tỷ lệ PE trong năm tháng đầu tiên
trung bình đạt 17,7, cao hơn 15,0 ghi nhận so với cùng kỳ năm trước.

Biểu đồ 5: Thương mại ròng bởi giao dịch của người không cư trú và chỉ số SET


(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Hoạt động mạnh trên thị trường chứng khoán trong nửa đầu năm nay xuất phát chủ
yếu từ các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là các nhà đầu tư bán lẻ có quan tâm trong
đầu tư thị trường chứng khoán đã tăng trưởng liên tục. Theo đó, các nhà chức trách cụ
thể là sở giao dịch chứng khoán của Thái Lan và Ủy ban Chứng khoán thực hiện các
biện pháp để kiềm chế hoạt động đầu cơ ở nhiều cổ phiếu nhỏ dẫn đến sự tích tụ bong
bóng thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, từ tháng năm trở đi, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu giảm việc nắm
giữ đầu tư trong khu vực cũng như cổ phiếu của Thái Lan, kết quả là giảm mạnh trong
SET Index 17,0 % đến 1,364.1 điểm trong tháng sáu và đạt điểm thấp nhất năm 2013
vào tháng tám tại 1,275.8 trước một sự điều chỉnh diễn ra. Trong quý cuối cùng, thị
trường tiếp tục chịu áp lực bởi những rủi ro từ cả bên ngoài và nội bộ, đặc biệt là tình
hình chính trị trong nước. Kết quả là, thị trường đóng cửa ở mức 1,298.71 điểm vào
cuối năm 2013, giảm 6,7 % từ năm 2012, với tỷ lệ PE 14.5.
Trái phiếu
Sự thay đổi của môi trường lợi suất trái phiếu chính phủ dài hạn phủ trở nên dễ bay
hơi từ tháng tư trở đi trong khi đó lợi suất trái phiếu chính phủ ngắn hạn lại phù hợp
với xu hướng trong chính sách lãi suất.
Trong quý đầu tiên, lợi suất trái phiếu chính phủ là khá ổn định nhưng sang quý
hai, quý ba lợi suất trái phiếu chính phủ ngắn hạn giảm. Sự suy giảm của lợi suất trái
phiếu chính phủ ngắn hạn là phù hợp với mong đợi của việc cắt giảm lãi suất chính
sách. Có nghĩa là trong khi, giảm khu vực phân bổ tài sản đầu tư nước ngoài vào
khoảng giữa năm đã dẫn đến sự gia tăng trong môi trường lợi suất trái phiếu chính
phủ dài hạn, từ 3,5% trong tháng 5 lên 4,4% trong tháng 9.
Tuy nhiên, vào cuối tháng 9, sự quay trở lại của dòng vốn nước ngoài vào thị
trường trái phiếu cùng với việc Bộ tài chính bán đấu giá trái phiếu nhỏ hơn so với dự



kiến trong quý cuối cùng và không đấu giá vào tháng 10 đã dẫn đến một sự suy giảm
của 9-46 điểm cơ bản trong lợi suất trái phiếu chính phủ dài hạn. Mặc dù có một số
điều chỉnh tăng sau đó do dự đoán các nhà đầu tư nới lỏng tiền tệ sớm hơn dự kiến và
quan ngại về tình hình chính trị trong nước, quyết định của Ủy ban chính sách tiền tệ
vào ngày 27 tháng 11 năm 2013 để giảm lãi suất chính sách, tăng căng thẳng chính trị,
cũng như suy thoái kinh tế sâu hơn so với dự kiến vào cuối năm khiến nhà đầu tư dự
đoán cắt giảm lãi suất hơn nữa, do đó gây ra việc lợi suất trái phiếu chính phủ có xu
hướng giảm xuống tiếp.
3.2 Năm 2014

Ngành tài chính Thái phải đối mặt với những thách thức từ nhiều hướng khác nhau
trong suốt năm 2014, dao động từ sự suy giảm của nền kinh tế trong nước và tình hình
chính trị trong nửa đầu năm nay, trước những tác động của bất ổn bên ngoài xung
quanh việc thu hồi liên tục của nền kinh tế lớn. Tuy nhiên, Thái Lan đã thực hiện một
tiến bộ vững chắc trong việc tăng cường các nguyên tắc cơ bản của ngành tài chính
trong hơn một thập kỷ kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Với việc quản
lý rủi ro tốt hơn và quản trị trong các tổ chức tài chính, phát triển lớn trong số tiền và
thị trường vốn, thực hành giám sát phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, và việc thành
lập cơ sở hạ tầng quan trọng như Cục tín dụng quốc gia, khu vực tài chính Thái Lan
đã trở nên tốt hơn, miễn dịch với những thách thức này.
3.2.1 Các tổ chức tài chính
Ngân hàng thương mại
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại đã có thể mở rộng tín dụng để hỗ trợ khu
vực tư nhân mặc dù ở một tốc độ chậm hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế. Hệ thống
ngân hàng vẫn kiên cường, với khả năng sinh lời và mức độ cao của quỹ đầu tư và dự
phòng rủi ro, phản ánh khả năng hấp thụ rủi ro từ các lỗ hổng trong tương lai và hỗ trợ
mở rộng tín dụng hơn nữa để tạo điều kiện phục hồi kinh tế trong giai đoạn tiếp theo.
Các khoản vay ngân hàng thương mại vẫn là một nguồn tài chính chủ yếu cho khu
vực tư nhân. Tín dụng tiếp tục mở rộng nhưng bị chậm lại so với cùng kỳ năm ngoái,

cả doanh nghiệp và người tiêu dùng vay. Vào cuối năm quý 3 năm 2014, tăng trưởng
tín dụng ghi nhận là 5,6% (biểu đồ 6), giảm tốc song song với sự suy giảm kinh tế và
nợ hộ gia đình cao.
Biểu đồ 6: Sự tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại


(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Hơn nữa, trong 9 tháng đầu năm 2014, các doanh nghiệp lớn tăng lên gây quỹ
thông qua trái phiếu và cổ phiếu phát hành (bảng 4) một phần là để quản lý chi phí của
quỹ trong môi trường lãi suất thấp và để trả nợ ngân hàng. (Trong 12 tháng tới năm
2014, sự hoàn trả các khoản nợ của các doanh nghiệp lớn vượt quá 5 triệu baht lên tới
220 tỷ baht)
Bảng 4: Nguồn vay của khu vực tư nhân (đơn vị: tỷ baht)

Dư nợ cho
vay
Dư nợ cho
vay tăng
Trái phiếu
nợ tăng
Cổ phiếu
mới phát
hành

2011

2012

2013
10,701


9 tháng đầu
năm 2013
10,350

9 tháng đầu
năm 2014
10,925

8,476

9,637

1,109.5

1,161.5

1,1063.2

712.9

224.3

77.5

214.3

180.4

134.8


245.9

89.5

193.4

145.5

117.9

128.7

(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Cho vay doanh nghiệp (69% của tổng số vốn vay) tăng 4,5%, làm chậm lại ở hầu hết
các ngành, đặc biệt là thương mại, sản xuất và dịch vụ. Phát triển trong phần này phản
ánh sự suy giảm nhu cầu trong và ngoài nước, phục hồi chậm chạp trong ngành du
lịch và tăng huy động vốn dài hạn của các tập đoàn lớn thông qua trái phiếu và cổ
phiếu.


Các ngân hàng thương mại tiếp tục ghi nhận lợi nhuận mặc dù chậm hơn nhờ việc
quản lý tốt chi phí lãi suất. Ngân hàng thương mại giữ lại đạt yêu cầu khả năng tạo thu
nhập và có thể điều chỉnh sự suy thoái kinh tế. Trong quý 2 và 3 năm 2014, ngân hàng
thương mại quản lý chi phí lãi suất bằng cách giảm sản phẩm tiền gửi dài hạn với lãi
suất cao và tập trung thay vì vào tài khoản hiện tại và tài khoản tiết kiệm trong đó có
chi phí vốn thấp hơn. Trong 9 tháng đầu năm 2014, các ngân hàng thương mại được
ghi lại tổng lợi nhuận ròng là 165.500.000 baht, tăng 10,5 tỷ baht (6,8 % so với cùng
kỳ năm ngoái). Lợi nhuận lãi biên ròng và lợi nhuận trên tài sản tăng từ 2,53% và
1,35% trong 9 tháng đầu năm ngoái lên 2,60 và 1,37 % trong cùng kỳ năm nay. Khả

năng tạo thu nhập liên tục mạnh mẽ kết hợp với chính sách của Ngân hàng Thái Lan
trong 3 năm qua để khuyến khích các ngân hàng thương mại để tăng dự phòng rủi ro
như một bộ đệm chống lại bất ổn kinh tế, dẫn đến mức độ cao của khoản vay dự
phòng giảm giá, với tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay thực tế để dự phòng rủi ro pháp lý
đạt 166,9 phần trăm vào cuối quý 3 năm 2014.
3.2.2 Thị trường tài chính
Trong năm 2014, thị trường tài chính Thái gặp phải những thời kỳ biến động của
các yếu tố khác nhau mặc dù biến động tổng thể giảm từ năm ngoái. Tình hình chính
trị trong nước và triển vọng kinh tế là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thị trường tài
chính Thái Lan trong nửa đầu năm nay.
Thị trường tiền tệ :
Lãi suất của NHTW Thái Lan (BOT) năm 2014 có sự biến động đáng kể ở mốc
tháng 3 năm 2014, khi BOT giảm lãi suất cho vay từ 2,25% xuống còn 2% và giữ
nguyên mức lãi suất này cho đến nay.
Quý 1: Tăng trưởng kinh tế hàng năm của Thái Lan trong quý 1/2013 chỉ đạt 0,6%,
giảm mạnh so với mức tăng trưởng 2,7% trong quý trước. Vậy nên, ngày 12/3/2014
NHTW Thái Lan (BOT) đã cắt giảm lãi suất thêm 0,25% (trước đó là 2,25%) xuống
còn 2%/năm – mức lãi suất thấp nhất từ trước tới nay.
Quý 2: Ngày 7/8/2014, BOT vừa quyết định giữ nguyên tỷ lệ lãi suất ở mức 2%/năm.
Nền kinh tế Thái Lan bắt đầu đã có dấu hiệu phục hồi: quý 2/2014, TTKT của Thái
Lan là 0,9% có chuyển biến tích cực so với quý 1/2014 (-1,9%). (số liệu của Ủy ban
Phát triển kinh tế và xã hội quốc gia Thái Lan).
Quý 3: Vẫn giữ nguyên lãi suất ở mốc 2%/năm, ngày 4/10/2014 NHTW Thái Lan đã
đưa ra gói kích thích kinh tế trị giá 324,5 tỷ Baht (khoảng 9,8 tỷ USD) để kích thích
tăng trưởng kinh tế.
Thị trường vốn :
Vào đầu năm nay, thị trường tài chính Thái trải qua việc dòng vốn bị chảy ra ngoài
nước này do sự căng thẳng chính trị vẫn kiên trì kể từ cuối năm ngoái, mối lo ngại về
suy thoái kinh tế của Trung Quốc và sự mất cân bằng kinh tế ở một số nền kinh tế thị
trường mới nổi. Ngoài ra, các Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC) dẫn đầu thị



trường tin rằng Hoa Kỳ sẽ tăng tỷ lệ vốn sớm hơn dự kiến trước đó.Mặc dù suy thoái
tiếp theo trong luồng vốn, tình hình chính trị leo thang và dẫn đến sự thay đổi trong
tháng 5, gây ra các thị trường tài chính để tổng số cao như 91.100.000 baht trong
tháng đó, gây áp lực giảm giá tài sản tài chính của Thái Lan.(biểu đồ 8)
Biểu đồ 8: Dòng vốn và tỉ giá hối đoái
e

(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Tuy nhiên, vẫn còn có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến điều kiện thị trường.
Như những căng thẳng chính trị giữa Nga và Ukraine và các biện pháp trả đũa việc
các lệnh trừng phạt của Mỹ và EU và kết quả là các nhà đầu tư chuyển vốn vào tài sản
trú ẩn an toàn như Mỹ và trái phiếu chính phủ Nhật Bản trong một số giai đoạn. Hơn
nữa, vào cuối năm nay, môi trường đầu tư toàn cầu đã bị áp lực bởi sự sụt giảm trong
giá cả hàng hóa, đặc biệt là giá dầu, cùng với mối quan tâm ổn định tài chính trên
cuộc khủng hoảng tài chính Nga. Những yếu tố dẫn đến sự biến động cao hơn trong
các thị trường tài chính toàn cầu và Thái, mà khi kết hợp với phục hồi chậm hơn dự
kiến- trong nền kinh tế trong nước, dẫn đến việc nối lại các luồng vốn, đặc biệt là từ
các thị trường trái phiếu Thái, vào tháng 8 trở đi. Trong năm 2014, lưu chuyển tiền tệ
ròng từ các thị trường trái phiếu và vốn chủ sở hữu đạt khoảng 61 tỷ baht.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Thái Lan (SET) đã được thúc đẩy chủ yếu bởi sự mua của
các nhà đầu tư tổ chức trong nước, khiến chỉ số SET leo lên liên tục bất chấp những
tác động của bất ổn chính trị và kinh tế trong nửa đầu năm cùng với các nhà đầu tư
nước ngoài định kỳ bán tháo. Chỉ số SET đạt đỉnh hàng năm 1,600.16 điểm vào ngày
26 tháng 9, tăng 23,2 % so với cuối năm 2013.(biểu đồ 9)


Biểu đồ 9: Dòng vốn chủ sở hữu tích lũy và chỉ số SET


(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
Tuy nhiên, các biện pháp được thực hiện bởi các cơ quan có liên quan và phục hồi
chậm hơn dự kiến của nền kinh tế Thái Lan đã khiến chỉ số SET giảm dần trước khi
giảm mạnh trong tháng 12, được thúc đẩy bởi sự suy giảm đáng kể trong giá dầu toàn
cầu, mối quan tâm cao về viễn cảnh kinh tế gây áp lực toàn cầu môi trường đầu tư, và
các xu hướng giảm trong đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Những yếu tố này, cùng
với các hoạt động cốt lãi bán tháo trong SET, vốn đã tăng hơn 20 % so với năm nay,
và tỷ lệ cổ phiếu năng lượng cao trên thị trường, sự sụt giảm của SET đến 1,478.49
điểm vào ngày 15. SET tỷ lệ P/E cũng giảm xuống còn 17,55 trong khi tỷ lệ P/E duy
trì ở mức cao 67,51.
Trái phiếu
Trên thị trường trái phiếu Thái, lợi suất trái phiếu chính phủ giảm 27-120 bps từ
cuối năm ngoái, một phần là do quyết định giảm lãi suất chính sách bằng 0,25 % trong
tháng 3, giảm nguồn cung trái phiếu chính phủ, và lo ngại về các nền kinh tế toàn cầu
và trong nước vẫn còn trưng bày những dấu hiệu của sự suy giảm tiềm năng. Nhà đầu
tư nước ngoài giảm nắm giữ trái phiếu Thái, đặc biệt là trái phiếu ngắn hạn. Ngày 18
tháng 12, tỷ lệ nắm giữ trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài Thái Lan lên tới khoảng
10 %, giảm từ 10.34 % vào cuối năm ngoái.
Biểu đồ 10: Lợi suất trái phiếu Chính phủ


(Nguồn: Ngân hàng Thái Lan)
III : PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA THÁI LAN VÀ
BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM.

1. Ưu - nhược điểm của hệ thống tài chính Thái Lan
Ưu điểm
Cơ quan giám sát các tổ chức tài chính quản lý rủi ro chặt chẽ. Quản lý
rủi ro đã được tăng cường bằng cách yêu cầu các ngân hàng thương mại duy

trì nguồn vốn bổ sung cho vay, đầu tư, nghĩa vụ hoặc giao dịch mà có thể được
giải thích như là khoản vay cho các nhóm doanh nghiệp lớn mà vượt quá giới
hạn pháp lý của 25 % của tổng số vốn. Ngân hàng thương mại cũng đã được
yêu cầu để thực hiện các bài kiểm tra căng thẳng và công bố thông tin về bổ
sung vốn cho công chúng vào năm 2015. Những yêu cầu mới là nhằm tạo điều
kiện cho các ngân hàng thương mại tránh rủi ro liên quan đến các khoản vay
như vậy, giảm thiểu rủi ro tập trung, ảnh hưởng đến tính hợp lý và ổn định của
tổng thể các tổ chức tài chính hệ thống, cũng như khuyến khích các ngân hàng
thương mại để có thận trọng hơn trong việc kinh doanh. Đồng thời, để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế và phát triển khả năng của công ty Thái để cạnh tranh và
tận dụng lợi thế của tự do hóa tới trong chương trình hội nhập kinh tế ASEAN,
các BOT có thể xem xét cấp giấy khước từ những quy định khi cần thiết.
Chính sách tiền tệ của BOT đảm bảo cho nền kinh tế ổn định có nghĩa là
lạm phát thấp: duy trì sức mua của của người tiêu dùng và tiết kiệm, duy trì khả
năng cạnh tranh về giá của cả hai khu vực trong nước và quốc tế, giảm sự biến
động của lãi suất thực (lãi suất thực), tạo một bầu không khí tốt cho nền kinh tế
nói chung. Bởi vì lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến việc lập kế hoạch và quyết
định tiêu dùng và đầu tư của khu vực tư nhân.
Nhược điểm:


Sự tăng trưởng rất cao và liên tục của Thái Lan, kết hợp với nguồn cung
tín dụng mở rộng của các định chế tài chính đã tạo ra một tình huống “dễ mua,
dễ bán” mà rốt cuộc đã dẫn đến đầu cơ tràn lan vào nhiều loại tài sản, đặc biệt
là bất động sản và chứng khoán.
Khả năng kết nối giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính khác chưa cao
Tóm lại :
Mặc dù có sự gia tăng về quy mô và phát triển, thị trường tài chính của Thái
Lan vẫn được coi là nhỏ so với thị trường toàn cầu. Biến động trong thị trường

tài chính toàn cầu do đó tác động thị trường tài chính lớn trong nước như được
phản ánh bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mới nhất và các nền kinh tế
tiên tiến khi thực hiện nới lỏng tiền tệ dẫn đến vốn và tỷ giá hối đoái biến động
đột ngột. Một số lĩnh vực có thể không có khả năng điều chỉnh một cách kịp
thời và sự ổn định kinh tế và tài chính tổng thể có thể bị ảnh hưởng. Hơn nữa,
việc thành lập sắp tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015 sẽ dẫn đến
dòng vốn chảy tự do trong phạm vi khu vực.
Trong những năm qua, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua sự phát triển liên
tục. Tổ chức tài chính đã mạnh hơn và chuẩn bị tốt hơn.

2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Bài học 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế quốc
gia là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và phải trở thành
mục tiêu và chỉ tiêu quản lý kinh tế đất nước, quản lý ngành và mỗi doanh
nghiệp.
Để khắc phục sự thiếu chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và
phát triển, cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế phải báo cáo hàng năm của
mỗi địa phương, mỗi ngành và cả nước các chỉ tiêu như tỉ suất lượi nhuận và tỉ
suất giá trị gia tăng trên số vốn riêng của doanh nghiệp theo các ngành, theo
các thành phần kinh tế và theo các địa phương trong cả nước.
Bài học 2: Nhà nước phải có những biện pháp, quyết sách hợp lý để điều hành
nền kinh tế vĩ mô và đặc biệt phải lành mạnh hóa khu vực tài chính – ngân
hàng. Nhà nước phải tập trung chỉ đạo đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay và
khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực. Cần hoàn thiện
luật pháp và xử lý kiên quyết hơn tình trạng nợ khó đòi. Triệt để tiết kiệm,
chống lãng phí, đề cao kỷ luật tài chính, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán
thống kê, kiểm toán công khai hóa tài chính trong nền kinh tế.
Cụ thể hơn, Chính phủ phải có những công cụ điều tiết ngồn vốn. Hướng tới
mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, các nước đang phát triển ở Đông Nam Á
cũng như Việt Nam nỗ lực thu hút ngày càng lớn vốn đầu tư từ các nước đã

phát triển. Trong các hình thức đầu tư nước ngoài, đầu tư tài chính (đầu tư vào
các sản phẩm tài chính thuần túy) đang chiếm tỷ lệ ngày càng lớn, do sự phát
triển nhanh của thị trường chứng khoán trong những năm gần đây. Lợi ích cụ
thể của đầu tư tài chính được lý giải thông qua tác động “đòn bẩy” hay “cấp số
nhân”, nhằm bù vào thâm hụt trong dự trữ và thương mại của các nền kinh tế


đang phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng những tác động này, nếu thất bại, sẽ
dẫn đến tăng trưởng bong bóng của nền kinh tế và hậu quả là dẫn tới khủng
hoảng.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biết mất cũng nhanh như
khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết. Vì vậy, Việt Nam hiện nay
cần tiến tới xây dựng một hạ tầng tài chính đủ vững vàng để ổn định trước
những thay đổi trong nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và biến động trên thị
trường tài chính thế giới. Bên cạnh đó, các nhà quản lý tài chính cần có những
quy định phù hợp để buộc những nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà
đầu tư lớn tham gia giải quyết hậu quả (trong trường hợp xảy ra khủng hoảng).
Tiếp theo, Chính phủ cần phải xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp. Hệ
thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo và những năm trước thười điểm 1997
đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước Châu Á,
không chỉ ở Thái Lan như Indonexia, Hàn Quốc, kéo theo việc đầu tư dư thừa
vào một số ngành kinh tế. Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho
phép các ngân hàng có tỷ lệ vốn lưu động không phù hợp.
Bài học 3: Công tác thông tin – tư vấn phục vụ cho ccas hoạt động kinh doanh
lẫn các hoạt động quản lý nhà nước cần được đề cao và cải thiện hơn. Hơn thế
nữa, thiết nghĩ cần có một tổ chức chuyên trách của Chính phủ theo dõi sự biến
động của lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và quốc tế, cấn
cân tài khoản vãng lai, nợ quốc gia và hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp để đề xuất các chính sách và điều tiết cần thiết, bảo đảm phát triển quốc
gia bền vững với tăng trưởng cao.

Nguồn tài liệu



×