Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Hành vi ngôn ngữ rào đón về các phương châm hội thoại của h p grice

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.43 KB, 51 trang )

Trường đại học sư phạm hà nội 2
Khoa ngữ văn
*************

Nguyễn thị liên

Hành vi ngôn ngữ rào đón
về các phương châm hội
thoại của h.p.grice

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

H Ni 2007


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

a. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ,
nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác [ 3, 201]. Vì
vậy hội thoại là hoạt động quan trọng của Dụng học đồng thời cũng là đối
tượng của nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ khác.
Hội thoại là sự tương tác. Chúng được đặt trong mối quan hệ với ngữ
cảnh, ngữ nghĩa của phát ngôn. Hiệu quả của hội thoại chính là ở chỗ thông
qua ngôn ngữ, các nhân vật tham gia hội thoại ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy khi
tham gia hội thoại, để đạt hiệu quả các nhân vật ngoài việc đưa ra một nội


dung thông tin nào đó, còn cần phải biết lựa chọn các hành vi ngôn ngữ cũng
như cách thức thực hiện chúng. Trong một số trường hợp, để đạt được hiệu
quả giao tiếp người ta còn cần đến một số yếu tố phụ trợ đi kèm. Bởi lẽ chính
những yếu tố phụ trợ này tuy không có hiệu lực ở lời trực tiếp, nhưng nó có
tác động rõ rệt trong việc làm tăng hoặc giảm hiệu lực ở lời của những phát
ngôn ngữ vi do những hành vi ngôn ngữ đó tạo ra. Một trong những yếu tố này
chính là hành vi ngôn ngữ rào đón.
Hành vi ngôn ngữ rào đón là hành vi ngôn ngữ mang đậm thuộc tính
tâm lý, tinh thần, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong tiếng Việt nói chung và hội
thoại nói riêng, hành vi ngôn ngữ rào đón có tần số xuất hiện không nhiều
nhưng mỗi khi nó xuất hiện đều đem lại hiệu quả giao tiếp không thể phủ
nhận. Bằng việc rào đón nội dung thông tin và hiệu quả ngoài lời, hành vi
ngôn ngữ rào đón góp phần làm giảm nguy cơ đe doạ sự tương tác và tăng
tính lịch sự trong giao tiếp cũng như trong hội thoại. Ngoài ra, hành vi ngôn
ngữ rào đón còn góp phần làm cho phát ngôn trở nên uyển chuyển, liên tục
hơn và thể hiện khả năng vận dụng ngôn ngữ tài tình của người Việt.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

2


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Từ những lý do kể trên, chúng tôi thực hiện đề tài Hành vi ngôn ngữ
rào đón về các phương châm hội thoại của H.P.Grice với hy vọng tìm hiểu
một cách sâu sắc và hệ thống hơn về hành vi ngôn ngữ rào đón một hiện
tượng ngôn ngữ trong cách ứng xử của người Việt được thể hiện cụ thể trong

một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao.
2. Lịch sử vấn đề
Rào đón là một hiện tượng thường gặp trong hội thoại cũng như trong
giao tiếp. Nghiên cứu về loại hành vi này là vấn đề mới mẻ hấp dẫn. Song cho
đến nay nó chưa được Ngữ pháp học tiếng Việt quan tâm. Nói về hành vi ngôn
ngữ rào đón (HVNNRĐ)chỉ có rải rác một vài nhận định mang tính khái quát
của một số tác giả được đăng tải trên một số sách nghiên cứu, tạp chí ngôn
ngữ. Cụ thể như:
* Tạp chí Ngôn ngữ số 1/1988, Giáo sư Hoàng Tuệ nhận định: Những từ
ngữ có chức năng rào đón được xem là phương tiện từ vựng biểu thị hình thái.
* Tác giả Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt sơ khảo ngữ pháp chức
năng (1991) nhận định rằng: Tình thái của câu có thể được biểu thị bằng
khởi ngữ như: có lẽ, tất nhiên.
Về phương diện này, Giáo sư Đỗ Hữu Châu nhận xét: Việc gộp các
yếu tố rào đón vào phạm trù tình thái xoá mờ ranh giới chức năng mang đậm
màu sắc văn hoá dân tộc riêng của từng ngôn ngữ.
* Nhìn từ góc độ Dụng học, tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong Dụng
học Việt ngữ dành một đề mục nói về Những lời rào đón trong giao tiếp.
Theo tác giả Lời rào đón các phương châm của Grice giống như bằng chứng
cho phép nó vi phạm một nguyên tắc nào đó và là tín hiệu để người nghe hạn
chế cách giải thích của mình.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

3


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan


* Tác giả Diệp Quang Ban trong Ngữ pháp tiếng Việt đã chỉ ra rằng:
Trong phân tích mặt dụng học của phát ngôn, các biểu thức tình thái chỉ độ
tin cậy và tình thái ý kiến được xếp vào các yếu tố rào đón. Vấn đề này được
tác giả tiếp tục trở lại trong bài ứng dụng cách nhìn dụng học vào việc giải
thích một số yếu tố có mặt trong câu - phát ngôn (Tạp chí Ngôn ngữ số 7,
2001). Nhìn từ góc độ Nguyên tắc cộng tác của Grice, tác giả viết: Trong
dụng học những yếu tố trong phát ngôn quan hệ đến việc người nói ghi nhận
việc sử dụng các phương châm nêu trên được xếp vào số những lời rào đón.
* Tác giả Đỗ Hữu Châu trong Đại cương ngôn ngữ, ( tập 2 - Phần
Dụng học) đã xếp rào đón vào chiến lược lịch sự âm tính để né tránh những
hành vi đe doạ thể diện hoặc bù đắp, giảm nhẹ hiệu lực của cá nhân trong
giao tiếp.
Gần đây xuất hiện một số bài viết trên Tạp chí Ngôn ngữ, luận văn Thạc
sĩ có đề cập đến HVNNRĐ như:
Tạp chí ngôn ngữ số 6 2003 có bài: Biểu thức rào đón trong hành vi
ngôn ngữ xin phép tiếng Việt trên cơ sở lý thuyết về phương châm hội thoại
của P.Grice (Thạc sĩ Đào Nguyên Phúc). Và luận văn Thạc sĩ của Vũ Thị
Nga: Rào đón trong hội thoại Việt ngữ (ĐHSPHN, 2002)...
Những công trình này đề cập đến vấn đề HVNNRĐ ở dạng khái quát.
Nghiên cứu việc sử dụng HVNNRĐ một cách chung chung trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống giao tiếp xã hội.
Như vậy có thể nói yếu tố rào đón đã được đề cập đến nhưng chưa trở
thành đối tượng nghiên cứu chính của một công trình tiếng Việt nào.Trên cơ
sở những ý kiến của các tác giả đã nói trên chúng tôi tiếp tục tìm hiểu những
HVNNRĐ ở một phương diện cụ thể. Đó là HVNNRĐ về các phương châm
hội thoại được thể hiện trong một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao (đặc

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn


4


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

biệt là truyện ngắn). Từ đó góp thêm một cách nhìn toàn diện và hệ thống hơn
về loại hành vi ngôn ngữ này.
3.Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài
a.Nhiệm vụ
Thực hiện đề tài Hành vi ngôn ngữ rào đón về các phương châm hội
thoại của H. P.Grice chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:
Nắm được một cách đầy đủ và chính xác những kiến thức lý thuyết về
hành vi ngôn ngữ, HVNNRĐ, hội thoại, các phương châm hội thoại của Grice.
Trên cơ sở đó, tiến hành khảo sát, thống kê sự xuất hiện của HVNNRĐ
về các phương châm hội thoại của Grice trong một số tác phẩm tiêu biểu của
Nam Cao.
Từ đó phân tích, tìm hiểu, đánh giá, phân loại chúng theo các phương
châm hội thoại của Grice để thấy được sự linh hoạt, sáng tạo và đa dạng của
loại hành vi ngôn ngữ này thể hiện trên các phương diện sau: Khả năng sử
dụng (dùng trong những trường hợp nào); đặc điểm, hình thức (được cụ thể
hoá bằng những biểu thức nào); mục đích sử dụng (chúng có tác dụng như thế
nào) khi được dùng trong tác phẩm nghệ thuật, cũng như tác dụng đối với sự
phát triển của hội thoại nói riêng và hiệu quả của giao tiếp nói chung.
b. Mục đích
Củng cố, nâng cao, hệ thống hoá những kiến thức lý thuyết về hành vi
ngôn ngữ nói chung, HVNNRĐ nói riêng, hội thoại, các phương châm hội
thoại của Grice.
Vận dụng những kiến thức lý luận trên vào việc nghiên cứu, tìm hiểu,

khám phá một vấn đề cụ thể trong ngôn ngữ học hiện đại, đó là sự xuất hiện
của HVNNRĐ về các phương châm hội thoại của Grice trong một số tác phẩm
tiêu biểu của Nam Cao. Từ đó thấy được hiệu quả của việc sử dụng HVNNRĐ

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

5


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

đối với việc xây dựng tính cách nhân vật trong giao tiếp nói chung và hội thoại
nói riêng.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đề tài Hành vi ngôn ngữ rào đón về các phương châm hội thoại của
H.P.Grice là một đề tài khá rộng và phức tạp. ở đây chúng tôi không có
tham vọng đi sâu vào tất cả các vấn đề có liên quan đến HVNNRĐ cũng như
tìm hiểu tất cả những hiệu quả của chúng . Luận văn này dựa trên những kiến
thức lý thuyết đã cung cấp, để tìm hiểu sự xuất hiện của HVNNRĐ trong một
số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao và rút ra những kết luận cần thiết.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Khảo sát trên 40 tác phẩm tiêu biểu như sau: Nghèo, Đui mù, Cái
chết của con mực, Chí Phèo, Đời thừa, Giăng sáng, Tư cách mõ,
Lão Hạc, Một đám cưới, Nửa đêm, Dì hảo, Nước mắt, Sống
mòn, Cái mặt không chơi được, Nhỏ nhen,Một bữa no
Tiến hành thống kê được 500 phiếu.
Phân loại HVNNRĐ theo từng phương châm hội thoại của Grice.

b. Phương pháp phân tích, đánh giá
Trên cơ sở những ngữ liệu đã thống kê, tiến hành phân tích, lý giải,
nhận xét về: khả năng sử dụng, cách thức sử dụng,chức năng hiệu quả của
HVNNRĐ được thể hiên trong những tác phẩm tiêu biểu trên của Nam Cao.
6. Cấu trúc luận văn
- Mục lục.
- Danh mục các kí hiệu viết tắt .
A. Phần mở đầu:

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

6


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Cấu trúc luận văn.
B. Phần nội dung.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết.
Chương 2: Hành vi ngôn ngữ rào đón về các phương châm hội thoại của
H.P.Grice.
Chương 3: Tác dụng của việc vận dụng hành vi ngôn ngữ rào đón về các
phương châm hội thoại của H.P.Grice.

C. Phần kết luận.
- Tài liệu tham khảo.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

7


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

B. nội dung
Chương 1: Cơ sở lý THUYếT.
1. Hành vi ngôn ngữ
1.1. Khái niệm
Đặt nền móng cho lý thuyết hành vi ngôn ngữ là nhà triết học người
Anh J.L.Austin.Với công trình được tuyên bố sau khi ông qua đời 2 năm:
How to do things with word (Từ ngữ làm nên sự vật thế nào?), bản dịch
tiếng Pháp của nhà xuất bản Seuil: Quand dire,cest faire (Khi nói tức là
làm) (L.Austin, 1962) gồm 12 chuyên đề đã được Austin trình bày từ năm
1955 ở Đại học Harvard Mỹ là một đóng góp có giá trị lý luận nền tảng cho
lý thuyết hành vi ngôn ngữ.
Công trình này cho thấy J.L.Austin đã điều chỉnh lại mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và lời nói một cách sâu sắc. Theo ông: Khi nói người ta đồng thời
đã hành động.Đúng hơn là chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà
phương tiện là ngôn ngữ và ông đưa ra khái niệm về hành vi ngôn ngữ như
sau:
Hành vi ngôn ngữ chính là hoạt động nói năng mà sản phẩm của nó là
những phát ngôn ngữ vi. Trong đó phát ngôn ngữ vi là những phát ngôn khi

ta nói chúng ra thì đồng thời người ta thực hiện ngay cái việc được biểu thị
trong phát ngôn.
[ 3, 88 ]
1.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ:
Lý thuyết hành vi ngôn ngữ do J.L.Austin khởi xướng, xây dựng và sau
này được các nhà ngôn ngữ học J.R.Searle, O.Ducrot mở rộng. Trong hơn ba

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

8


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

thập niên qua, lý thuyết này đã đưa nghiên cứu ngôn ngữ vào một sự phong
phú, đa dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp trong hoạt động ngôn ngữ
của đời sống hàng ngày. Austin cho rằng có thể phân chia các hành vi ngôn
ngữ ra làm ba loại: Hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời.
- Hành vi tạo lời (acte locutoire) là hành vi mà người nói sử dụng những
yếu tố ngôn ngữ để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung.
- Hành vi mượn lời (acte perlocutoire) là hành vi mà người nói mượn
các phương tiện ngôn ngữ (hay các phát ngôn) để gây ra một hiệu quả ngoài
lời nào đó (về mặt tâm lý, vật lý,...) ở người nghe hay ở chính người nói.
- Hành vi ở lời (acte illocutoire) là hành vi mà người nói thực hiện ngay
khi nói năng với hiệu quả thuộc ngôn ngữ, nghĩa là chúng gây ra một phản
ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Hành vi ở lời làm thay đổi
tư cách pháp nhân của người đối thoại. Chúng đặt người nói và người nghe
vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi thực

hiện hành vi ở lời đó. (O.Ducrot).
Trong ba loại hành vi kể trên thì hành vi ở lời là đối tượng nghiên cứu
chính của Ngữ dụng học.
2.Hành vi ngôn ngữ rào đón
2.1.Khái niệm
Rào đón là yếu tố ngôn ngữ thường gặp trong giao tiếp. Tuy vậy cho
đến nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ, chính xác về loại hành vi ngôn
ngữ này.
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Rào đón (hedges) là
nói có tính chất ngăn ngừa trước sự hiểu lầm hay phản ứng về điều mình sắp
nói.Như vậy cũng có thể hiểu HVNNRĐ là hành vi nói năng có tính chất
ngăn ngừa trước sự hiểu lầm hay phản ứng về điều mình sắp nói

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

9


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Cách hiểu này đã giúp chúng ta có được một cái nhìn khái quát nhất về
hiệu lực của rào đón. Những lời rào đón có thể là những câu nói có nội dung
đầy đủ hoặc cũng có thể là những quán ngữ...Trong hội thoại,để tác động tới
người nghe, người nói thường có những phát ngôn phụ để gây một hiệu ứng
tâm lý trước khi đề cập sự tình. ở đây, HVNNRĐ khi đứng ở đầu câu có thể là
một phát ngôn phụ, cũng có thể nó thuộc phần trung tâm của phát ngôn. Có
khi hàm ý rào đón ẩn sâu trong toàn bộ phát ngôn, phải có sự suy ý, liên tưởng
thì mới nhận diện được.

HVNNRĐ khi được khái quát thành những biểu thức rào đón thì nó
thường đứng ở đầu câu, nhằm định hướng phạm vi và cách lĩnh hội nội dung
của phát ngôn.
2.2. Chức năng và phạm vi sử dụng:
a. Chức năng.
HVNNRĐ với hiệu lực ở lời là rào đón có tác dụng giảm nguy cơ đe
doạ sự tương tác trong hội thoại. Người nói sử dụng HVNNRĐ nhằm ngăn
ngừa trước sự hiểu lầm hay phản ứng ở người nghe về điều mình sắp nói ra.
Nói cách khác, đây là hình thức rào trước đón sau, phù hợp với nét
tâm lý người Việt. Lời rào đón vừa nhằm thăm dò thái độ, ý tứ của người
nghe, vừa nhằm giảm bớt sự phản ứng từ phía người nghe khi nội dung thông
tin được nói ra. Đồng thời HVNNRĐ còn thể hiện được mức độ trách nhiệm
của người nói đối với lượng thông tin được đề cập trong phát ngôn.
Rào đón góp phần tăng sức thuyết phục cho lời nói, tạo ra tính mạch lạc
và linh hoạt cho hội thoại. Đồng thời khiến cho phát ngôn trở nên liên tục hơn,
uyển chuyển hơn.
HVNNRĐ còn góp phần làm tăng tính lịch sự cho phát ngôn. Vì nó có
thể đảm bảo được hai nguyên tắc chính của phép lịch sự trong giao tiếp:

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

10


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

(1) Tránh áp đặt cái tôi cho người đối thoại.
(2) Giữ thể diện cho người đối thoại, không muốn trực tiếp làm mất thể

diện người nghe.
Trong một số trường hợp, rào đón còn thể hiện hiệu lực từ chối, lảng
tránh. Đó là một hình thức tự vệ nhằm đảm bảo cho phát ngôn có độ an toàn,
người đối thoại không phải chịu trách nhiệm trước hậu quả có thể xảy ra khi
có phát ngôn từ chối. Nó cũng thể hiện sự tài tình, khéo léo của người đối
thoại.
Rào đón còn là một hiện tượng ngôn ngữ phản ánh thuộc tính tâm lý,
tinh thần, bản sắc văn hoá dân tộc. Đối với người Việt, rào đón như một công
cụ đắc lực và sắc bén để tạo ra hiệu quả giao tiếp.
Như vậy, HVNNRĐ có hiệu lực rất phong phú, nó không chỉ có tác
dụng rào đón nội dung thông tin trong phát ngôn, mà còn tạo ra hiệu quả rào
đón ngoài lời của phát ngôn.
b. Phạm vi sử dụng
Nằm trong loạt hành vi ở lời đa dạng, HVNNRĐ với tần số xuất hiện
không nhiều nhưng nó lại chiếm một vị trí quan trọng trong giao tiếp xã hội.
Trong cuộc sống hàng ngày, để cuộc giao tiếp diễn ra đúng với ý định,
trong nhiều trường hợp người đối thoại thường sử dụng HVNNRĐ một cách
linh hoạt, khéo léo.
Trong thực tế giao tiếp, không phải bao giờ người nói cũng ý thức được
mình đang sử dụng HVNNRĐ. Có những trường hợp, rào đón được sử dụng
một cách chủ động , có sự chuẩn bị của người nói. Nhưng cũng không ít các
cuộc thoại, người nói sử dụng hành vi ngôn ngữ này một cách ngẫu nhiên, bất
ngờ. Hoạt động giao tiếp vốn đa dạng, nhiều chiều, mang tính tự nhiên vì vậy
HVNNRĐ cũng được sử dụng một cách đa dạng, tự nhiên. Hiệu quả sử dụng
mà hành vi ngôn ngữ này đem lại cũng hết sức đa dạng, phong phú.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

11



Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật, những lời rào đón được xuất hiện
khá phổ biến. Có những nhà văn sử dụng lời rào đón như một thủ pháp để xây
dựng tính cách nhân vật của mình. Lời rào đón còn xuất hiện khá nhiều trong
những bài ca dao, tục ngữ, thành ngữ...
Với sự xuất hiện ở mọi lĩnh vực của đời sống giao tiếp xã hội,
HVNNRĐ đã khẳng định được vai trò cũng như những chức năng chuyên biệt
của nó. Nghiên cứu về loại hành vi ngôn ngữ này, để thấy được hiệu quả và
đóng góp quan trọng của nó trong sự phát triển của giao tiếp nói chung và sự
phát triển của hội thoại nói riêng là vấn đề mà các nhà ngôn ngữ học quan tâm
nghiên cứu.
3. Hội thoại và các phương châm hội thoại của H.P.Grice
3.1. Hội thoại là gì?
Hội thoại là hoạt động mà ở đó người nói dùng ngôn ngữ để tương tác,
trao đổi một vấn đề hoặc một thông tin nào đó tới người nghe. Hội thoại còn
biểu hiện một chức năng chỉnh thể của ngôn ngữ, đó là chức năng làm công cụ
để giao tiếp.
Nói như GS. Đỗ Hữu Châu:
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ,
nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác.
[ 3, 201 ]
3.2. Các quy tắc của hội thoại
Là một hoạt động có đích, hội thoại diễn tiến theo những quy tắc nhất
định. Có ba quy tắc quan trọng chi phối đến sự thành công hay thất bại của
mọi cuộc hội thoại .


Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

12


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

1.Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời.
2.Quy tắc điều hành nội dung hội thoại.
3.Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân và phép lịch sự.
Nằm trong quy tắc điều hành nội dung hội thoại ,các phương châm
hội thoại của Grice thuộc nguyên tắc cộng tác. Nguyên tắc cộng tác được
Grice khái quát như sau :
Hãy làm cho phần đóng góp của anh,chị đúng như nó được đòi hỏi ở
giai đoạn mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương hướng của cuộc hội
thoại mà anh chị đã chấp nhận tham gia vào.
[ 3, 229]
Với nguyên tắc này,Grice chủ trương đưa ra bốn phạm trù tương ứng với
nó là bốn phương châm hội thoại:
- Phương châm về lượng
- Phương châm về chất
- Phương châm quan hệ
- Phương châm cách thức
Mỗi phương châm lại bao gồm các tiểu phương châm được Grice phát
biểu như sau:
3.2.1. Phương châm về lượng
a. Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin đúng như đòi hỏi.
(Đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó).

b. Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi.
3.2.2. Phương châm về chất
a. Đừng nói những điều mà anh tin rằng không đúng.
b. Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực.
3.2.3. Phương châm quan hệ

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

13


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Hãy quan yếu (be relevant).
3.2.4. Phương châm cách thức
a. Tránh lối nói tối nghĩa.
b. Tránh lối nói mập mờ ( có thể hiểu nhiều nghĩa).
c. Hãy ngắn gọn (tránh dài dòng).
d. Hãy nói có trật tự.
[ 3, 230 ]
Về mặt lý thuyết không thể phủ nhận rằng bốn phương châm này có
tính độc lập tương đối. Nhưng trên thực tế sử dụng ngôn ngữ thì bốn phương
châm này không hoàn toàn tách bạch nhau. Bởi có khi để tôn trọng phương
châm này người ta phải vi phạm phương châm kia. Hay nói như GS. Đỗ Hữu
Châu Các phương châm không phải lúc nào cũng đồng quy.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn


14


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Chương 2 : Hành vi ngôn ngữ rào đón về các
phương châm hội thoại của H.P.Grice.

1. Khảo sát thống kê
Nghiên cứu đề tài này,chúng tôi tiến hành khảo sát được 500 phiếu về
các HVNNRĐ và thu được kết quả như sau:
HVNNRĐ phương châm về chất :
287 phiếu chiếm 57,4%
HVNNRĐ phương châm về lượng:
76 phiếu chiếm 15,2%
HVNNRĐ phương châm quan hệ:
63 phiếu chiếm 12,6%
HVNNRĐ phương châm cách thức:
74 phiếu chiếm 14,8%
Từ kết quả thống kê trên, chúng tôi nhận thấy:
Mức độ sử dụng của HVNNRĐ theo từng phương châm hội thoại là
không giống nhau:
HVNNRĐ phương châm về chất chiếm tỉ lệ cao nhất: (57,4%).
HVNNRĐ phương châm quan hệ chiếm tỉ lệ thấp nhất: (12,6%).
HVNNRĐ phương châm về lượng và phương châm cách thức chiếm tỉ
lệ tương đương nhau (15,2% và 14,8%).
Chúng tôi tạm thời lý giải hiện tượng này như sau:
Thứ nhất, sự khác nhau của mỗi phương châm sẽ dẫn đến mức độ sử

dụng của HVNNRĐ theo từng phương châm cũng khác nhau. Chẳng hạn,
phương châm về chất yêu cầu người nói phải cung cấp những thông tin chân
thực và có bằng chứng xác thực.Trong thực tế giao tiếp, mỗi một phát ngôn

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

15


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

thường mang một nội dung thông tin nào đó, để đảm bảo yêu cầu về tính
chính xác của nội dung thông tin, người nói thường sử dụng rào đón khẳng
định độ tin cậy chắc chắn của thông tin. Cũng có khi người nói rào đón để
thông báo trước cho người nghe về những thông tin không đảm bảo tính chính
xác sắp được nói ra. Những HVNNRĐ về mức độ chân thực của thông tin như
vậy xuất hiện phổ biến trong nhiều cuộc thoại. Do đó HVNNRĐ phương
châm về chất có tần số xuất hiện tương đối cao (57,4%) là lẽ đương nhiên.
Tương tự cách lí giải trên đối với các HVNNRĐ phương châm về lượng,
cách thức, quan hệ. Như vậy nội dung, đặc điểm của mỗi phương châm hội
thoại khác nhau góp phần tạo ra sự khác nhau về mức độ sử dụng của
HVNNRĐ theo từng phương châm đó.
Thứ hai, đặc điểm của HVNNRĐ là một trong những lí do tạo ra mức
độ sử dụng khác nhau của hành vi ngôn ngữ này theo phương châm hội thoại.
ở mỗi phương châm hội thoại, người nói đều phải căn cứ vào đặc điểm của
HVNNRĐ để xác định những lời rào đón phù hợp với từng phương châm. Nếu
không căn cứ vào đặc điểm của HVNNRĐ, người nói sẽ không biết cách sử
dụng hoặc nhầm lẫn khi sử dụng chúng trong giao tiếp. Do đó, đặc điểm của

HVNNRĐ cũng tác động đến mức độ sử dụng của hành vi ngôn ngữ này theo
từng phương châm hội thoại.
Thứ ba, môi trường, hoàn cảnh giao tiếp cũng ảnh hưởng đến việc người
nói lựa chọn, sử dụng những HVNNRĐ. Tùy hoàn cảnh giao tiếp, người nói sẽ
lựa chọn loại HVNNRĐ thích hợp nhất dựa trên các phương châm hội thoại.
Yếu tố hoàn cảnh giao tiếp cũng tác động đến mức độ sử dụng của hành vi rào
đón này.
Ngoài ra, việc sử dụng HVNNRĐ ở phương châm hội thoại nào nhiều
hay ít còn do yếu tố chủ quan của người nói. Trong văn Nam Cao, HVNNRĐ
phương châm về chất có tần số xuất hiện cao nhất, rào đón phương châm về

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

16


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

lượng và cách thức xuất hiện ở mức độ trung bình, rào đón phương châm quan
hệ xuất hiện ít nhất cũng được giải thích một phần do phong cách và quan
niệm của nhà văn.
Trên đây là một số lý giải cho sự khác nhau về mức độ sử dụng của
HVNNRĐ ở từng phương châm hội thoại. Chúng tôi sẽ lần lượt đi vào từng
HVNNRĐ về các phương châm để thấy được hành vi rào đón này xuất hiện
trong những trường hợp nào, tìm hiểu cách thức và hiệu quả sử dụng của nó
đối với sự phát triển của hội thoại nói riêng, giao tiếp nói chung.
2. Hành vi ngôn ngữ rào đón về các phương châm hội thoại của
H.P.Grice

Trong giao tiếp, để cuộc hội thoại đạt đến đích, người nói cần có những
cách thức giao tiếp hợp lý, tạo tiền đề giúp người nghe tiếp nhận được đầy đủ
nội dung thông tin mà mình muốn truyền đạt. Nguyên tắc cộng tác của
Grice đã nêu lên bốn phương châm chi phối đến cách thức giao tiếp cũng như
thành công của hội thoại. Đó là: phương châm về lượng, phương châm về chất,
phương châm quan hệ, phương châm cách thức. [ 3, 230 ].
Trong các cuộc thoại, khi người nói (SP1) có ý thức hoặc tôn trọng hoặc
vi phạm một trong các phương châm hội thoại thì sẽ xuất hiện những
HVNNRĐ về các phương châm hội thoại.
Mặt khác, bất kì cuộc thoại nào dù hướng tới mục đích gì thì người nói
đều luôn ý thức rất cao về những điều được nói ra. SP1 hiểu rằng người nghe
(SP2) luôn theo dõi và có phản hồi ngược ngay nếu như ở phát ngôn mà SP1
nói ra có điểm nào đó không phù hợp. Vì vậy trước khi giao tiếp cũng như
trong giao tiếp, SP1 luôn phải xây dựng được hình ảnh tinh thần của SP2 (về
năng lực, trạng thái, tâm lí, tình cảm, sở thích). Để gây một hiệu ứng tâm lý
ở phía SP2, SP1 thường sử dụng những HVNNRĐ trước khi cung cấp thông
tin.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

17


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Vậy hành vi rào đón xuất hiện phần lớn trong những phát ngôn mà
người nói có ý thức sử dụng chúng nhằm đạt những mục đích giao tiếp nhất
định.

Những lời rào đón xuất hiện rất phong phú, ứng với mỗi phương châm
hội thoại có một kiểu rào đón. ở đây, chúng tôi lần lượt đi vào từng
HVNNRĐ cho từng phương châm hội thoại để thấy được tài năng sử dụng
ngôn ngữ của tác giả Nam Cao và hiệu quả sử dụng của hành vi ngôn ngữ này
đối với sự phát triển của hội thoại cũng như giao tiếp.
2.1. Hành vi ngôn ngữ rào đón phương châm về chất
Theo P.Grice, phương châm về chất được phát biểu như sau:
a. Đừng nói những điều mà anh tin rằng không đúng.
b. Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực.
[ 3, 230 ]
Phương châm này đòi hỏi người tham gia hội thoại hãy nói những điều
mà mình tin là đúng và có bằng chứng xác thực. Tức là đề cập đến mức độ tin
cậy, tính chính xác, đúng- sai của những điều được nói ra.
Trong hội thoại, mức độ chân thực của thông tin là yếu tố quyết định
hàng đầu cho việc lĩnh hội nội dung phát ngôn của người nghe. Bằng những
cách thức khác nhau, người nói sẽ truyền đạt nội dung thông tin một cách
chân xác để thuyết phục người nghe. Một trong những cách thức đem lại hiệu
quả cao là sử dụng những lời rào đón.
Qua đây, chúng tôi đưa ra cách hiểu về HVNNRĐ phương châm về chất
như sau:
HVNNRĐ phương châm về chất là những hành vi ngôn ngữ mà người
nói rào đón về mức độ chân thực của nội dung thông tin trong phát ngôn.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

18


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Có hai kiểu rào đón phương châm về chất:
1. rào đón khẳng định độ tin cậy chắc chắn của thông tin.
2. Rào đón giảm nhẹ độ tin cậy chắc chắn của thông tin.
2.1.1. Hành vi ngôn ngữ rào đón khẳng định độ tin cậy chắc chắn
của thông tin.
Trong các cuộc thoại, HVNNRĐ khẳng định độ tin cậy chắc chắn của
thông tin được sử dụng rất phổ biến. Để người nghe có độ tin tưởng chắc chắn
vào thông tin mà mình cung cấp, người nói thường rào đón như sau:
VD1: Một điều chắc chắn rằng hai người con gái ấy có một ngày phải
lấy chồng.
(Tuyển tập Nam Cao, Sống mòn, 577).
VD2: Cuộc đời ở đây cố nhiên là chẳng đẹp gì, nhưng chắc chắn là y
có ăn, có mỗi tháng ít nhiều để giúp gia đình.
(Tuyển tập Nam Cao, Sống mòn, 547).
VD3: Lẽ tất nhiên là bà Ngã càng căm. Kẻ mồi chài mối lái hiển nhiên
là bà Hai Mợn.
(Tuyển tập Nam Cao, Truyện người hàng xóm, 423)
Những lời rào đón: chắc chắn, cố nhiên, hiển nhiên, lẽ tất
nhiên, có hiệu lực nhấn mạnh, khẳng định nội dung thông tin được nói là
hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở. Khi người nói đã khẳng định một cách chắc
chắn nghĩa là họ đã tin tưởng tuyệt đối vào điều mình cung cấp. Sở dĩ có sự tin
tưởng đó vì người nói đã dựa trên quy luật vận động của tự nhiên và xã hội để
suy ý. Cách rào đón này tạo được sự tin tưởng ở người nghe về độ chính xác,
chân thực của thông tin mà người nói cung cấp.
Cũng có trường hợp, người nói rào đón khẳng định độ xác thực của
thông tin như sau:

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn


19


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

VD5: Ai cũng bảo: ấy! Tôi thì tôi chịu đấy; có đói cho chết thì cũng
chỉ riết chặt thắt lưng vào mà nhịn.
(Tuyển tập Nam Cao, Đòn chồng, 99).
VD6: Ai cũng tin rằng đó là một việc sờ sờ quả báo.
(Tuyển tập Nam Cao, Nửa đêm, 329).
VD7: Ai cũng phải nhận rằng ông có vẻ khoẻ, rắn rỏi, gan góc, bướng
bỉnh.
(Tuyển tập Nam Cao, Truyện người hàng xóm, 412).
Các ví dụ trên, người nói rào đón: ai cũng bảo, ai cũng tin rằng,
ai cũng phải nhận rằng nhằm hướng người nghe tin tưởng vào lượng tin
được cung cấp, tăng sức thuyết phục cho người phát ngôn.ở đây người nói đã
dựa trên sự thừa nhận của đa số (mọi người đều biết/ đều bảo/ đều tin) để nhấn
mạnh vấn đề cần nói, do đó đã tạo ra cách lập luận chặt chẽ và thuyết phục đối
với người nghe.
Ngoài ra rào đón khẳng định độ tin cậy chắc chắn của thông tin còn
được thể hiện ở việc: người nói dựa vào những kinh nghiệm được cộng đồng
người đúc kết hay những phương ngôn của người đi trước để rào đón. Chẳng
hạn:
VD8: Kinh nghiệm đã cho nó biết rằng: mách San chỉ bực mình thêm.
(Tuyển tập Nam Cao, Sống mòn, 545)
VD9: Khi một đứa ho chẳng hạn, thị thấy đau ở chính ngay ngực thị
đúng như lời nữ sĩ phương Tây đã nói.

(Tuyển tập Nam Cao, Nước mắt, 378)
Người nói rào đón Kinh nghiệm đã cho nó biết rằng, đúng như lời
nữ sĩ phương Tây đã nói để thuyết phục người nghe về độ tin cậy của nội
dung thông tin. ở đây, dựa trên vốn sống, vốn kinh nghiệm của nhân loại
người nói rào đón để báo trước cho người nghe biết điều mình sắp nói là đáng

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

20


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

tin cậy. Để người nghe tin tưởng vào điều mình nói là đúng và có cơ sở, người
nói còn đưa bằng chứng xác thực là câu phương ngôn của người đi trước để
tăng thêm tính thuyết phục cho lời nói ra. Lời rào đón tuy thường đứng ở đầu
phát ngôn, nhưng cũng có khi nằm ở cuối của phát ngôn (ví dụ 9). Thực tế, khi
lời rào đón ở cuối phát ngôn nó lại có thêm tác dụng giống như một sự đúc
rút, một lời kết luận từ những điều đã dẫn. Đặc điểm này cũng góp phần tăng
độ tin cậy chắc chắn cho thông tin.
Trong giao tiếp, để đảm bảo tính chắc chắn đúng của thông tin mà mình
sắp nói, người nói đôi khi còn dùng những hình thức rào đón như:
VD10: Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm
có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả là đi tù sướng quá.
(Tuyển tập Nam Cao, Chí Phèo, 44)
VD11: Con xin thề với cậu, nội quanh đây có ai biết con ở với cô giáo,
mỗi tháng công có một đồng, là con phải tội.
(Tuyển tập Nam Cao, Sống mòn, 578)

VD12: Thật! Con nói dối cậu, con chết bằng này tuổi.
(Tuyển tập Nam Cao, Sống mòn, 587)
VD13: Tôi thề đã kịp chấm đến một cô em nào thì giời cứ làm cụt tay.
(Tuyển tập Nam Cao, Những truyện không muốn viết, 88.
VD14: Tôi nói dối anh làm gì, không tin đưa tiền tôi mua giùm.
(Tuyển tập Nam Cao, Nhỏ nhen, 75)
Những lời rào đón ở dạng thề như trên mang đậm tính chất cường
điệu, nói quá để người nói thể hiện trách nhiệm của mình đối với điều được
nói ra. Bởi người nói đã hoàn toàn chắc chắn về độ chính xác của thông tin
nên người nói mới đem tất cả những gì thuộc trách nhiệm bản thân ra để đảm
bảo. Thậm chí có người còn thề độc - đem tính mạng của mình ra để đảm
bảo cho lời mình nói là đúng (trời tru đất diệt, chết bằng này tuổi). Lối rào

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

21


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

đón này cho thấy người nói sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu thông tin nói ra
là sai. Các phát ngôn này khiến người nghe hoàn toàn tin tưởng vào độ chính
xác của nội dung thông tin được cung cấp.
Trên cơ sở phân tích ví dụ, chúng tôi thấy HVNNRĐ khẳng định độ tin
cậy chắc chắn của thông tin thường được thể chế hoá bằng những biểu thức
rào đón như sau: ( Biểu thức rào đón là những từ ngữ rào đón mang tính chất
chuyên dụng trong những trường hợp nhất định của phát ngôn).
Cố nhiên, dĩ nhiên, đương nhiên, lẽ tất nhiên, hiển nhiên, chắc chắn,

hoàn toàn, sự thật là, rõ ràng là
Ai cũng bảo, mọi người bảo, ai cũng biết, mọi người đều biết, cả làng
nói, cả xã nói, ai cũng thấy rằng
SP1 nói sai thì trời tru đất diệt / chết / chết không nhắm mắt / trời đánh
thánh vậtSP1 xin thề thì phải tội / chết bằng này tuổi / không làm giống
người.
Khi sử dụng những HVNNRĐ khẳng định độ tin cậy chắc chắn của
thông tin chứng tỏ người nói muốn nhấn mạnh về độ chính xác của thông tin,
từ đó thuyết phục người nghe. Có nhiều cách nói khác nhau để khẳng định
thông tin được nói ra là đúng, song sử dụng những lời rào đón sẽ đem lại hiệu
quả cao hơn cả. Do đó rào đón về độ chân thực của thông tin được xuất hiện
khá phổ biến trong các cuộc thoại. Có những trường hợp, để người nghe hoàn
toàn tin tưởng, người nói đã rào đón ràng buộc trách nhiệm của mình với điều
được nói ra. Những hành vi rào đón này có hiệu lực rào đón cao, tác động trực
tiếp đến nhận thức, thái độ của người nghe, tạo được niềm tin cho mối quan hệ
giữa người nói với người nghe. Do đó góp phần thúc đẩy cuộc thoại phát triển,
đạt được đích mong muốn.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

22


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

2.1.2. Hành vi ngôn ngữ rào đón giảm nhẹ độ tin cậy chắc chắn của
thông tin.
Trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định, do chưa nắm được chính

xác thông tin nên người nói thường dùng cách nói rào đón giảm nhẹ độ tin cậy
chắc chắn của thông tin như:
VD1: Hình như đến hơn một tuần rồi thì phải, tôi cũng quên không hỏi
cho biết rõ.
(Tuyển tập Nam Cao, Truyện người hàng xóm, 530)
VD2: Kẻ thì biết khinh hẳn sự sống của mình để mà yêu có lẽ vì cũng
lờ mờ nhận thấy rằng tình yêu còn đáng quý gấp mười sự sống.
(Tuyển tập Nam Cao, Sống mòn, 558)
VD3: Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở
tù, rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng không?
(Tuyển tập Nam Cao, Chí Phèo, 46)
VD4: Y mơ hồ thấy y sẽ khổ và y sẽ làm người khác khổ, điều ấy còn
khổ hơn.
(Tuyển tập Nam Cao, Nhìn người ta sung sướng,96)
Những lời rào đón: hình như, có lẽ, hắn nhớ mang máng, y mơ
hồ thấy được dùng để khẳng định người nói chưa thông suốt toàn bộ thông
tin, chưa có chứng cớ cụ thể về điều mình nói ra. Khi chưa chắc chắn về điều
mình nói thì rào đón giảm nhẹ độ tin cậy chắc chắn của thông tin là một lựa
chọn hợp lí để hạn chế những hiểu lầm từ phía người nghe. ở đây, lời rào đón
có thể là các trạng từ hay phó từ: hình như, có lẽthường xuất hiện ở
đầu câu. Nó có tác dụng biểu thị sự phỏng đoán từ phía người nói đối với
thông tin được cung cấp. Vì thông tin đó mới chỉ dựa trên cơ sở sự cảm nhận
trực quan của người nói chứ chưa có bằng chứng xác thực.

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

23


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

Có trường hợp để giảm nhẹ độ tin cậy của thông tin, người nói còn dùng
hình thức rào đón như:
VD5: Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này,
mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng
không thích bằng.
(Tuyển tập Nam Cao, Đời thừa, 345)
VD6: Tôi nghe nói: chú định làm nhà.
(Tuyển tập Nam Cao, Mua nhà, 146)
ở các ví dụ này người nói rào đón: Tôi cho rằng, tôi nghe nói
nhằm thông báo với người nghe rằng thông tin được nói ra chỉ là ý kiến riêng
của cá nhân người nói.ý kiến riêng thì có thể không đảm bảo tính khách quan
và tính chân lí nên việc chấp nhận hay không hoàn toàn thuộc vào người nghe.
Dùng những lời rào đón này giúp người nói bộc lộ được quan điểm của mình
hết sức tự nhiên, còn người nghe sẽ không bị áp đặt phải theo quan điểm người
nói. Do đó nó tạo được tâm lý tự nhiên, thoải mái cho các nhân vật giao tiếp.
Cách rào đón như trên có tác dụng giảm nhẹ độ tin cậy, chính xác của thông
tin mà người nói cung cấp. Có thể do người nói chưa nắm rõ thông tin, chưa
có bằng chứng cụ thể nên coi đó là ý kiến của bản thân mình. Cũng có thể
người nói đã nắm được toàn bộ thông tin, thậm chí có cả bằng chứng xác thực
song vẫn rào đón coi đó là ý kiến cá nhân. Trường hợp này chứng tỏ người nói
đã cố ý khiêm tốn hoá hiểu biết của mình nhằm nâng cao thể diện cho người
nghe.
Rào đón về việc người nói giảm nhẹ độ tin cậy chắc chắn của thông tin
còn được thể hiện trong trường hợp người nói nhắc lại ý kiến của người khác
hoặc nhắc lại cái tin mà anh ta đã được nghe.Chẳng hạn như:

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn


24


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

GVHD. ThS. Khuất Thị Lan

VD7: Hỡi Thượng đế mà người ta đồn là rất công bình và chỉ làm toàn
những điều nhân, sao Người lại cho tôi một cái mặt tai hại cho tôi đến thế.
(Tuyển tập Nam Cao, Cái mặt không chơi được, 64)
VD8: Chỉ biết có một hôm Chí bị người ta giải huyện rồi nghe đâu
phải đi tù.
(Tuyển tập Nam Cao, Chí Phèo, 33)
VD9: Người ta bảo cụ hơn người ta chỉ bởi cái cười.
(Tuyển tập Nam Cao, Chí Phèo, 35)
VD10: Có người bảo đấy là chứng bệnh rút gân, và cũng do bệnh ấy
mỗi lần muốn nói gì lão cứ lắp một hồi dài cái tiếng đầu câu rồi mới tiếp được
cả câu, mà khi nói mồm, mặt lão xệch xạc đi một cách vừa buồn vừa cười, sợ
lắm.
(Tuyển tập Nam Cao, Truyện người hàng xóm, 406)
VD11: Tôi thấy có người nói: hình như cơm chả lành, canh chả ngọt,
anh chồng phụ bạc gì chả biết.
(Tuyển tập Nam Cao, Truyện người hàng xóm, 491)
VD12: Có người nói xa xôi: Trời có mắt đấy, anh em ạ.
(Tuyển tập Nam Cao, Chí Phèo, 62)
Những ví dụ trên người nói rào đón: Người ta đồn, nghe đâu,
người ta bảo, có người bảo, có người nói để thông báo trước với người
nghe rằng những thông tin sắp được nói ra sẽ không đảm bảo độ chính xác,
chân thực. Người nói dẫn lại những thông tin đã được nghe để chứng tỏ mình

chỉ có trách nhiệm nhắc lại, chứ không có bằng chứng xác thực. Cách rào đón
này giúp người nói không phải chịu trách nhiệm về tính đúng sai của nội
dung thông tin đã cung cấp.
HVNNRĐ giảm nhẹ độ tin cậy chắc chắn của thông tin được thể chế
hoá bằng những biểu thức rào đón như sau:

Nguyễn Thị Liên K29B Ngữ văn

25


×