TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
DIỆP THỊ THU
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH TÂN
TRONG LỬA THIÊNG CỦA HUY CẬN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2015
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
DIỆP THỊ THU
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH TÂN
TRONG LỬA THIÊNG CỦA HUY CẬN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LA NGUYỆT ANH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến TS. La Nguyệt
Anh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
thực hiện khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Khóa luận được hoàn thành, song không tránh khỏi những hạn chế, tôi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ phía các thầy cô để khóa luận
của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Diệp Thị Thu
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong khóa luận là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Diệp Thị Thu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
7. Đóng góp mới của khóa luận ........................................................................ 7
8. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 8
1.1. Những khái niệm cơ bản về “truyền thống” và “cách tân” trong thơ ... 8
1.1.1. Nội hàm khái niệm
1.1.2. Khái niệm truyền thống và cách tân trong văn học ................................ 8
1.2. Truyền thống thơ dân tộc và vấn đề cách tân thơ ca ............................ 10
1.2.1. Giá trị truyền thống của thơ ca Việt Nam ............................................. 10
1.2.2. Vấn đề cách tân thơ ca .......................................................................... 16
1.3. Huy Cận và tập thơ Lửa thiêng .............................................................. 21
1.3.1. Nhà thơ Huy Cận................................................................................... 21
1.3.2. Tập thơ Lửa thiêng ................................................................................ 24
Chƣơng 2. TÍNH TRUYỀN THỐNG TRONG LỬA THIÊNG CỦA
HUY CẬN ...................................................................................................... 27
2.1. Kế thừa vốn văn hóa của dân tộc ........................................................... 27
2.1.1. Không gian văn hóa làng hồn hậu, trong trẻo ....................................... 27
2.1.2. Không gian thiên nhiên với hoa lạ và mùi thơm................................... 31
2.2. Kế thừa các thi liệu truyền thống ........................................................... 36
2.2.1. Những hình ảnh quen thuộc trong ca dao ............................................. 36
2.2.2. Sử dụng các từ ngữ trong văn học cổ .................................................... 38
2.2.3. Kế thừa thể thơ truyền thống................................................................. 40
Chƣơng 3. HUY CẬN VỚI VIỆC CÁCH TÂN TRONG TẬP THƠ
LỬA THIÊNG ................................................................................................ 43
3.1. Xây dựng hình tượng con người cá nhân mới ...................................... 43
3.1.1. Xây dựng hình tượng con người cá nhân cô đơn khao khát sự giao cảm .44
3.1.2. Xây dựng hình tượng con người cá nhân tự ý thức .............................. 46
3.1.3. Xây dựng hình tượng con người triết luận ............................................ 48
3.2. Kiến tạo vũ trụ riêng ............................................................................... 50
3.2.1. Vũ trụ tinh thần đẹp, buồn, sầu não ...................................................... 50
3.2.2. Vũ trụ thơ mênh mang, cô đơn, rợn ngợp ............................................. 53
3.3. Thế giới ngôn từ trang trọng, giàu sắc điệu .......................................... 54
3.3.1. Lạ trong cách kết hợp từ ....................................................................... 55
3.3.2. Tạo âm điệu bằng cách sử dụng các từ láy. .......................................... 57
KẾT LUẬN ................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trên thi đàn Việt Nam vào những năm 1930 - 1945, từ phong trào
Thơ mới đã xuất hiện nhiều tài năng thơ nở rộ như nhận xét của Hoài Thanh
trong Thi nhân Việt Nam: “Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú
như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy
xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu
Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp,
ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và
tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [22; 32]. Các nhà Thơ mới luôn
thể hiện “cái tôi” cá nhân độc đáo, thể hiện nhu cầu giải phóng tình cảm, phát
huy bản ngã và tự do cá nhân. Thơ mới mang nhiều màu sắc khác nhau, song
ở đâu cũng phảng phất nỗi buồn, nỗi cô đơn, không lối thoát, không thấy
tương lai.
Huy Cận là một trong các nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam nói
chung và trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945 nói riêng. Ông không chỉ được đánh
giá là một nhà thơ mang phong cách cổ điển mà bên cạnh đó ông còn được ghi nhận
là một trong những nhà thơ rất hiện đại.
1.2. Huy Cận ra mắt bạn đọc với tập thơ Lửa thiêng, tập thơ được coi là linh
hồn của nhà thơ - linh hồn của Thơ mới. Ngay từ khi Lửa thiêng ra đời đã tạo được
tiếng vang lớn, thu hút nhiều giới nghiên cứu. Với tập thơ đầu tay đó Huy Cận đã có
một vị trí vững chắc trong phong trào Thơ mới nói riêng và trong văn học Việt Nam
nói chung. Tuy nhiên, nghiên cứu về tập thơ Lửa thiêng các nhà nghiên cứu - phê
bình cũng có nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá khác nhau. Nhưng tựu chung các nhà
nghiên cứu - phê bình đều đi đến một ý kiến thống nhất: Thơ Huy Cận diễn tả nỗi
sầu, nỗi cô đơn của một linh hồn nhỏ. Thơ Huy Cận mang một “nỗi buồn thiên cổ”
và “nỗi đau đời” sâu sắc. Nghiên cứu, tìm hiểu tập thơ Lửa thiêng của Huy
1
Cận đặc biệt là nghiên cứu, tìm hiểu yếu tố truyền thống và cách tân trong
Lửa thiêng là một trong những đề tài thú vị và có nhiều ý nghĩa. Góp phần
giúp chúng ta thấy được những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ,
đồng thời thấy được sự sáng tạo tài năng và của ông. Từ đó, góp phần xác
định cơ sở khoa học để nhận diện, đánh giá những nét đặc sắc trong tập thơ
Lửa thiêng của Huy Cận cũng như những đóng góp rất đáng trân trọng của
nhà thơ đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Trong suốt hành trình hơn sáu mươi năm cầm bút Huy Cận đã để lại
cho nền văn học dân tộc số lượng tác phẩm khá đồ sộ. Với hơn 80 bài thơ Huy
Cận đã thể hiện được tài năng và phong cách của mình trên thi đàn. Trong đó, đã
có nhiều tác phẩm của Huy Cận được đưa vào chương trình giảng dạy trong
chương trình Trung học cơ sở và Trung học phổ thông: Tràng giang, Đoàn
thuyền đánh cá, Các vị La Hán chùa Tây Phương… Nghiên cứu về vấn đề
truyền thống và cách tân trong 50 bài thơ của Lửa thiêng góp phần phục vụ
trực tiếp cho việc dạy và học văn trong nhà trường. Từ đó có những ý kiến
nhận xét, đánh giá đúng đắn, xác thực về thơ Huy Cận nói chung và tập thơ
Lửa thiêng nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Là một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 1945, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới. Từ khi mới xuất hiện trên thi đàn
Huy Cận đã được xem như một “hiện tượng văn học”. Đặc biệt với sự ra đời
của tập thơ Lửa thiêng Huy Cận đã khẳng định được vị trí của mình trên thi
đàn và Huy Cận càng trở thành tâm điểm của bạn đọc cũng như của giới
nghiên cứu - phê bình. Song, nghiên cứu yếu tố truyền thống và cách tân
trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận là một trong những đề tài mới.
Huy Cận là một trong số ít những nhà thơ lớn nổi tiếng ở cả hai thời kì
trước và sau cách mạng. Nghiên cứu về tập thơ Lửa thiêng nhiều nhà nghiên
cứu - phê bình đã có những ý kiến nhận xét, đánh giá rất xác thực.
2
Người đầu tiên có bài nhận xét, giới thiệu thơ Huy Cận đến với bạn đọc
là Xuân Diệu. Xuân Diệu có những cảm nhận tinh tế về Lửa thiêng - “nỗi thê
thiết ngàn đời”, “lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế”. Là người bạn tri âm, tri kỉ
của Huy Cận, ngay từ buổi đầu Lửa thiêng ra đời Xuân Diệu đã nghe và cảm
nhận được “cảm giác không gian” và “nỗi sầu vũ trụ” của Huy Cận. Đặc biệt,
trong lời giới thiệu về tập thơ, nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét về hồn thơ Huy
Cận - một hồn thơ mang linh hồntrời đất và nặng tình đời, tình người, tình yêu
sự sống: “Linh hồn Huy Cận là một linh hồn trời đất, nói thế không sai đâu!
Xem suốt tập Lửa thiêng, cái cảm giác trội nhất của ta là một cảm giác không
gian, ta nghe xa vắng quanh mình, ta đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn
cõi bát ngát, một cái buồn vời vợi dàn ra cho đến hư vô. Huy Cận quá cảm
nghe cái mênh mông, thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu vũ trụ” [5; 27].
Sau Xuân Diệu, hai nhà phê bình Hoài Thanh - Hoài Chân có bài nhận
xét về Lửa thiêng. Trong Thi nhân Việt Nam, hai nhà phê bình này đã khẳng
định vị trí quan trọng của Huy Cận khi cho rằng tác giả Lửa thiêng “đã gọi dậy
hồn buồn Đông Á, người đã khơi dậy cái sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm vào đất
này” [22; 137].
Quan sát những diễn biến thơ ca lúc bấy giờ, Lương An viết trên báo
Tràng An, số 12, tháng 3 năm 1941 tỏ ra khá ưu ái cho Lửa thiêng: “tập thơ
Lửa thiêng là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp.
Không cần so sánh cũng đủ thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi
nhân có đặc tài…”. Trái với sự ngợi ca của nhiều người dành cho Huy Cận
nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong tác phẩm Nhà văn hiện đại lại có những
nhận xét khắt khe hơn. Ông nhận xét thơ tả cảnh của Huy Cận vẫn còn mang
những nét chung “cái cảm giác của loài người từ thiên cổ mà thi nhân bao lần
ca ngợi”.
Các nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung trong các giáo
trình đại học đều chỉ ra lòng yêu đời, yêu và giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt. Hồn thơ Huy Cận trong trẻo và đầy sức sống. Thơ mới bộc lộ sự đổi
3
mới về thi pháp và tư duy thơ một cách tất yếu, cụ thể qua các sáng tác. Trong
chuyên luận Thơ mới - những bước thăng trầm, Lê Đình Kỵ đặc biệt nhấn
mạnh “nguồn mạch truyền thống chảy dào dạt trong những vần thơ Lửa
thiêng” [11; 15]. Còn nhà thơ Trinh Đường trong tiểu luận Huy Cận và Lửa
thiêng đã có cảm nhận sâu sắc về nỗi buồn thương của Huy Cận về quê
hương, đất nước, về những mảnh đời đau khổ, về nỗi xót xa, ê chề của một
chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu (Ê chề). Cùng với đó là tấm lòng
yêu đời, yêu người tha thiết của thi nhân.
Viết về hồn thơ Huy Cận qua Lửa thiêng Phạm Thế Ngũ nêu một số nhận
xét về vấn đề cốt lõi trong thơ Huy cận: tình yêu thiên nhiên, sự mơ mộng
trong tình yêu, nỗi buồn, tính suy tưởng về cuộc đời… Đặc biệt, Phạm Thế
Ngũ nhận xét nỗi buồn trong thơ của Huy Cận là sự phản ứng của thời đại.
Sang những năm 90 của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ XXI cùng
với sự thay đổi lớn của xã hội, văn hóa, chính trị tác động đến tình hình văn
học. Các bài viết, các công trình nghiên cứu về Thơ mới nói chung và thơ Huy
Cận nói riêng ngày càng phong phú với tên tuổi của một số tác giả nổi tiếng
như: Trần Đình Sử, Mã Giang lân, Trần Khánh Thành, Lý Hoài Thu, Trần
Khánh Thành, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Đăng Điệp, Chu Văn Sơn, Trần Thiện
Khanh… Dù nhìn nhận ở những góc độ khác nhau nhưng các nhà thơ và các
nhà nghiên cứu vẫn đánh giá cao những đóng góp của Huy Cận. Và khẳng định
Huy Cận đã có một vị trí cao, vững chắc trong phong trào Thơ mới.
Đỗ Lai Thúy trong tiểu luận Huy Cận và sự khắc khoải không gian đã
nghiên cứu rất sâu những đặc điểm cơ bản của không gian nghệ thuật Lửa
thiêng. Lửa thiêng của Huy Cận “Ở đó có sự tương giao giữa con người, thiên
nhiên và vũ trụ bao la”. Trong tập tiểu luận Một thời đại trong thi ca và
chuyên luận trò chuyện và ghi chép về thơ Huy Cận: Huy Cận - ngọn lửa
thiêng không tắt.
4
Đặc biệt, Trần Khánh Thành trong chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận
đã nghiên cứu rất sâu về thơ Huy Cận ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh
như: Quan niệm nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật, cái tôi trữ
tình với nhiều đối cực, phương thức thể hiện.
Như vậy, có thể thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề
xoay quanh tập thơ này. Gần đây nhất, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân với
chuyên đề Cấu trúc câu thơ Lửa thiêng của Huy Cận, đăng trên tap chí Văn
Học. Qua bài viết Mã Giang Lân bộc lộ rõ sự chú trọng của ông về ngôn ngữ
nghệ thuật thơ. Ông đã phát hiện thêm một số chi tiết nghệ thuật mới mẻ của
câu thơ Lửa thiêng và góp thêm một vệt nghiên cứu mới về thơ Huy Cận. Đặc
biệt, với luận án tiến sĩ nghiên cứu về Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận
qua Lửa thiêng của Nguyễn Thị Kim Ửng đã nghiên cứu rất sâu vể phong
cách độc đáo của Huy Cận qua tập thơ này.
Như đã nói ở đầu, thơ Huy Cận khi vừa mới xuất hiện đã được xem
như “một hiện tượng lạ”, trải qua hơn một nửa thế kỉ cùng với việc có nhiều
nghiên cứu, phân tích, đánh giá… đã khẳng định được những đóng góp to lớn
của Huy Cận đối với nền văn học Vệt Nam, khẳng định Huy Cận là đại biểu
sáng giá của phong trào Thơ mới 1932-1945. Thơ Huy Cận nói chung và
trong tập Lửa thiêng nói riêng có sự hòa quyện, giao thoa giữa các yếu tố
truyền thống và hiện đại.
Kế thừa những ý kiến, những công trình khoa học của các nhà nghiên
cứu trước, chúng tôi tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề truyền thống và cách tân
trong tập thơ Lửa thiêng để thấy được những đóng góp to lớn của Huy Cận
đối với tiến trình thơ ca hiện đại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tính truyền thống và những vấn đề cách tân trong tập Lửa
thiêng của Huy Cận để thấy được sự kế thừa những giá trị truyền thống thơ ca
các thời kì trước đồng thời thấy được những đổi mới, sáng tạo thể hiện tài
năng và phong cách của Huy Cận trong quá trình sáng tác của mình.
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Khái quát về “truyền thống” và sự “cách tân” trong thơ
Các phương diện thể hiện việc vận dụng các yếu tố truyền thống và
những sáng tạo riêng của Huy Cận qua tập thơ Lửa thiêng.
Rút ra những kết luận và nêu lên những đề xuất về hướng tiếp cận mới
với thơ Huy Cận nói chung và tập thơ Lửa thiêng nói riêng.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát yếu tố truyền thống và cách tân trong tập thơ Lửa
thiêng, khóa luận khẳng định những đóng góp nổi bật của Huy Cận đối với
một chặng đường phát triển mới của thơ hiện đại Việt Nam. Vì vậy, tập thơ
Lửa thiêng gồm 50 bài thơ sẽ là đối tượng chính để chúng tôi nghiên cứu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài của khóa luận đặt vấn đề nghiên cứu yếu tố truyền thống và cách
tân trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, cho nên chúng tôi chọn điểm xuất phát
từ những vấn đề có ý nghĩa khái quát về tính truyền thống, cách tân trong văn
hóa và văn học hiện đại Việt Nam để từ đó nêu ra những dấu hiệu ảnh hưởng
tới thơ Huy Cận nói chung và tập thơ Lửa thiêng nói riêng. Điều đó có ý
nghĩa quan trọng đặc biệt để góp phần khẳng định những thành công cũng
như những đóng góp của Huy Cận trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận nghiên cứu tác giả - tác phẩm văn học,
khóa luận sử dụng phối hợp các phương pháp:
Hệ thống
Miêu tả
Phân tích
So sánh, thống kê phân loại…
6
7. Đóng góp mới của khóa luận
Phát hiện, lí giải những thành công trong việc kế thừa và phát huy
những giá trị truyền thống, những đóng góp tích cực nhằm hiện đại hóa thi ca,
bước đầu khẳng định những giá trị đặc sắc của Huy Cận trong nỗ lực làm mới
thơ Việt.
Kết quả của khóa luận sẽ góp thêm một tiếng nói hữu ích trong việc
đánh giá một phương diện quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Huy Cận
nói chung cũng như việc dạy và học văn trong nhà trường nói riêng.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Tính truyền thống trong Lửa thiêng của Huy Cận
Chương 3. Huy Cận với vấn đề cách tân trong Lửa thiêng
7
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Những khái niệm cơ bản về “truyền thống” và “cách tân” trong thơ
1.1.1. Nội hàm khái niệm
1.1.1.1. Truyền thống
Truyền thống là một từ có nghĩa rất rộng. Truyền thống tiếng Ấn - Âu
là: tradition, bắt nguồn từ tiếng La-tinh: trader, tradetio, có nghĩa là: trao
truyền, truyền đạt, hành động trao truyền, truyền lại (transmission).
Theo hai tài liệu: Từ điển tiếng Việt và Sổ tay từ Hán Việt - Từ Truyền
thống đều được ghi là: Các nhân tố xã hội đặc biệt truyền từ đời này sang đời
khác (Ví dụ: truyền thống văn hóa, truyền thống lịch sử, truyền thống cách
mạng…)
Truyền thống hình thành qua hoạt động lịch sử của con người và có
tính ổn định tương đối. Hiểu theo nghĩa thông thường thì truyền thống là tất
cả những gì được tiếp nối, kế thừa từ đời này sang đời khác một cách liên tục.
Khái niệm truyền thống được áp dụng cho nhiều trường hợp khác nhau
để chỉ những đặc trưng cơ bản về một vấn đề nào đó trong đời sống xã hội,
trong phẩm chất của một cộng đồng người… khi những phẩm chất hoặc hạt
nhân của những vấn đề đó được duy trì, tô đậm, khẳng định để tạo thành nền
tảng (truyền thống văn hóa, truyền thống văn học, truyền thống cách mạng…)
1.1.1.2. Cách tân
Theo hai cuốn: Từ điển tiếng Việt và Sổ tay từ Hán Việt, Cách tân có
nghĩa là: Đổi mới.
Thuật ngữ này chỉ sự tiến bộ căn bản so với cái cũ và thường được sử
dụng để chỉ sự đổi mới trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
8
Như vậy: khái niệm truyền thống và cách tân đều được sử dụng rộng
rãi trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu về: văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên ở
một góc độ nhất định nếu khái niệm truyền thống bao hàm những phẩm chất
căn bản, những nhân tố xã hội cốt lõi được duy trì (truyền từ đời này sang đời
khác) thì khái niệm cách tân lại tiềm chứa sự vận động đổi mới, thay đổi theo
hướng tiến bộ những nhân tố xã hội.
1.1.2. Khái niệm truyền thống và cách tân trong văn học
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm “truyền thống văn học”
dùng để chỉ “những thành tựu chung, đặc sắc tương đối bền vững ổn định trên
cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của văn học được lưu
chuyển kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác trong quá trình văn học. Có
những truyền thống văn học của một dân tộc hoặc một vùng, một khu vực
gồm nhiều dân tộc có quan hệ mật thiết với nhau, có truyền thống văn học của
cả nhân loại” [8; 299].
“Truyền thống văn học không phải là một hiện tượng ngưng đọng
khép kín mà không ngừng vận động đổi mới. Mỗi bước phát triển của lịch
sử xã hội và lịch sử văn học thường khiến cho hàng loạt giá trị, kinh
nghiệm nghệ thuật từng được xem là truyền thống trở nên bảo thủ và lạc
hậu. Để giải quyết những nhiệm vụ nghệ thuật do thời đại đặt ra, người
sáng tác hoặc là phải hoàn thiện đổi mới kinh nghiệm của thế hệ đi trước
hoặc là phải đấu tranh chống lại những gì đã cũ kĩ, lạc hậu, phải tìm kiếm
những lối đi mới. Vì vậy, kế thừa truyền thống và cách tân nghệ thuật là
những phương diện không bao giờ tách rời của quá trình văn học. Những
cách tân chân chính sẽ trở lại thành những truyền thống mới bồi đắp thêm
cho kho tàng kinh nghiệm đã vượt qua sự thử thách của thời gian, của thế
hệ đi trước” [8; 230].
9
1.2. Truyền thống thơ dân tộc và vấn đề cách tân thơ ca
1.2.1. Giá trị truyền thống của thơ ca Việt Nam
1.2.1.1. Nội dung
Có thể nói nền thơ của bất kì dân tộc nào cũng có những đặc điểm
truyền thống do những điều kiện về tự nhiên, đất nước và chủ yếu do những
điều kiện đấu tranh xã hội tạo nên trong quá trình phát triển của lịch sử dân
tộc. Có những dân tộc nền thơ phát triển từ hàng ngàn năm lịch sử như Trung
Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, Việt Nam… hoặc ngắn ngủi trong một vài thế kỉ như
Mỹ… Có dân tộc thơ ca bộc lộ rõ truyền thống đấu tranh chống áp bức, bảo
vệ tự do như thơ ca Nga (từ Lômônôxôp, Puskin, Nêkraxốp đến Maiakopxki).
Ngược lại cũng có nhiều nền thơ nhiều thời kì bị tư tưởng giáo hội thống trị.
Có nền thơ sôi sục tinh thần dân tộc dân chủ như thơ Việt Nam, Tây Ban Nha.
Cũng có dân tộc thơ thiên về cảm xúc trữ tình… Do thực tiễn cụ thể của mỗi
dân tộc ở từng thời kì cụ thể mà thơ có những đặc điểm về nội dung cũng như
hình thức biểu hiện riêng. Những biểu hiện đó xuất hiện một cách thường
xuyên đã tạo thành truyền thống bền vững.
Những yếu tố truyền thống trong thơ ca Việt Nam là những phẩm chất
được tạo thành do môi trường và điều kiện tồn tại trong suốt bốn nghìn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước, sản xuất và bảo vệ thành quả lao động quyết định.
Sinh sống và phát triển trong một môi trường tự nhiên đa dạng nhưng cũng vô
cùng khắc nghiệt, người Việt Nam muốn sản xuất được và bảo vệ những thành
quả đó trước thiên nhiên nghiệt ngã phải hình thành và phát huy tính cộng đồng.
Bên cạnh đó, trong lịch sử phát triển của mình dân tộc ta lại phải dành quá nhiều
thời gian và công sức cho cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc trước những
thế lực xâm lăng tàn bạo. Tinh thần đoàn kết của dân tộc được củng cố và nâng
cao, những khái niệm: nƣớc - dân; tổ quốc - đồng bào… đã phần nào thể hiện
tinh thần ấy. Từ những yếu tố này đã bồi đắp nên một truyền thống kép mang
10
đậm chất nhân văn của dân tộc Việt Nam: yêu nƣớc - thƣơng dân. Đặc trưng ấy
đã tạo thành những truyền thống về nội dung ở trong thơ: Đó là chủ nghĩa yêu
nước anh hùng và tinh thần nhân đạo yêu thương tình nghĩa với hai âm điệu
xuyên suốt là hùng tráng và trữ tình đằm thắm.
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, truyền thống thơ ca của dân
tộc ta đã định hình và có một hành trình phát triển nội sinh mạnh mẽ. Trong
truyền thống đó có hai dòng văn học: dân gian và cổ điển.
Sáng tác thơ ca dân gian xuất hiện từ khi dân tộc ta chưa có chữ viết,
những bài thơ dân gian chủ yếu được sáng tác theo phương thức truyền miệng
thể hiện sức sống và kinh nghiệm đấu tranh xã hội và tự nhiên của con người,
thể hiện đời sống tinh thần phong phú của con người mặc dù cuộc sống còn
nhiều khó khăn, vất vả. Thơ ca dân gian không chỉ thể hiện sức sống của tâm
hồn dân tộc qua nội dung mà nó còn thể hiện qua cách cảm, cách nghĩ, qua
những so sánh liên tưởng, châm biếm vừa giàu hình ảnh sinh động vừa thông
minh ý nhị. Thơ ca dân gian đã góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và bồi
dưỡng tâm hồn cho nhân dân, là nơi xây dựng, rèn giũa ngôn ngữ văn học và
có sự ảnh hưởng đến thơ ca bác học dân tộc. Sự phát triển của văn học Việt
Nam trong nhiều thế kỉ qua đã là minh chứng rất đầy đủ thể hiện sự ảnh
hưởng của văn học dân gian nói chung, thơ ca dân gian nói riêng đến nền văn
học dân tộc. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,
Tú Xương, Nguyễn Khuyến… đều chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ
thơ ca dân gian.
Có thể nói sự tồn tại và phát triển lâu dài của thơ ca dân gian qua các
thời kì lịch sử đã tạo nên một truyền thống bền vững, sâu sắc trong nền thơ
Việt Nam. Và xét cho cùng, ở một mức độ nào đó nó đã ảnh hưởng đến
những nhà thơ ưu tú của các thời đại.
Ra đời sau thơ ca dân gian, thơ ca bác học cổ điển của ta cũng có một quá
trình phát triển lâu dài phản ánh sâu sắc tinh thần dân tộc, biểu hiện nếp sống,
11
tâm hồn, tính cách và cuộc đấu tranh gian khổ, bền bỉ của nhân dân Việt Nam
trong quá trình đấu trang cải tạo thiên nhiên, xã hội, chống thù trong giặc ngoài.
Tinh thần yêu nước chính là khí chất mạnh mẽ nhất tạo thành sức sống khỏe
khoắn trong sáng tác văn học. Tinh thần ấy, tình yêu ấy kết thành những bài thơ
ca ngợi thiên nhiên giàu và đẹp, ca ngợi những con người cần cù, thông minh
trong lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu thương giữa con người với con người.
Đặc biệt, tình yêu ấy được bộc lộ mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong lúc tổ quốc bị
lâm nguy, vận mệnh sống còn của dân tộc đặt ra một cách cấp bách nhất.
Cùng với tinh thần yêu nước, tinh thần nhân đạo cũng là một nét chính
trong nội dung thơ ca. Xuất phát từ truyền thống thương người như thể
thương thân, người Việt sống với nhau bằng một nghĩa cao cả: Bầu ơi thương
lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn, một sự gắn kết giữa
các thành viên trong cộng đồng: Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong
một nước phải thương nhau cùng. Giếng nước, gốc đa, mái đình… là minh
chứng cho lối sống chan hòa, đoàn kết, chan chứa yêu thương của dân tộc
Việt Nam. Tinh thần ấy đã đi vào trong thơ ca một cách tươi đẹp nhất, đó
cũng chính là nội dung của tinh thần nhân đạo. Cốt lõi của tinh thần này là
tình tương thân tương ái. Những câu ca ấy không chỉ đơn giản là tinh thần của
thơ ca dân gian nữa, mà đã trở thành một nguyên tắc sống - trọn vẹn nghĩa
tình, đồng lòng sẻ chia, nguyên tắc ấy là gắn kết bền chặt đảm bảo cho sự tồn
tại của dân tộc.
Tình cảm yêu thương, tinh thần đùm bọc đã trở thành điểm sáng trong
thơ ca dân tộc. Chúng ta có: Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ
Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du… là những bằng chứng cụ thể và
rõ nét về tinh thần nhân đạo cao cả.
Cung oán ngâm là sự cảm thương đối với những người con gái bị mỏi
mòn, héo hắt và tàn lụi trong cung vua phủ chúa.
12
Thơ Hồ Xuân Hương là lời tố cáo chế độ đa thê và toàn bộ nền đạo đức
phong kiến thối nát đẩy người phụ nữ đến sự bi thảm.
Truyện Kiều của Nguyễn Du, thông qua cuộc đời tài hoa, bạc mệnh của
một người phụ nữ Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề hết sức bao quát: Đó là quyền
sống của con người trong xã hội phong kiến. Tác phẩm chứa đựng một tinh thần
nhân đạo cao cả.
Như vậy, chúng ta có thể nói đến rất nhiều những đặc điểm khác nằm
trong truyền thống của nội dung thơ ca dân tộc, nhưng phải thừa nhận rằng
hai phẩm chất lớn nhất, bao quát nhất là tình yêu nước nồng cháy và tinh thần
yêu thương nhân đạo cao cả. Đó là phẩm chất, là lẽ sống lớn lao mà cũng rất
gần gũi ở mỗi con người Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Đúng như lời của đồng chí Lê Duẩn nói: “Lẽ sống của con người là đấu tranh
và tình thương”. Đấu tranh để bảo vệ tự do hạnh phúc và tình yêu thương cao
đẹp của con người, một tình yêu thương chân chính nhất sẽ nảy nở trong đấu
tranh và là cơ sở thiết yếu để đấu tranh.
1.2.1.2. Hình thức
Trong tác phẩm văn học hình thức là kênh duy nhất truyền đạt nội dung
của nó, là phương tiện cấu tạo nội dung và làm cho nó có bộ mặt độc đáo.
Nội dung và hình thức trong thơ cũng thể hiện một cách đầy đủ những
đặc điểm và quy luật về mối quan hệ giữa hình thức và nội dung trong văn
học. Giữa hình thức và nội dung trong thơ cũng có mối quan hệ mật thiết gắn
bó với nhau.
Bên cạnh những giá trị truyền thống của thơ ca Việt Nam về nội dung,
hình thức biểu hiện cũng có những truyền thống quan trọng.
Chúng ta biết rằng: thơ là nghệ thuật của ngôn từ, không phải ngẫu
nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu đã dành cho ngôn ngữ một vị trí xứng đáng
trong định nghĩa về thơ: “Bài thơ, sự lưỡng lự kéo dài giữa âm và nghĩa”
(P.Valeri), “Bài thơ là một lượng thông tin lớn nhất trên một diện tích ngôn
13
ngữ nhỏ nhất” (Ôgiêrốp), “là nơi gieo trồng ý nghĩ, tình cảm, tư tưởng được
tạo tác bằng hình tượng và diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ có thể chế, có
khuôn khổ, có quy luật nhất định về tổ chức bài trí và âm vận” (Hoàng Trinh),
“thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận
phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”
(Phan Ngọc).
Do đó, nói đến hình thức biểu hiện của thơ vấn đề quan tâm trước hết là
ngôn ngữ. Mặc dù, ngôn ngữ không phải là nhân tố quyết định một số tính
chất dân tộc trong thơ nhưng rõ ràng là một nhân tố hết sức quan trọng.
Chúng ta tự hào vì tiếng Việt của chúng ta rất giàu… Tiếng Việt của
chúng ta rất đẹp. Theo Xuân Diệu: “Tiếng Việt ta giàu đẹp bởi đời sống, ý
nghĩ tình cảm của dân tộc ta dồi dào, phong phú, bởi kinh nghiệm bốn nghìn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta”.
Truyện Kiều được coi là tập “đại thành” về ngôn ngữ và Nguyễn Du
được hậu thế coi là bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc. Nguyễn Du đã nâng ngôn
ngữ văn học dân tộc lên một đỉnh cao chói lọi, đúng như lời nhận xét của
Xuân Diệu: “Tiếng Việt dưới ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du trong và
sáng, giàu và đẹp lạ thường…”. Cùng với Nguyễn Trãi trước kia, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến… cũng đã khẳng định đầy sức thuyết phục về sự
phong phú và khả năng to lớn của ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn học.
Tiếng Việt là thứ tiếng đơn âm, nhưng đa thanh làm cho câu thơ vừa
ngắn gọn, vừa mang tính nhạc. Ngôn ngữ thi ca Việt Nam giàu nhạc điệu, dễ
hiệp vần đã tạo cơ sở hình thành nhiều thể loại thơ ca giàu năng lực biểu hiện
phù hợp với tiếng nói yêu thương nhân đạo, với tâm hồn giàu tính chất trữ
tình đằm thắm của người Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu thi pháp thơ Việt Nam rất quan tâm tới các
thể loại thơ dân tộc. Theo Dương Quảng Hàm, thể loại thơ Việt gồm: truyện
14
(lục bát, lục bát biến thể), ngâm (song thất lục bát), hát nói (hát ả đào). Thể thơ
Việt nam gần gũi với các điệu hát: hát nói, hát dặm, hát xoan… tiêu biểu là
lục bát (hốn hợp 6 và 8 từ), song thất lục bát. Các thể thơ này và biến thể của
nó được áp dụng trong dân ca, nhạc sân khấu, văn học. Ngoài các thể thơ
thuần Việt còn nhiều thể thơ ứng dụng các lối thơ của Trung Quốc.
Trong số các thể thơ cổ truyền thì thể thơ lục bát có một vị trí quan
trọng. Cấu tạo và nhịp điệu của câu thơ lục bát mang tính chất độc đáo Việt
Nam. Câu thơ lục bát giàu nhạc tính.Từ nhịp điệu của câu thơ lục bát có thể
cất lên những lời ca, điệu hò một cách tự nhiên, ít phải thay đổi.
Đại đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát (Theo thống kê của
Nguyễn Xuân Kính: trong số 1015 lời của cuốn Ca dao Việt Nam (Đinh Gia
Khánh chủ biên - NXB Văn học 1983) có 973 lời được sáng tác theo thể lục
bát, chiếm 95%; các thể còn lại: song thất, song thất lục bát, hỗn hợp, bốn
tiếng… chiếm 5%) [12; 118]. Nhiều sáng tác giả văn học cổ nổi tiếng cũng sử
dụng thể thơ lục bát: Truyện Kiều của Nguyễn Du; Ai tư vãn của Ngọc Hân
công chúa…
Nhịp điệu thơ lục bát uyển chuyến linh hoạt, ngoài ra với sự không gò
bó, không bị hạn chế về độ dài, ngắn của tác phẩm: có thể hai dòng (phổ biến
trong ca dao), có thể 8136 dòng như Thiên nam ngữ lục, có thể 3254 dòng
như Truyện Kiều. Lục bát sở trường trong diễn đạt cảm xúc vốn rất phong
phú, thể hiện các nội dung hết sức đa dạng của hiện thực.
Những yếu tố truyền thống trong thơ có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của thơ ca hiện đại. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
nhiều lần nhấn mạnh đến vai trò của truyền thống, sức nặng của truyền thống
đối với hiện đại. Truyền thống trong thơ Việt Nam, một nền thơ có từ lâu đời
lại càng có giá trị. Hơn nữa, những yếu tố truyền thống trong nội dung cũng
như trong hình thức của thơ đến nay vẫn mang ý nghĩa gần gũi và trực tiếp
15
với những vấn đề đang đặt ra cho cuộc sống hiện tại. Học tập tinh hoa của
truyền thống, làm mới thơ ca dân tộc là hướng đi của thơ ca hiện nay.
1.2.2. Vấn đề cách tân thơ ca
1.2.2.1. Sự tác động của đời sống xã hội, hoàn cảnh lịch sử đến việc đổi mới
thơ ca
Cuối thế kỉ XIX, sau khi thực hiện thành công việc chiếm xong nước
ta, thực dân Pháp thông qua hai cuộc khai thác lớn (1897 - 1913 và 1919 1929) đã từng bước biến nước ta từ chế độ phong kiến thành chế độ thực dân
nửa phong kiến, đưa nước ta đi vào con đường tư sản hóa. Đây là “một phen
thay đổi sơn hà” về cơ bản không thuận chiều nhưng rất mực lớn lao. Cùng
với sự thay đổi chế độ xã hội, cơ cấu giai cấp, ý thức hệ cũng thay đổi, giai
cấp tư sản ra đời, giai cấp vô sản xuất hiện và giai cấp trung gian: tiểu tư sản
thành thị cũng đông dần lên.
Về văn hóa - đây là thời kỳ “mưa Âu, gió Mỹ”, “cũ mới đấu tranh”, “Á
Âu lộn xộn”. Nền văn hóa cổ truyền từng gắn bó lâu đời với văn hóa khu vực,
đặc biệt là nền văn hóa Trung Hoa bị nền văn hóa Pháp nhanh chóng lấn át.
Trong cuộc đổi thay như vậy, xuất hiện nhiều con người khác trước,
nhiều quan hệ khác trước, nhiều chuyện khác trước. Cuộc sống tràn ra ngoài
khuôn khổ luân thường và nhân tình thế thái, trở thành một cuộc sống xã hội
cụ thể, đa dạng và sôi động. Con người ta bước ra khỏi khuôn khổ chật hẹp,
yên lặng của lũy tre làng để tiến dần ra thị thành, để hòa vào dòng chảy hiện
đại. Người ta phải tự ý thức, phải sống, phải suy nghĩ, phải vật lộn với vấn đề
“cơm áo gạo tiền” trong điều kiện của một xã hội phức tạp, rộng lớn, một xã
hội nửa Tây nửa ta.
Chính sự đổi thay, sự đấu tranh ấy tạo ra những con người khác trước,
tạo ra những vấn đề thành đề tài văn học khác trước. Văn học bắt dầu dần
chuyển từ: “văn hóa quà tặng” sang “văn hóa hàng hóa”, thành một trong
16
những nghề kiếm sống. Lực lượng sáng tác, công chúng văn học, phương tiện
in ấn thay đổi. Văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám đã phải
đảm đương những nhiệm vụ đổi mới đối với thời đại và đối với chính nó.
Trong điều kiện lịch sử mới đòi hỏi văn học phải tự đổi mới.
Văn học hiện đại vượt ra khỏi ảnh hưởng và hạn chế của văn học những
thế kỷ trước mang tính chất trung đại, phong kiến. Một dấu hiệu đầu tiên và
rất quan trọng là việc sử dụng chữ quốc ngữ (Tiếng Việt phiên âm bằng chữ
cái La Tinh). Chữ Quốc ngữ dễ viết, dễ đọc, dễ hiểu, nhờ vậy công chúng văn
học được mở rộng hơn. Sự xuất hiệ của các nhà in theo kĩ thuật hiện đại cũng
tạo điều kiện cho văn học phát triển. Trong văn học có nhu cầu khẳng định
“cái tôi” cá nhân, khẳng định cá tính sáng tạo của tác giả, có nhiều phát hiện,
tìm hòi về tư tưởng, nghệ thuật. Từ đó hình thành những quan điểm nghệ
thuật khác nhau, những cuộc tranh luận và đòi hỏi cách tân văn học mạnh mẽ
theo hướng phương Tây hiện đại.
Có thể nói: hiện đại hóa văn học là một yêu cầu khách quan của thời
đại. Nó là một bộ phận của công cuộc hiện đại hóa văn hóa Việt Nam nói
chung.
Riêng về thơ ca, từ những năm 20, đặc biệt là từ những năm 30 của thế
kỉ XX đã thực sự có một cuộc “cách mạng” theo hướng hiện đại. Nó từ bỏ về
cơ bản hệ thống thi pháp cổ diển để đến với các thể thơ tự do, thể thơ mới
nhằm thỏa mãn nhu cầu bộc lộ thoải mái, tự nhiên cảm xúc, cá tính, tâm tư
tình cảm của người nghệ sĩ. Thơ mới mang một quan niệm mới - quan niệm
cá nhân, “cái tôi cá nhân” được bộc lộ. Những bài thơ trải truốt thanh cao, gọt
giũa tinh xảo như chạm khắc đã bị sóng gió tình cảm của Thơ mới làm lung
lay tận gốc.
Tuy nhiên, trong quá trình cách tân của văn học Việt Nam nói chung,
thơ ca Việt Nam nói riêng không phải từ bỏ hoàn toàn với những gì thuộc về
17
truyền thống văn học của dân tộc mà nó là sự kế thừa và phát triển lên cao
hơn, làm mới hơn, làm hiện đại hơn.
1.2.2.2. Nhu cầu cách tân thơ
Văn học cổ điển chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm văn học Nho gia
cùng với chế độ chuyên chế và khoa cử. Cho nên để nói những cảm xúc rất
riêng tư, những sự việc rất độc đáo, như nhiều trường hợp của bài thơ tức
cảnh, ngẫu hứng trong các thi tập vẫn tìm cái hay trong giữ vững khuôn sáo,
tìm cái tâm kì trong sự gọt giũa khuôn sáo.
Văn học luôn có sự phát triển nội sinh, tức bản thân văn học cũng luôn có
sự đấu tranh để hình thành cái mới. Và như vậy: khi nói sự phát triển nội sinh
như là động lực của quá trình hiện đại hóa thơ ca, còn có nghĩa, sự đổi mới phải
bắt đầu bằng cảm xúc và ý tưởng chứ không phải là từ sự đổi mới của hình thức
thể loại; nhưng cũng đồng thời có nghĩa là thơ phát triển không chỉ vì con người
mà còn có mục đích tự thân. Nhu cầu cách tân thơ ca trước hết là nhu cầu của
bản thân văn học.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Văn học nghệ thuật là một
mặt hoạt động của con người nhằm hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại
xã hội”. Vấn đề sáng tạo vừa là mục đích vừa là bản chất của nhận thức nghệ
thuật. Sáng tạo là phát hiện và khẳng định cái mới trong nội dung cũng như
hình thức mà cơ sở của nó là cái mới nảy sinh trong đời sống xã hội.
Từ cuối thế kỉ XIX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp “cái
mới” đã ùa đến làm thay đổi cả đời sống vật chất cũng như tinh thần của con
người Việt Nam. “Trước mắt chúng ta bỗng bày ra những cảnh lạ lùng chưa
bao giờ từng thấy” (Hoài Thanh). Cuộc gặp gỡ Đông Tây dường như đã làm
thay đổi mọi sinh hoạt, mọi quan niệm của người Việt Nam... Lúc này nhu
cầu đổi mới, nhu cầu cách tân thơ không phải là nhu cầu của bản thân văn
học nữa - đổi mới là đáp ứng nhu cầu khách quan của thời đại.
18
Phong trào Thơ mới xuất hiện vào thời điểm nền văn chương cũ thấm
đẫm tính Nho học. Vì thế, tiến trình vận động đổi mới thơ ca không phải là
việc diễn ra một sớm một chiều, dễ dàng, nhanh chóng.
Thơ mới ra đời đã gây nhiều tranh luận, bút chiến trên các diễn đàn,
diễn thuyết, cuối cùng Thơ mới cũng đã khẳng định được vị trí mới của mình
“sự toàn thắng của Thơ mới đã rõ rệt. Thơ mới đã “giành được quyền sống”,
“cái tôi” của chủ nghĩa cá nhân được bộc lộ, giãi bày phong phú. Qua Thi
nhân Việt Nam và tiểu luận Một thời đại trong thi ca, nhà phê bình Hoài
Thanh - Hoài Chân đã nhận xét 169 bài thơ của 46 nhà thơ thuộc phong trào
Thơ mới một cách thuyết phục.
1.2.2.3. Vị thế của Thơ mới trên thi đàn
Phong trào Thơ mới đánh dấu một bước tiến quan trọng của thơ Việt
Nam từ cổ điển sang hiện đại cả về phương thức biểu hiện lẫn cảm hứng thi
ca. Một thế hệ thi nhân đã mang đến cho thơ những luồng rung động mới mẻ
trước “cuộc đời muôn trùng và thiên nhiên vô tận” (Huy Cận) từ đó mở ra cho
thơ cả một chân trời sáng tạo mới. Sự đổi mới cảm xúc là nhân tố hàng đầu, là
ngòi nổ làm bùng dậy “một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh) tạo ra một
bước tiến mới trên con đường hiện đại hóa thi ca Việt nam. Nó thực sự đã trở
thành một cuộc cách tân trên một quy mô rộng lớn. Kết quả là Thơ mới đã
góp hàng trăm bài thơ hay trong đó có không ít những bài thơ có thể xếp vào
hạng hay nhất của thơ ca dân tộc. Nó là sản phẩm tất yếu của tư duy nghệ
thuật những năm ba mươi nhằm đáp ứng lại nhu cầu cấp thiết về một nền văn
học hiện đại hóa.
Sự cách tân trong Thơ mới không phải là một cuộc cải tạo theo kiểu
“bỏ cũ thay mới” (Lại Nguyên Ân). Theo Nguyễn Đăng Mạnh “Kinh nghiệm
Thơ mới đã chứng minh một chân lý có lẽ đã trở thành muôn thuở: Mọi cuộc
cách tân trong văn học chân chính đều phải cắm gốc rễ rất sâu vào quá khứ.
Không có truyền thống lớn, không thể có cách tân văn học lớn” [14; 24]. Ta
19