Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Hành vi bầy đàn trên TTCK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.68 KB, 26 trang )

HÀNH VI BẦY ĐÀN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
I.

Đặt vấn đề.................................................................................................................... 3

1.

Lý do chọn đề tài. ...................................................................................................... 3

2.

Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................................. 3

II. Cơ sở lý thuyết ............................................................................................................ 4
1.

Khái niệm hành vi bầy đàn........................................................................................ 4

2.

Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán........................................................... 5

3.

Nguyên nhân dẫn đến hành vi bầy đần trên thị trường chứng khoán. ...................... 7

4.
Một vài nghiên cứu thực nghiệm về hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán
thế giới và Việt Nam. ........................................................................................................ 11
4.1.
Bài nghiên cứu “Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam và


khuyến nghị chính sách” (Nguyễn Đức Hiển, Trần Thị Lan Hương – Báo Nghiên cứu
Kinh tế số 426 tháng 11/2013) .......................................................................................... 11
4.2.
Bài nghiên cứu “Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam –
Nguyên nhân và một số giải pháp” (Thạc sĩ Trần Thị Hải Lý – Báo phát triển và hội nhập
số 5 tháng 6/2010) ............................................................................................................. 13
III. Thực trạng , ảnh hưởng của hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán. ..... 15
1.

Ưu điểm và nhược điểm của hành vi bầy đàn. ........................................................ 15

1.1.

Ưu điểm. ........................................................................................................... 15

1.2.

Nhược điểm. ..................................................................................................... 16

2.

Thực trạng, ảnh hưởng của Hành vi bầy đàn trên Thị trường chứng khoán. .......... 17

2.1.
giới.

Thực trạng, ảnh hưởng của Hành vi bầy đàn trên Thị trường chứng khoán thế
17

2.2.

Nam.

Thực trạng, ảnh hưởng của Hành vi bầy đàn trên Thị trường chứng khoán Việt
19
1
 


 


IV. Đề xuất giải pháp hạn chế hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán. ........ 22
1. Tăng cường tính minh bạch của Thị trường Chứng Khoán Việt Nam. .............. 22
2.
Tăng tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư cá nhân và khuyến khích phát
triển các nhà đầu tư tổ chức. .......................................................................................... 23
3.

Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm trên Thị trường chứng khoán. ............. 23

V. Kết luận. .................................................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO. ............................................................................................. 25

2
 

 


HÀNH VI BẦY ĐÀN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.

I.

Đặt vấn đề.

1. Lý do chọn đề tài.
Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán đề cập tới việc một nhà đầu tư bắt chước
hành động của những nhà đầu tư khác để ra quyết định mua bán chứng khoán. Hành vi
bầy đàn là một hiện tượng phổ biến trong thị trường tài chính nói chung và thị trường
chứng khoán nói riêng. Hành vi bầy đàn không hợp lý trong một xu hướng thị trường nào
đó kéo dài liên tục có thể làm giá chứng khoán đi xa giá trị cơ bản của chúng, gây nên sự
bất ổn trong giá và làm mất sự ổn định của thị trường. Từ đó, chúng ta thấy được nó là
một trong những yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu môn thị trường chứng khoán, có những khái
niệm và hiện tượng mà nhóm chưa hiểu rõ, trong đó có đề tài về hành vi bầy đàn. Do đó,
nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài Hành vi bầy đàn để đi sâu nghiên cứu và có
kiến thức rõ ràng hơn về vấn đề này. Vì muốn hiểu sâu sắc những kiến thức về thị trường
chứng khoán nhằm phục vụ tốt nhất cho môn học này, nên trong bài tiểu luận, nhóm
chúng tôi chủ yếu đi sâu phân tích Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Bài tiểu luận nhằm đi sâu phân tích Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán để
giúp các thành viên trong nhóm nắm vững kiến thức về chủ đề này, phục vụ cho quá trình
học tập môn Thị trường chứng khoán. Bài tiểu luận nhằm trả lời cho những câu hỏi như:
Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán là gì? Nguyên nhân dẫn đến nó? Những
3
 

 


nghiên cứu thực nghiệm về hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán thế giới và Việt

Nam như thế nào và qua những nghiên cứu thực nghiệm đó chúng ta rút ra được bài học
gì? Thực trạng của hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán và những tác động của
nó?
Mục đích cuối cùng của bài tiểu luận là đưa ra những giải pháp để hạn chế hành vi bầy
đàn trên thị trường chứng khoán dựa trên những kiến thức mà nhóm tích lũy được sau
quá trình nghiên cứu. Đồng thời, thông qua bài nghiên cứu này, các thành viên trong
nhóm sẽ có cái nhìn rõ hơn về thị trường chứng khoán thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng, nhằm góp phần hỗ trợ kiến thức cho những môn học khác liên quan đến thị
trường tài chính.
II. Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm hành vi bầy đàn.
“Bầy đàn” trong ngữ cảnh xã hội học, là một nhóm người chia sẻ một trạng thái, tính
chất hoặc một sự mong muốn, và mỗi thành viên trong nhóm nhận thức được sự chia sẻ
đó và xem nó là “nhóm của mình”.
Hành vi bầy đàn (HVBĐ) mô tả hiện tượng nhiều cá nhân trong một nhóm bắt chước
nhau và hành động đồng loạt như nhau dù không định trước.
HVBĐ thường được thấy ở các loài sinh vật bậc cao. Ở con người HVBĐ thường được
thấy ở những cuộc biểu tình, nổi loạn, khán giả tại các cuộc tranh đua thể thao, nhưng nó
cũng có thể diễn ra trong một nhóm nơi mà tinh thần tập thể được đề cao.
Với con người, hành vi của bầy đàn không nhất thiết phản ánh hành vi của mỗi thành
viên nếu họ đứng riêng. Nói cách khác, khi một cá nhân tham gia bầy đàn, họ thường
khoác lên mình cái tâm lý và hành vi của nhóm. Các nhà xã hội học đưa ra 3 lý do để giải
thích hiện tượng này:
4
 

 


1) Nhấn chìm nhân cách (personality submergence): một cách vô thức, cá nhân xem

sự tham gia bầy đàn nặc danh của mình là cơ hội để thể hiện quyền lực của nhóm.
2) Truyền nhiễm (contagion): mỗi hành động hay tâm trạng nổi bật trong bầy đàn
thường được lan truyền rất nhanh như dịch bệnh, và cá nhân trong đó xem sự bắt chước
của mình là phù hợp với lợi ích của nhóm.
3) Sự nhẹ dạ (suggestibility): HVBĐ có khả năng cuốn hút thành viên của nhóm, làm
họ mất tự chủ và sẳn sàng hành động theo nhóm.
2. Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam, hành vi bầy đàn là
một biểu hiện nổi bật trong thị trường.
Sự tham gia “chơi” chứng khoán theo kiểu “mốt” thời thượng.
Một bộ phận lớn nhà đầu tư tham gia thị trường với năng lực và hiểu biết hạn chế về
thị trường, bỏ qua các yếu tố cơ bản của CP để chạy theo triển vọng lợi nhuận trước mắt
khi đầu tư vào TTCK. Thành phần nhà đầu tư trên TTCK rất đa dạng, đến từ mọi tầng
lớp trong xã hội. Một số lượng lớn những nhà đầu tư gia nhập mới thị trường, tranh mua
cổ phiếu với kỳ vọng quá lớn đã đẩy giá cổ phiếu tăng mạnh, bong bóng thị trường hình
thành, cổ phiếu được định giá quá cao. Những khoản lợi nhuận lớn đạt được trước đó của
những nhà đầu tư hiện hữu trên TTCK Việt Nam đã lôi kéo ngày càng nhiều nhà đầu tư
gia nhập mới, góp phần gia tăng bong bóng giá CP. Những khoản lợi nhuận mà các nhà
đầu tư trước đó đã đạt được có vai trò như một điểm tham chiếu cho những người gia
nhập tiếp theo sau, và họ chạy theo một viễn cảnh rằng TTCK Việt Nam sẽ còn tiếp tục
gia tăng không có điểm dừng.
Tâm lý “chuộng ngoại” trên thị trường.

5
 

 


Ví dụ khác về hành vi bầy đàn trên TTCK Việt Nam đó là tâm lý “chuộng ngoại” trên

thị trường, đặc biệt là những năm trước. Với hiểu biết và năng lực hạn chế, trên thị
trường nhiều thời điểm đã xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư hành xử theo hướng những gì
được kiến nghị, dự báo trong các báo cáo phân tích của các tổ chức tài chính trên thế giới.
Ví dụ như vào ngày 29 tháng 8, 2007, ngân hàng Hồng Kông Thượng Hải tại Việt Nam
công bố nhận định về TTCK Việt Nam vào thời điểm đó rằng giá của các cổ phiếu tại thị
trường Việt Nam đang ở mức thấp sau một đợt điều chỉnh. Cùng lúc, ngân hàng
Citigroup cũng đưa ra báo cáo phân tích qua đó nhận định rằng Việt Nam có đủ khả năng
vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang lan rộng lúc đó. VN-Index lúc này
đang ở mức 900 điểm, sau khi xuất hiện những bình luận lạc quan về thị trường của hai
tổ chức tài chính quốc tế uy tín, thì VN-Index lập tức tăng vọt, từ mức xấp xỉ 900 điểm
vào cuối tháng 8, 2007 lên mức 1100 điểm vào giữa tháng 10, 2007. Một vài ví dụ khác
có thể liệt kê là cuối tháng 3-2010, ngân hàng HSBC đưa ra dự báo: NHNN sẽ tăng lãi
suất cơ bản thêm 1% trong một vài tuần tới và tỷ lệ lạm phát sẽ lên đến 12% vào cuối quý
II/2010. Lập tức, tâm lý bi quan xuất hiện và nhiều nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu, VNIndex rớt từ 512 xuống còn 503 điểm.
Các nhà đầu tư phản ứng một cách quá mức trên quy mô toàn thị trường.
Hành vi bầy đàn trên thị trường còn biểu hiện qua nhiều thời điểm các nhà đầu tư phản
ứng một cách quá mức trên quy mô toàn thị trường. Trong nhiều giai đoạn, toàn bộ thị
trường đều tăng (giảm) điểm với biên độ gần như kịch trần (sàn) đồng loạt. Bắt đầu từ
những cổ phiếu blue chip, tâm lý lạc quan (bi quan) bao trùm toàn thị trường. Kết quả là
dù cổ phiếu ở tình hình cơ bản là tốt hay xấu đều đi theo xu hướng thị trường: tăng
(giảm) kịch trần (sàn). Một số thời điểm xảy ra hiện tượng này như trong tháng 4, tháng
5/2009, một số ngày thị trường đồng loạt tăng trần (với số mã tăng trần đạt hơn 90%),
nhưng sau đó đã nhanh chóng sụt giảm trở lại với các mức sụt giảm khác nhau giữa các
mã.
6
 

 



Tâm lý ưa hoảng hốt của giới đầu tư.
Hành vi bầy đàn do "tai nạn ngoài ý muốn" hay gặp trên thị trường chứng khoán. Ví
dụ là vụ “scandal” sữa nhiễm khuẩn trước kia của Tập đoàn sữa Fonterra (New Zealand),
và các nhà đầu tư phải đặt câu hỏi tại Việt Nam sẽ có công ty sản xuất sữa nào dính dáng
tới sản phẩm sữa của New Zealand hay không.
Trước mắt, dù các công ty tại Việt Nam không dính dáng đến Tập đoàn sữa Fonterra,
nhưng chắc chắn rằng cổ phiếu của các công ty sản xuất sữa của Việt Nam, chẳng hạn
như như Vinamilk (HOSE: VNM), sẽ sụt giá, mà sụt khá nặng, vì tâm lý ưa hốt hoảng
của giới đầu tư. Đó là cơ hội cho nhà đầu tư chứng khoán kiếm mối lợi rất lớn. Họ lập tức
bán nhanh cổ phiếu công ty sữa của các nhà sản xuất tại Việt Nam, dù lúc ấy nó vẫn tăng
điểm nhẹ, vì chắc chắn là vài phiên sau nó sẽ sụt rất nặng.
3. Nguyên nhân dẫn đến hành vi bầy đần trên thị trường chứng khoán.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường, góp phần tích cực trong việc tạo ra
một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp, một kênh đầu tư hấp dẫn đối với
nhà đầu tư, thì thị trường Việt Nam vẫn thể hiện nhiều hạn chế. Một trong số đó là tâm lý
bầy đàn phổ biến trên thị trường.
Bên cạnh những nguồn gốc chung tạo ra hành vi bầy đàn trên thị trường như đã đề cập
trong phần cơ sở lý thuyết, TTCK Việt Nam có những đặc điểm – sẽ được đề cập dưới
đây – góp phần tạo ra hành vi bầy đàn trên thị trường.
Môi trường pháp luật chưa hoàn chỉnh, thiếu hiệu lực
Nghiên cứu của Gelos và Wei (2002) chỉ ra rằng các thị trường vốn mới nổi tạo ra môi
trường mà bản chất tạo điều kiện cho sự phát triển hành vi bầy đàn. Một đặc điểm nổi bật
phải đề cập đầu tiên đó là môi trường luật pháp chưa hoàn chỉnh. Sự không đầy đủ và
hiệu lực thấp của các điều luật đã khiến thị trường dễ bị tác động bởi những hành động
7
 

 



bất lợi như tin đồn và hành vi thao túng thị trường. Kết quả là điều này dẫn đến sự minh
bạch của môi trường thông tin bị tác động, do đó tạo điều kiện cho sự phát triển của các
xu hướng giao dịch bầy đàn xuất hiện trong các nhà đầu tư. Trong suốt gần 15 năm kể từ
ngày chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000, TTCK Việt Nam hoạt động trong khung
pháp lý có giá trị cao nhất về chứng khoán và TTCK đó là Nghị định số 144/2003/NĐCP (Nghị định 144). Như vậy, trong một thời gian dài, TTCK chỉ chịu sự điều chỉnh của
một văn bản dưới luật – được đánh giá là có nhiều hạn chế, chưa đồng bộ và thiếu đầy đủ.
Một số hạn chế của Nghị định 144 có thể kể đến như không điều chỉnh hoạt động phát
hành cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài; không bao hàm hết các hành vi vi phạm và chưa xác định rõ
nguyên tắc xử phạt cũng như thẩm quyền xử phạt trong các hoạt động trên TTCK… Mãi
đến tận ngày 12/7/2006 Quốc hội mới ban hành Luật Chứng khoán, và chính thức có hiệu
lực từ ngày 1/1/2007. Luật Chứng khoán 2006 ra đời đã góp phần giảm thiếu những hạn
chế của các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK trước đó. Nhưng ngay cả khi
Luật chứng khoán 2006 cũng thể hiện những hạn chế và tính hiệu lực trong nhiều trường
hợp chưa cao. Ví dụ trong một thời gian dài, Luật chưa có những quy định chi tiết về hoạt
động phát hành, niêm yết, giao dịch của các doanh nghiệp nước ngoài trên TTCK Việt
Nam. Hoạt động chào bán chứng khoán ồ ạt ra công chúng mà không có thông tin về mục
đích sử dụng vốn huy động cụ thể diễn ra thường xuyên mà không được điều chỉnh.
Không có các quy định cụ thể về vấn đề công bố thông tin của doanh nghiệp, các đối
tượng liên quan, và khi có quy định này thì hiệu lực của nó cũng hạn chế khi thông tin
còn mang tính chung chung, gây khó hiểu cho nhà đầu tư. Các quy định về hoạt động
kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp còn lỏng lẻo, hiện tượng khi doanh nghiệp
niêm yết bị một công ty kiểm toán từ chối đưa ra ý kiến, hay bị đưa ra ý kiến chấp nhận
từng phần, thì các doanh nghiệp này chuyển sang sử dụng dịch vụ kiểm toán của một
công ty kiểm toán khác để có được ý kiến kiểm toán thuận lợi hơn xảy ra thường xuyên,
theo nhận định của một công ty kiểm toán lớn. Các báo cáo của doanh nghiệp niêm yết
trước và sau kiểm toán có độ vênh lớn không phải là điều hiếm gặp, như trường hợp của
8
 


 


các công ty STB, PPC, BHS, LGC, PIT, ASP, PAC, TMS, VSC trong năm 2008. Quy
định về thời hạn nộp và nội dung các báo cáo tài chính cần công bố tỏ ra kém hiệu lực.
Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước, trong năm 2007 có tới 26/250 công ty
niêm yết trễ hạn nộp BCTC, trong năm 2008 số doanh nghiệp niêm yết chậm nộp BCTC
là 103 doanh nghiệp, con số này của năm 2009 là 203 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều
BCTC của các doanh nghiệp niêm yết công bố còn mang tính hình thức, không đảm bảo
lượng thông tin đầy đủ đối với nhà đầu tư khi nhiều BCTC, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhỏ thiếu phần thuyết minh BCTC. Hiện tượng này đến nay vẫn chưa được các quy định
pháp luật về chứng khoán và TTCK có biện pháp chấn chỉnh mạnh. Những điều vừa đề
cập cho thấy rằng khung pháp lý về TTCK, nổi bật là vấn đề về công bố thông tin, vẫn
còn thiếu, cũng như hiệu lực kém. Điều này đã góp phần tạo ra hiện tượng bầy đàn ở
TTCK Việt Nam.
Quy mô thị trường nhỏ, tạo điều kiện của hành vi thao túng thị trường
Trong điều kiện quy mô thị trường (quy mô niêm yết, khối lượng giao dịch) còn nhỏ,
thì khả năng thao túng thị trường có điều kiện thuận lợi để thực hiện. Quy mô thị trường
càng nhỏ, thì những nhà đầu tư cá nhân, tổ chức có tiềm lực tài chính vào loại khá có thể
thực hiện hành vi “làm giá”. Theo thống kê của Reuters đến hết ngày 26/04/2010, mức
vốn hóa thị trường trung bình của các doanh nghiệp niêm yết ở HOSE là 2,484 tỷ đồng,
trong đó số doanh nghiệp có mức vốn hóa thị trường nhỏ hơn 500 tỷ đồng chiếm tới hơn
43% tổng số doanh nghiệp niêm yết. Khối lượng giao dịch trung bình hàng ngày của các
cổ phiếu ở HOSE là 250,000 cổ phiếu, trong đó tỷ trọng cổ phiếu có khối lượng giao dịch
trung bình hàng ngày nhỏ hơn 100,000 cổ phiếu chiếm 38%, số cổ phiếu có khối lượng
giao dịch nhỏ hơn 50,000 cổ phiếu/ngày chiếm 21%. Đối với HNX, giá trị vốn hóa thị
trường bình quân của các doanh nghiệp niêm yết là 527 tỷ đồng, trong đó số doanh
nghiệp có mức vốn hóa thị trường nhỏ hơn 100 tỷ đồng chiếm 40%. Khối lượng giao dịch
bình quân/ngày của các cổ phiếu niêm yết trên HNX là 190,000 cổ phiếu, trong đó số cổ
phiếu có khối lượng giao dịch bình quân/ngày nhỏ hơn 50,000 cổ phiếu/ngày chiếm đến

9
 

 


39%. Với quy mô giao dịch nhỏ như thế này, đây là điều kiện thuận lợi cho hành vi thao
túng thị trường của các nhà “làm giá”, một cơ sở cho sự hình thành hành vi bầy đàn trên
thị trường.
Năng lực nhà đầu tư còn hạn chế
Xét ở khía cạnh nhà đầu tư, năng lực, kiến thức tài chính của những người tham gia thị
trường cũng là nhân tố góp phần tạo ra hành vi bầy đàn trên thị trường. TTCK Việt Nam
có một lịch sử hình thành và phát triển chỉ mới được chừng 10 năm, mặc dù trình độ của
những nhà đầu tư trên thị trường đã có nhiều cải thiện khi các kiến thức tài chính trở nên
phổ biến hơn thông qua các phương tiện truyền thông, các khóa đào tạo kiến thức chứng
khoán của các trường, các trung tâm, nhưng nhìn chung trình độ, kiến thức tài chính của
đa phần những người tham gia TTCK Việt Nam còn hạn chế. Số người có trình độ
chuyên môn tài chính, chứng khoán chỉ chiếm một lượng nhỏ trong tổng số những người
tham gia thị trường. Trong khi đó, một lượng lớn những người tham gia thị trường thiếu
hiểu biết về chứng khoán, tài chính, họ tham gia vào TTCK như một “trào lưu thời
thượng”. Những nhà đầu tư trên thị trường là ai? Đó có thể là những bà nội trợ, anh công
nhân, anh kỹ sư,… những người có tiền và xem “chơi chứng khoán” là mốt. Có những
thời điểm, đặc biệt trong giai đoạn thị trường tăng nóng như giai đoạn 2006-2007, đến
đâu chúng ta cũng nghe mọi người bàn về chứng khoán. Vì sự thiếu hiểu biết mà những
nhà đầu tư này dễ bị cuốn theo đám đông, dễ bị ảnh hưởng bởi các tin đồn, các thông tin
bên lề.
Biên độ giao dịch, chính sách cấm bán khống
Biên độ giao dịch và chính sách cấm bán khống là những chính sách góp phần tạo ra
môi trường thuận lợi cho tâm lý bầy đàn. Việc thiếu vắng những chính sách này khiến
TTCK chậm điều chỉnh về mức giá hợp lý, là nguyên nhân chính làm nảy sinh tình trạng

chứng khoán có một chuỗi dài tăng (giảm) điểm kịch trần (sàn). Sự kéo dài chuỗi tăng
(giảm) điểm kịch trần (sàn) này thu hút một sự chú ý của đám đông thị trường, và khả
10
 

 


năng sự tăng (giảm) điểm sau một thời gian là do “quán tính” bất hợp lý mà đám đông
gây ra, mà không phải là quá trình điều chỉnh giá hợp lý. Từ những vấn đề vừa đề cập ở
trên, có thể thấy TTCK Việt Nam có những điều kiện để hành vi bầy đàn phát triển.
Trong phần tiếp theo, đề tài sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu định lượng kiểm định
mức độ hành vi bầy đàn trên thị trường.
4. Một vài nghiên cứu thực nghiệm về hành vi bầy đàn trên thị trường chứng
khoán thế giới và Việt Nam.
4.1. Bài nghiên cứu “Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam và
khuyến nghị chính sách” (Nguyễn Đức Hiển, Trần Thị Lan Hương – Báo Nghiên cứu
Kinh tế số 426 tháng 11/2013)
Bài viết sử dụng mô hình CCK – mô hình phát triển bởi Chang, Cheng và Khorana
(1999) để kiểm nghiệm hành vi bầy đàn trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh của thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ các bằng chứng về sự xuất hiện lệch lạc
tâm lý do hành vi đầu tư theo bầy đàn, bài viết đề xuất các giải pháp và kiến nghị góp
phần phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
Một số kết quả nghiên cứu được đưa ra trong bài:
-

Theo nghiên cứu thì hành vi bầy đàn là khác nhau trong trường hợp thị trường

tăng điểm và giảm điểm. Hay cụ thể hơn, các nhà đầu tư theo tâm lý đám đông rõ rệt hơn
khi thị trường có xu hướng giảm điểm

-

Trong giai đoạn thị trường tăng trưởng 2004 – 2006 và trong giai đoạn thị trường

tăng trưởng đột biến 2006 – 2007: Hành vi bầy đàn khá mạnh
-

Trong giai đoạn thị trường lao dốc 2007 – 2009 và trong giai đoạn từ 2009 –

2011: Hành vi bầy đàn của nhà đầu tư xuất hiện không rõ nét lắm và không mạnh, nhà
đầu tư có vẻ thận trọng khi xem xét quyết định rút khỏi thị trường
-

Hành vi bầy đàn xuất hiện với cả hai nhóm cổ phiếu có mức vốn hóa lớn và cổ

phiếu có mức vốn hóa nhỏ. Hành vi bầy đàn của nhà đầu tư có vẻ không phụ thuộc nhiều
11
 

 


vào mức vốn hóa của thị trường. Hay nói cách khác, hành vi bầy đàn có thể xuất hiện trên
bất kỳ cổ phiếu nào.
Tâm lý bầy đàn nhìn chung tạo ra hệ lụy xấu cho nhà đầu tư vì họ luôn phụ thuộc vào
các quyết định đầu tư của người khác, bỏ qua các nhận định và phân tích của cá nhân.
Điều này dần theo thời gian làm họ bị mất đi lý trí cũng như khả năng nhanh nhạy phản
ứng trước những thay đổi của thị trường. Trong điều kiện của thị trường chứng khoán
Việt Nam, hệ lụy này càng nguy hiểm hơn khi có sự dẫn dắt, làm giá của các nhà đầu tư
lớn, có ý định lũng đoạn thị trường.

Một số đề xuất được đưa ra trong bài
1) Tái cấu trúc Sở Giao dịch chứng khoán
Để phát triển bền vững Thị trường Chứng khoán, không nên tạo môi trường cho các
lệch lạc về hành vi của nhà đầu tư bằng cách tách biệt giữa 2 Sở Giao dịch chứng khoán
như Việt Nam hiện nay. Việc sáp nhập 2 Sở Giao dịch chứng khoán là phù hợp với xu
hướng chung đang diễn ra tại nhiều quốc gia để tiết kiệm chi phí, nâng cao sức mạnh
cạnh tranh và hiệu quả của thị trường.
2) Hình thành thị trường chứng khoán phái sinh
Để hạn chết tâm lý bầy đàn, ngoài việc minh bạch hóa thông tin và kiểm soát thông tin,
cần cải thiện cơ chế hoạt động của giá cổ phiếu thông qua việc tăng cường sự liên thông
và điều tiết từ Thị trường Chứng khoán với các thị trường khác.
3) Phát triển các định chế đầu tư
Để đảm bảo phát triển bền vững Thị trường Chứng khoán Việt Nam, cần tập trung
phát triển các nhà đầu tư có tổ chức trong nước, vì các nhà đầu tư có tổ chức có kinh

12
 

 


nghiệm và chiến lược đầu tư cũng như triết lý đầu tư rõ ràng sẽ giúp cho thị trường ổn
định, hạn chế các cú sốc.
4) Thành lập cơ quan bảo vệ nhà đầu tư cá nhân và tăng cường tính minh bạch của
Thị trường Chứng Khoán Việt Nam
Để bảo vệ các nhà đầu tư cá nhân, cần tăng tính minh bạch của Thị trường Chứng
Khoán Việt Nam
5) Hạn chế cơ chế thúc đẩy hành vi bầy đàn và các lệch lạc do kinh nghiệm (heuristic
bias)
Về dài hạn, để đảm bảo phát triển bền vững Thị trường Chứng khoán Việt Nam, cần

hạn chế tạo ra môi trường cho hành vi định giá không hợp lý xuất hiện và phát triển, từ
đó hạn chế và triệt tiêu cơ chế thúc đẩy hành vi bầy đàn và các lệch lạc do kinh nghiệm.
4.2. Bài nghiên cứu “Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam –
Nguyên nhân và một số giải pháp” (Thạc sĩ Trần Thị Hải Lý – Báo phát triển và hội
nhập số 5 tháng 6/2010)
Bài viết sử dụng độ phân tán của tỷ suất sinh lợi để kiểm định hành vi bầy đàn trên thị
trường Việt Nam trong thời gian qua, bài viết cũng phân tích các nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến hành vi bầy đàn trên thị trường, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để hạn
chế hành vi này, giúp thị trường phát triển ổn định và hiệu quả hơn.
Phương pháp tiếp cận: Dựa trên độ phân tán tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán so
với tỷ suất sinh lợi thị trường của Chang, Cheng và Khorana (2000)
Một số kết quả nghiên cứu được đưa ra trong bài:

13
 

 


-

Tác giả cho rằng hành vi bầy đàn tồn tại rất mạnh trên thị trường Việt Nam và

hành vi bầy đàn trong trường hợp thị trường tăng cao hơn trường hợp thị trường giảm,
như vậy khi thị trường tăng càng mạnh, rủi ro phi hệ thống của các cổ phiếu gần như
chuyển thành rủi ro thị trường và chi phối rủi ro tổng thể. Trong những tình huống như
vậy, chiến lược đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro ít có tác dụng và rủi ro hệ thống của thị
trường là rất lớn.
Nguyên nhân tồn tại hành vi bầy đàn mạnh trên thị trường Việt Nam
-


Chất lượng thông tin và minh bạch thông tin còn nhiều bất cập:



Bất cập về khả năng so sánh của thông tin trên báo cáo tài chính và tính đơn điệu

của thông tin trên báo cáo thường niên.


Doanh nghiệp niêm yết bóp méo báo cáo tài chính



Nhiều doanh nghiệp vi phạm quy định công bố thông tin về huy động vốn, chào

bán chứng khoán ra công chúng.


Vi phạm quy định giao dịch, thao túng giá, giao dịch nội gián, và tung tin đồn sai

sự thật.


Ý thức của công ty niêm yết trong vấn đề minh bạch thông tin còn thấp, doanh

nghiệp chưa hiểu hết lợi ích và tầm quan trọng của việc minh bạch thông tin đối với sự ổn
định và phát triển của doanh nghiệp nên nhiều trường hợp công bố mang tính chiếu lệ, sơ
sài, nhiều doanh nghiệp công bố báo cáo tài chính định kỳ chậm trễ so với thời gian quy
định.

-

Khả năng phân tích thông tin của nhà đầu tư Việt Nam còn hạn chế.

-

Không được phép bán khống và chu kỳ giao dịch T+3

-

Hàng hóa trên thị trường còn hạn chế

Một số giải pháp được đưa ra trong bài:
1) Tăng chất lượng thông tin và minh bạch thông tin.
14
 

 


2) Tăng thêm nội dung thông tin trên báo cáo thường niên, chẳng hạn như yêu cầu
báo cáo thường niên phải có phần phân tích của ban quản lý công ty về tình hình kinh
doanh, tỷ trọng doanh thu và thu nhập từ hoạt động chính, rủi ro mà công ty sẽ phải đối
mặt trong hoạt động, chính sách quản trị rủi ro, mục tiêu tăng trưởng, báo cáo chi tiết về
thay đổi vốn cổ phần… để giúp nhà đầu tư có nhiều thông tin và hiểu rõ hơn về doanh
nghiệp trong việc ra quyết định.
3) Nâng cao ý thức của doanh nghiệp đối với chất lượng thông tin và minh bạch
thông tin.
4) Chuẩn hóa việc minh bạch thông tin để đảm bảo các nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận
thông tin như nhau.

5) Cần xem xét và bãi bỏ quy định mỗi nhà đầu tư chỉ có một tài khoản giao dịch mà
hiện tại đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế và tạo sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư, tạo
cơ hội cho những kẻ bất chính lợi dụng kẽ hở để làm giá
6) Nâng cấp cơ sở hạ tầng để chuyển đổi từ hệ thống lưu ký hai cấp sang hệ thống
lưu ký một cấp, từ đó các cơ quan chức năng có thể quản lý trực tiếp đến tài khoản của
từng nhà đầu tư chứ không phải chỉ quản lý tài khoản tổng hợp của thành viên lưu ký như
hiện nay, điều này sẽ giúp phát hiện sớm những giao dịch đáng ngờ.
7) Tăng tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư cá nhân và khuyến khích phát triển
các nhà đầu tư tổ chức
8) Tăng lượng chứng khoán tự do giao dịch và đa dạng hơn các loại hàng hóa.
9) Xây dựng lộ trình rút ngắn chu kỳ giao dịch T+3 hiện nay.
III. Thực trạng , ảnh hưởng của hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán.
1. Ưu điểm và nhược điểm của hành vi bầy đàn.
1.1. Ưu điểm.
Hành vi bầy đàn (HVBĐ) kích động “lòng tham” của giới đầu tư bằng việc tạo ra các
mối lợi ích về trung hạn hay dài hạn là sự tích lũy vốn bắt đáy của các nhà đầu tư dài hạn,
15
 

 


giới đầu cơ và các quỹ đầu tư đối xung (Hedge Fund). Giới đầu tư tài chính này phải chịu
rủi ro rất lớn khi đoán sai nhưng lại lời lãi rất cao nếu đoán đúng, họ sẽ là tác nhân đẩy
giá cổ phiếu tăng vọt. Đầu tư theo hình thức quỹ Hedge Fund này là đầu tư theo kiểu
đóng chốt theo hai cửa trái ngược (nên mới gọi là đối xung) để nếu có nhóm cổ phiếu sụt
giá thì sẽ giúp họ bớt rủi ro, hoặc nếu hai cửa đều tăng giá thì họ kiếm lời rất lớn. Một khi
họ rót vốn là rất lớn nên sẽ đẩy sự phấn khích khiến giá cổ phiếu tăng vọt lên đỉnh mới.
Hành vi bầy đàn mang lại những bài học kinh nghiệm có giá trị cho các nhà đầu tư khi
nhìn vào các chỉ số thị trường, các xu hướng dài hạn để từ đó xem xét, dự báo dấu hiệu

thay đổi xu hướng của các chỉ số và tốc độ tăng trưởng cổ phiếu.
1.2. Nhược điểm.
Hành vi bầy đàn là không hợp lý trong một xu hướng thị trường nào đó kéo dài liên
tục có thể làm giá chứng khoán đi quá xa giá trị cơ bản của chúng, gây nên sự bất ổn giá.
Một bộ phận lớn các nhà đầu tư tham gia vào thị trường với năng lực và trình độ hiểu
biết còn hạn chế, bỏ qua các yếu tố cơ bản của cổ phiếu để chạy theo triển vọng lợi nhuận
trước mắt có thể dễ dẫn đến thất bại.
Hành vi bầy đàn gây nhiễu loạn thông tin cho các nhà đầu tư, kể cả các thông tin
không chính xác do các lý do kinh tế như: tỷ giá biến động, bất động sản đóng băng, nợ
xấu ngân hàng, lạm phát tăng trở lại,… có thể dẫn đến thanh khoản đang tăng đột biến rồi
co cụm lại, vì nhà đầu tư kéo tiền ra, làm thị trường chứng khoản dễ tan rã nhanh chóng.
Một thị trường chứng khoán chưa đủ sâu rộng về vốn hóa sẽ khiến cho việc bán tháo
hay thoái vốn của các quỹ đầu tư lớn do tâm lý bầy đàn sẽ trở khó khăn, không khả
thi. Do nếu nhà đầu tư bán tháo hay thoái vốn quá nhanh thì họ sẽ không tìm được người
mua. Nếu họ liều lĩnh bán tháo trực tiếp trên sàn giao dịch với quy mô lớn thì sẽ làm giá
cổ phiếu của họ đang nắm giữ sụt giảm mà vẫn không có lực hấp thụ và bị lỗ nặng.
16
 

 


2. Thực trạng, ảnh hưởng của Hành vi bầy đàn trên Thị trường chứng khoán.
2.1. Thực trạng, ảnh hưởng của Hành vi bầy đàn trên Thị trường chứng khoán
thế giới.
Bong bóng đầu cơ hoa Tulip (Hà Lan) (1634 – 1637)
Nửa đầu thế kỷ 17, thương nhân Hà Lan đã du nhập hoa tulip từ Thổ Nhĩ Kỳ vào
khoảng năm 1593. Loại hoa này đã nhanh chóng được người Hà Lan ưa chuộng và giá
bán ngày càng cao. Thế là cả một phong trào kinh doanh hoa tulip bắt đầu bùng lên, được
mọi tầng lớp trong xã hội tham gia. Nhiều đại gia bắt đầu tung tiền thu mua củ tulip để

chuẩn bị cho những mùa thu hoạch sắp tới, tạo nên một sự khan hiếm. Mức cung quá ít
làm cho giá hoa tulip vốn đã đắt lại càng tăng một cách chóng mặt.Trước triển vọng lợi
nhuận cực cao, nhiều người Hà Lan lúc bấy giờ đã bỏ toàn bộ vốn liếng, cơ ngơi tài sản
vào việc kinh doanh và đầu cơ hoa tulip mà không mảy may nghĩ rằng giá trị thực của
một bông hoa không thể nào bằng giá được bán ra vào lúc đó.
Nhiều người Hà Lan lúc bấy giờ đã sáng tạo ra hình thức hứa bán - mua trước, rồi giao
- nhận hàng sau. Dân đầu cơ đã lợi dụng hình thức này để kiếm lời. Vào năm 1636, hoa
tulip được giao dịch trên thị trường tiền tệ của rất nhiều thị trấn tại Hà Lan. Thế nhưng,
lượng củ tulip trong thực tế có hạn và chẳng mấy chốc, lượng hàng hứa bán trở thành quá
cao, trong lúc giá bị đẩy lên đến mức không còn người mua nữa. Tháng 2/1637, thị
trường này bị sụp đổ, giá tulip hạ một cách thê thảm, Bong bóng đầu cơ đã bị vỡ.
Bong bóng South Sea Company (Anh) (1711-1720)
Đế quốc Anh những năm 1700 thịnh vượng và giàu có, thế lực có tầm thế giới. Cơ hội
mua cổ phiếu ở mảnh đất màu mỡ là các công ty đầu tư thu hút vốn không phải ai cũng
có. South Sea thời kỳ đó được coi là đơn vị độc quyền có khả năng nhất thế giới về kiếm
lợi kếch xù. Cổ phiếu của công ty này phát hành bao nhiêu cũng không thỏa mãn “cơn
khát” của công chúng mù quáng tin tưởng vào tiềm lực phát triển của nó trong một thời
17
 

 


gian quá dài. Tới khi chính những lãnh đạo công ty cũng nhận ra sự yếu kém và giá trị
không thực cổ phiếu của họ và bán ra thì cơn cuồng loạn bán tống bán tháo xuất hiện. Cổ
phiếu South Sea trở thành vô giá trị.
Hậu quả là một sự sụp đổ toàn diện. Các ngân hàng hoàn toàn bất lực. Tuy vậy, nhờ
tiềm lực kinh tế quá mạnh của Vương quốc Anh, hoạt động ngân hàng đã được vớt vát và
sau cùng ổn định được nhờ sự giúp đỡ của Chính phủ. Anh đã nghiêm cấm việc phát
hành cổ phiếu. Tới năm 1825, điều luật này mới được bãi bỏ.

Bong bóng Công ty Mississippi (Pháp) (1720)
Cổ phiếu của Công ty Mississippi – loại cổ phiếu có mức tăng trường giả tạo nhất vào
thời gian vua Louis XV kế vị đã nhảy vọt từ mức giá ban đầu là 500 livrơ trong tháng 11719 lên đến 200.000 livrơ vào cuối năm 1720. Những nhà đầu tư đầu tiên gia nhập công
ty ăn nên làm ra, còn những người Pháp bình thường khác thì bắt đầu bỏ việc để trở thành
các nhà giao dịch ngay trong ngày. Những ảo giác khác thường và sự ngu xuẩn của đám
đông bị ảnh hưởng đến mức tại những sàn giao dịch chứng khoán trên đường phố Paris,
một gã gù có thể sống thoải mái nhờ cho thuê tấm lưng to lớn của mình làm bàn viết di
động cho những nhà giao dịch chứng khoán trong cơn mê loạn. Cũng trong năm đó,
những tờ tiền livrơ đang ồ ạt tuôn ra như thác làm cho giá cả của hầu hết các mặt hàng ở
Pháp tăng vọt, người tiêu dùng Pháp bắt đầu tích trữ tiền vàng và bạc và tiêu xài tiền giấy
ngay khi nhận được.
Từ tháng 1-1720, giá cả tính theo tiền giấy livrơ bắt đầu tăng với tốc độ 23%/tháng.
Trong tháng này, hai vị hoàng tử quyết định bán cổ phần của mình trong Công ty
Mississippi để lấy tiền mặt và những nhà đầu tư khác cũng bắt chước theo, khiến cho giá
cổ phiếu của công ty giảm mạnh. Thị trường trở nên hết sức hoảng loạn, cổ phiếu của
Mississippi và giá trị của tiền giấy livrơ tụt xuống rất thấp. Cuối năm 1721, cổ phiếu trở
về với mức giá ban đầu của nó là 500 livrơ, nền kinh tế Pháp rơi vào tình trạng hỗn độn.
18
 

 


Bong bóng bất động sản Florida (Mĩ) (1920-1929)
Việc đầu cơ bất động sản ở Florida những năm 1920 làm nền kinh tế Mỹ rơi vào tình
trạng bong bóng với việc các nhà đầu tư mua bất động sản với giá trời ơi để đầu cơ sinh
lời, hy vọng rằng giá cả thị trường tiếp tục tăng. Các ngân hàng hà hơi tiếp sức cho những
hành động đầu cơ bằng việc cho vay dễ dàng. Thị trường chứng khoán ngày càng phồng
lên, cho tới khi “vỡ tung” vào cuối năm 1929, đưa kinh tế Mỹ vào cuộc suy thoái tồi tệ
nhất trong lịch sử.

2.2. Thực trạng, ảnh hưởng của Hành vi bầy đàn trên Thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã ra đời và vận hành được 15 năm, chỉ số
VN- Index biến động không ngừng thể hiện những giai đoạn hưng thịnh và suy thoái của
TTCK. Những biến động của TTCK Việt Nam thời gian qua là một minh chứng rất quan
trọng cho sự cần thiết của việc nghiên cứu của hành vi của các nhà đầu tư chứng khoán.
Một thị trường được xem là vận hành hiệu quả khi giá các chứng khoán phản ánh
những thông tin kinh tế và thông tin doanh nghiệp. Nếu như không có thông tin mới nào
được đưa ra thì những thay đổi của giá chứng khoản sẽ khá nhỏ, hay nói cách khách thị
trường ít xảy ra những trường hợp tăng hoặc giảm mạnh. Thế nhưng, ở thị trường VN thì
hoàn toàn khác. Những dấu hiệu thị trường “bong bóng” hoặc sụt giảm giá quá mức trong
những năm qua cho thấy rằng, các nhà đầu tư không phải luôn luôn hành động một cách
sáng suốt và khôn ngoan như mong đợi. Thay vào đó, hành động của họ được dẫn dắt bởi
cảm xúc cũng như tâm lý đám đông của các nhà đầu tư khác.
Về mặt định tính, quan sát thị trường VN thấy có những phiên giao dịch chỉ số VNIndex tăng mạnh mặc dù không có một thông tin tốt nào về nền kinh tế cũng như tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp được công bố, và cũng có nhiều phiên VN-Index giảm
mạnh dù không có một thông tin xấu nào được đưa ra.
19
 

 


Hành vi bầy đàn tồn tại rất mạnh trên thị trường VN và hành vi bầy đàn trong trường
hợp thị trường giảm, như vậy khi thị trường tăng càng mạnh, rủi ro phi hệ thống của các
cổ phiếu gần như chuyển thành rủi ro thị trường và chi phối rủi ro tổng thể. Trong những
tình huống như vậy, các chiến lược đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro ít có tác dụng và rủi
ro hệ thống của thị trường là rất lớn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên TTCK Thượng Hải với

mức tăng 130%. Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% – cao nhất trên thế giới. Thị
trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia
chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường. Kéo theo đó sự lo sợ nguy cơ hình
thành bong bóng trên TTCK đã là đề tài gây tranh cãi trên thị trường. Điều đáng nói ở
đây, sự phát triển quá nóng của TTCK không chỉ làm tốn giấy mực của báo chí trong
nước mà còn thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các báo giới nước ngoài. Thời gian trước
và sau Tết, không ngày nào mà hai từ Việt Nam không xuất hiện trên mặt báo cùng với
tin tức về TTCK. Phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam (AMCHAM) đăng tải trên website
của họ bài viết “thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa thiếu cơ sở”. Thời báo Tài
Chính Anh (Financial Times) dẫn lời các nhà quản lý tài chính nước ngoài cảnh báo thị
trường chứng khoán TP.HCM đang rơi vào tình trạng quá nóng và vượt quá giá trị thật.
Thậm chí tuần báo Wall Street Joural – tuần báo có uy tín vào hạng bậc nhất trên thế giới
cũng có bài bình luận về Thị trường chứng khoán Việt Nam với tựa “Saigon Miss”. Đáng
chú ý là IMF cũng đã gửi bản khuyến cáo đến chính phủ VN về sự bùng nổ của TTCK.
Trong tình hình như vậy, nhà đầu tư trong nước đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà
đầu tư nước ngoài đổ lỗi cho sự “điên cuồng” của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên, quy
chung lại phần lớn đồng tình cho rằng nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn,
đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước- thiếu kiến thức cũng như không có
kỳ vọng riêng. Và chơi chứng khoán trong thời gian vừa qua đã được báo chí nói tới như
một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào, trên khắp
20
 

 


cả nước. Tờ báo này ví von: “người người chơi chứng khoán, nhà nhà chơi chứng khoán”,
tờ báo khác thì nói: “ăn chứng khoán, ngủ cũng chứng khoán”…
Chứng khoán ”nóng” tới mức hệ thống máy chủ của thị trường chứng khoán bị “treo”,
kéo theo sàn chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng

phiên giao dịch sáng 2/2/2007.
Cũng giống như nhìn thấy sự kiếm tiền quá dễ dàng trên TTCK Việt Nam, từ những
“đại gia” chứng khoán thì lời hàng chục tỷ đồng, thậm chí bà nội trợ, anh nhân viên phải
gom góp, vay mượn vài chục triệu đồng làm vốn nay đã có bạc trăm triệu, thậm chí bạc
tỷ đã thôi thúc người ta lao vào chơi chứng khoán. Chứng khoán vượt quá giá trị thật
nhưng họ vẫn mua. Họ chấp nhận mua với giá cao vì tin chắc rằng trên thị trường sẽ còn
có người chấp nhận mua lại nó với giá cao hơn nữa. Họ vẫn kiếm lợi được. Lòng tham
của con người khiến họ hành động. Còn nhìn thấy cơ hội kiếm lợi, họ còn nhảy vào.
Bình thường, một nhóm các nhà đầu tư cá nhân có thể rất bình tĩnh và sáng suốt, nhưng
cũng có lúc họ bị áp đảo bởi những cảm xúc tiêu cực khi các nhà đầu tư khác hành động
theo một cách thức phổ biến nào đó. Hiểu một cách đơn giản nhất thì chính sự sợ hãi bị
“bỏ rơi” hay thất bại khi bạn bè, người thân, hàng xóm của họ có thể kiếm tiền một cách
nhanh chóng, đã đưa đến sức mạnh áp đảo của đám đông.
Khuynh hướng (bản năng) bầy đàn giải thích tại sao con người lại thích bắt chước
người khác. Khi thị trường lên hoặc xuống, nhà đầu tư sợ rằng người khác sẽ có nhiều
thông tin hơn. Và hệ quả của điều này, nhà đầu tư cảm thấy có sự thôi thúc ghê gớm đối
với việc làm theo những gì người khác đang làm.
Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra nghiên cứu cho thấy hành vi đám đông thường có
khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt, có khả năng tiên đoán thị trường.
Trong trường hợp của TTCK Việt Nam, “sứ mệnh” đó nhiều lúc được giao cho nhà đầu
tư nước ngoài.
21
 

 


Ông Nguyễn Đức Kiên trở nên quen thuộc với dư luận Việt Nam kể từ cuối năm 2011
với những phát ngôn gây “sốc” và hành động “độc” trong làng bóng đá Việt với tên gọi
“bầu Kiên”. Có nhiều thông tin về việc ông là một doanh nhân tham gia việc thành lập và

giữ cổ phiếu ở nhiều ngân hàng lớn, tuy nhiên theo thống kê mới nhất, ông chỉ giữ tỷ lệ
cổ phần không lớn ở các ngân hàng và không nắm trong tay bất kỳ vị trí lãnh đạo nào.
Thế nhưng, khi có thông tin ông bị bắt, làng bóng đá chưa có động tĩnh gì thì thị trường
chứng khoán, tiền tệ, vàng,… lại chịu tác động lớn, trong đó nguyên nhân đến từ chính
các nhà đầu tư. Họ đua nhau bán cổ phiếu theo tâm lý đám đông, đẩy thị trường chứng
khoán trong 3 ngày lao dốc tới hơn 10%. Theo các chuyên gia kinh tế, do tâm lý chưa
vững và thiếu thông tin, nên phần thiệt hại trên thị trường chủ yếu rơi vào các nhà đầu tư
nhỏ lẻ. Vài ngày qua, trong lúc nhiều người vội vàng đi rút tiền, mua vàng, bán chứng
khoán… thì nhiều nhà đầu tư nước ngoài và một số “cá mập” vẫn bình tĩnh “gom hàng”
trên TTCK.
IV. Đề xuất giải pháp hạn chế hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán.
1. Tăng cường tính minh bạch của Thị trường Chứng Khoán Việt Nam.
Khi Thị trường chứng khoán đảm bảo được tính minh bạch sẽ giúp bảo vệ các nhà đầu
tư trong hoạt động chứng khoán. Từ đó, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn và hoạt động hiệu
quả hơn.
Để tăng tính minh bạch cho thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp cũng đóng
một vai trò vô cùng quan trọng. Họ cần phải có ý thức đối với chất lượng thông tin và
tính minh bạch của thông tin khi công bố ra thị trường như báo cáo tài chính doanh
nghiệp, …
Các cơ quan chức năng ( như Sở giao dịch chứng khoán hoặc Ủy ban chứng khoán
Nhà nước) cần phải có các hoạt động kiểm soát và kiểm tra thường xuyên các thông tin
của các doanh nghiệp. Đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời và có tính minh bạch cao.
Bên cạnh đó, cần thành lập một Cơ quan bảo vệ nhà đầu tư thuộc Sở giao dịch chứng
khoán để bào vệ các quyền và lợi ích cho các nhà đầu tư. Cơ quan này có trách nhiệm
22
 

 



kiểm định thông tin của các tổ chức niêm yết, thông tin trong các bản tin của công ty
chứng khoán và thông tin trên các diễn đàn quan trọng khác để phát hiện sớm và chấn
chỉnh sai lệch về thông tin, từ đó đưa ra các giải quyết kịp thời và hiệu quả. Cơ quan này
cũng chịu trách nhiệm về việc cung cấp công khai các thông tin về tình hình kinh tế vĩ
mô và các thông tin quan trọng liên quan đến thị trường chứng khoán để các nhà đầu tư
có thể nắm bắt nhanh và tốt nhất.
2. Tăng tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư cá nhân và khuyến khích phát
triển các nhà đầu tư tổ chức.
Với kinh nghiệm không nhiều của các nhà đầu tư Việt Nam nên khả năng đánh giá và
phân tích thông tin của họ còn hạn chế. Do đó, để đảm bảo Thị trường chứng khoán Việt
Nam phát triển bền vững, cần tập trung hướng dẫn và phát triển kinh nghiệm cho các nhà
đầu tư, đưa ra kế hoạch cho chiến lược đầu tư cũng như triết lý đầu tư cụ thể, đầy đủ, đi
sâu vào chuyên môn cho các nhà đầu tư chứng khoán tại Việt Nam.
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy rằng một thị trường ổn định và phát
triển không thể thiếu các nhà đầu tư tổ chức với quy trình định giá chuyên nghiệp và kỷ
luật đầu tư hiệu quả, các nhà đầu tư tổ chức sẽ góp phần làm cho thị trường hoạt động
hiệu quả hơn.
3. Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm trên Thị trường chứng khoán.
Hiện nay, các hành vi giao dịch nội gián, thông tin sai sự thật và đầu cơ làm giá hay
các hành vi vi phạm trên thị trường chứng khoán ngày càng nhiều và tinh vi hơn. Một
trong các nguyên nhân là do các chế tài xử lý vi phạm còn hạn chế và chưa răn đe được
những hành vi đó, do đó Ủy ban chứng khoán cần phải sửa đổi các quy định về xử phạt vi
phạm trong chứng khoán, ví dụ như thay đổi mức vi phạm theo hướng tăng mạnh xử phạt
về hành chính.
V. Kết luận.
Thông qua bài tiểu luận chúng ta đã có cái nhìn rõ nét hơn về những nguồn gốc tạo ra
tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán và thực trạng, ảnh hưởng của hành vi bầy đàn
23
 


 


trên thị trường chứng khoán trong các giai đoạn thị trường phát triển mạnh hay tuột dốc
khiến cho Thị trường có những biến động và ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động đầu
tư của các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức.
Đồng thời, bài làm cũng đề xuất một số giái pháp mà nhóm chúng tôi cho rằng nó cần
thiết và mang tính thực tiễn nhất. Đặc biệt, Giải pháp Nâng cao tính minh bạch cho Thị
trường chứng khoán được nhóm chúng tôi đánh giá cao, và nó được coi như kim chỉ nam
cho những giải pháp còn lại.
Qua bài tiểu luận nhóm chúng tôi hi vọng sẽ cung cấp được những thông tin cơ bản
nhất về Tâm lý hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán cho những ai quan tâm đến
vấn đề này.

24
 

 


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bài viết: Tài chính học hành vi, tâm lý bầy đàn và TTCK Việt Nam
/>2. Bài viết: Giải mã tâm lý bầy đàn trên thị trường chứng khoán. Ngày 27/02/2015
/>3. Bài viết: Tâm lý “bầy đàn”: Bài học trị giá hàng tỷ USD. Ngày 27/08/2012.
/>4. ThS. Trần Thị Hải Lý. Bài viết : Hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán việt nam
– nguyên nhân và một số giải pháp. Chuyên mục: “Tài chính và phát triển” – Báo
“PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP” – số 5 tháng 6/2010.
5. TS. Nguyễn Đức Hiển – ThS. Trần Thị Lan Hương . Bài viết: Hành vi bầy đàn trên thị
trường chứng khoán Việt Nam và khuyến nghị chính sách. Chuyên mục: “Tài chính tiền
tệ” – Báo Nghiên cứu Kinh tế - Số 426 tháng 11/2013

6. Bài viết: Tâm lý bầy đàn.
/>%A0n.
7. Bài viết: Một số bong bóng kinh điển khác trong lịch sử kinh tế thế giới. Ngày
05/03/2008.
/>25
 

 


×