Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

nội dung và nghệ thuật tác phẩm việt lam xuân thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.59 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGÔ THỊ DIỂM TRINH
MSSV: 6106441

NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM
VIỆT LAM XUÂN THU

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS. GV. TẠ ĐỨC TÚ

Cần Thơ, năm 2013
0


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
ĐỀ TÀI: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM VIỆT LAM XUÂN THU
A- MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B- NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1. Tác giả


1.2. Tác phẩm
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TÁC PHẨM VIỆT LAM XUÂN THU
2.1. Vạch trần tội ác của Hồ Quý Ly và miêu tả sự suy vong của nhà Trần
2.2. Hình tượng người anh hùng Lam Sơn
2.2.1 Hình tượng Lê Lợi
2.2.2. Hình tượng Nguyễn Trãi
2.2.3. Hình tượng một số anh hùng khác
2.3. Thắng lợi cuộc khởi nghĩa
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VIỆT LAM XUÂN THU
3.1. Nghệ thuật thể hiện nhân vật
3.1.1. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật
3.1.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật qua ngôn ngữ
3.1.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật qua hành động
3.2. Yếu tố kỳ ảo
3.3. Ngôn ngữ kể chuyện, dẫn truyện
C-

KẾT LUẬN

D-

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của lịch sử. Những thành
tựu văn học có được ngày nay hôm là sự kế thừa thành quả lao động của cha ông ta

ngày trước. Thể loại tiểu thuyết trung đại, đặc biệt là tiểu thuyết chương hồi là một bộ
trong những phận quan trọng trong di sản văn học Việt Nam. Tiểu thuyết trung đại
manh nha từ khá sớm nhưng phải đến giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX mới đạt được
đỉnh cao của nó. Nó không chỉ là những ghi chép phản ánh những vấn đề lịch sử
mang tầm cỡ xã hội rộng lớn, mà còn là nơi tác giả gửi gắm những tư tưởng và dụng ý
nghệ thuật.
Tiểu thuyết trung đại đã sớm khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học
Việt Nam. Từ những năm 1969, tiểu thuyết trung đại đã được chọn để giảng dạy trong
nhà trường. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVIII – XIX cũng có khá nhiều tiểu
thuyết ra đời nhưng thực sự có giá trị thì chỉ có một số tác phẩm. Tiêu biểu như :
Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô Thì Nhậm), Hoàng Việt long hưng chí (Ngô Giáp
Dậu), Nam triều công nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm)… Tác phẩm Việt Lam
xuân thu (Lê Hoan) thời gian gần đây cũng được các nhà nghiên cứu đánh giá cao.
Việt Lam xuân thu ra đời cùng với những đóng góp về giá trị nội dung và nghệ thuật,
đã góp phần làm nên giá trị của văn học trung đại nói riêng và thúc đẩy quá trình phát
triển của văn xuôi Việt Nam nói chung. Việt Lam xuân thu xuất hiện trong vai trò là
một đại biểu cuối cùng của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Nó đã đánh dấu phát
triển mới về mặt tiểu thuyết chương hồi, để chuẩn bị cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện
đại.
Tác giả đã rất thành công trong việc đưa các nhân vật lịch sử vào tác phẩm, các
nhân vật ấy trở thành một hình tượng văn học và đặc biệt là sự thành công về nội
dung của tác phẩm. Chỉ trong 60 hồi nhưng tác giả đã truyền tải cho người đọc thấy
được một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc ta, những khó khăn của nhân dân
trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và ca ngợi công đức của người anh hùng Lê Lợi. Lê
Hoan đã dùng hết những hiểu biết và sự sáng tạo của mình để hoàn thành cuốn tiểu
thuyết chương hồi để miêu tả về một chặng đường lịch sử của dân tộc trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Qua đó, tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về tác giả và tác phẩm Việt Lam
xuân thu. Mặt khác, việc nghiên cứu về tác phẩm này còn rất ít, chỉ có một vài người
2



nghiên cứu nhưng chưa thực sự đi sâu vào nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Chính vì thế tôi chọn đề tài “ Nội dung và nghệ thuật tác phẩm Việt Lam xuân thu ”
để tìm hiểu và nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề
Việt Lam xuân thu là tác phẩm được viết vào cuối thế kỉ XIX nhưng không được
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu do một số yếu tố khách quan xung quanh tác giả
Lê Hoan. Nhưng thời gian gần đây, tác phẩm Việt Lam xuân thu được một số nhà
nghiên cứu quan tâm và có một số bài viết về tác phẩm. Tuy những bài viết của các
nhà nghiên cứu chưa thật sự đi sâu vào nghiên cứu về tác phẩm nhưng qua đó cũng
một phần nào khẳng định giá trị của Việt Lam xuân thu. Một số nhà nghiên cứu tác
phẩm Việt Lam xuân thu như:
Trong phần phụ lục tác phẩm Việt Lam xuân thu, Trần Nghĩa có trích bài nghiên
cứu của Chương Thâu với bài viết “Đọc Việt Lam xuân thu bản duy tân nghĩ về người
khắc in, công bố và một vài nhân vật thời đại”. Trong bài nghiên cứu, Chương Thâu
tập trung vào vấn đề người khắc và người in tác phẩm Việt Lam xuân thu và lí giải
một số vấn đề về tác giả Lê Hoan. Từ đó, nhà nghiên cứu đánh giá tác phẩm “Không
đánh giá Việt Lam xuân thu như một tác phẩm sử học, ta chỉ xem nó đơn thuần là một
cuốn tiểu thuyết, “tiểu thuyết lịch sử”. Bút pháp là theo kiểu chương hồi, cách diễn
thuật miêu tả không hợp với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại, nhưng chủ đề, chủ ý của
tác giả thì rõ ràng là rất đáng được trân trọng” [5; tr. 387]. Quan điểm này của tác
giả Chương Thâu góp phần nhấn mạnh, Việt Lam xuân thu là một tác phẩm văn
chương thực sự dù nghệ thuật chưa đạt đến đỉnh cao của tiểu thuyết hiện đại.
Cũng trong phần phụ lục của tác phẩm Việt Lam xuân thu, tác giả Trần Nghĩa có
trích dẫn bài viết của PGS. Tạ Ngọc Liễn với nhan đề “Việt Lam xuân thu qua các
bản dịch”. Với bài viết này tác giả chú ý vấn đề văn bản học trong Việt Lam xuân thu.
Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Tạ Ngọc Liễn đã thẩm định lại ba bản dịch. Qua việc đối
sánh ba bản dịch, Tạ Ngọc Liễn đã đưa ra ý kiến “Theo ý kiến tôi thì Việt Lam xuân
thu vẫn là tác phẩm khuyết danh. Chính Lê Hoan, người đã phát hiện rồi bỏ nhiều

công sức sửa chữa, khắc in cuốn Việt Lam xuân thu cũng không nói ai là tác giả?”
[5; tr. 402].
Trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 58 – 1964, nhà sử học Phan Huy Lê có bài
viết “Tác phẩm Việt Lam xuân thu có giá trị về mặt sử liệu hay không?”. Vấn đề được
3


tác giả đề cập đến là bàn về giá trị sử liệu của tác phẩm Việt Lam xuân thu. Tác giả
nhận định: “Đây là một bộ tiểu thuyết lịch sử về căn bản xây dựng theo sự hư cấu,
theo trí tưởng tượng của tác giả, trong đó những tình tiết lịch sử chỉ được tôn trọng về
mặt chi tiết mà thôi” [2; tr. 34]. Với nhận định trên, nhà sử học cho rằng Việt Lam
xuân thu là một cuốn tiểu thuyết lịch sử có những giá trị về mặt văn học nhưng về mặt
sử học thì tác phẩm không có giá trị, không thể dùng làm căn cứ cho những công trình
nghiên cứu sử học.
Phó giáo sư Nguyễn Đăng Na có bài “Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời
trung đại – quá trình hình thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật” in trong Con
đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội – 2006, đã phân
tích từ con đường hình thành, nội dung, nghệ thuật, đến những mặt tích cực và hạn
chế của tiểu thuyết Việt Lam Xuân thu. Ông nhận định: “Việt Lam tiểu sử lấy bối
cảnh nước ta ba chục năm đầu thế kỷ XV làm nền. Vào thời điểm ấy hàng loạt biến cố
trọng đại của dân tộc diễn ra: “Nhà Trần mất vai trò lãnh đạo và bị nhà Hồ thay thế;
cuộc xâm lược của người Trung Hoa vào quốc gia Đại Việt với quy mô lớn chưa từng
có và mang tính chất khốc liệt. Cuộc chiến tranh toàn gian khổ hy sinh dưới sự lãnh
đạo của người anh hùng Lê Lợi, đã giành thắng lợi vẻ vang, giải phóng nước nhà, lập
triều Lê một triều đại đánh dấu bước ngoặc lịch sử vĩ đại của dân tộc. Ba chục năm
ấy chứa đầy chất sử thi, cuộc đời mỗi nhân vật lịch sử của thời đại là một bản hùng
ca” [4; tr. 543].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã có những bài viết đánh giá về giá trị của tác
phẩm Việt Lam xuân thu. Mỗi người đều có những nhận định riêng và nghiên cứu về
một vấn đề nào đó của tác phẩm. Tuy những bài viết chưa thực sự đi sâu vào nội dung

và nghệ thuật của tác phẩm nhưng những bài viết này đã khẳng định giá trị thực sự
của các phẩm. Thông qua những bài nghiên cứu, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm, biết
thêm về những vấn đề liên quan đến tác phẩm. Những bài nghiên cứu này như nguồn
tài liệu để tham khảo trong quá trình làm luận văn. Với đề tài “Nội dung và nghệ
thuật tác phẩm Việt Lam xuân thu”, chúng tôi cũng muốn góp phần nhỏ công sức của
mình vào những công trình nghiên cứu tác phẩm, để góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề mà mọi người chưa hiểu rõ về các phẩm và cũng qua đó một lần nữa khẳng định
giá trị của tác phẩm Việt Lam xuân thu.
3. Mục đích nghiên cứu
4


Với đề tài “Nội dung và nghệ thuật tác phẩm Việt Lam xuân thu”, chúng tôi tìm
hiểu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử để
tìm ra nội dung và hiểu thêm về những biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong
tác phẩm. Bên cạnh đó, giúp người viết nắm vững thêm về tác giả Lê Hoan, con
người cũng như sự nghiệp của ông. Việc tìm hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm
Việt Lam xuân thu giúp tôi biết thêm về một tiểu thuyết chương hồi giai đoạn văn học
trung đại, giúp tôi cũng cố kiến thức văn học, qua đó nắm bắt được nhiều thông tin,
kiến thức về tác phẩm này. Và qua việc nghiên cứu này phần nào giới thiệu đến người
đọc một tác phẩm có giá trị, mọi người cần trân trọng và giữ gìn. Qua đó, người viết
rèn luyện khả năng nghiên cứu, đánh giá sâu hơn về một tác phẩm văn học cụ thể.

4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Nội dung và nghệ thuật tác phẩm Việt Lam xuân thu”, tôi chỉ khảo
sát gói gọn trong tác phẩm này. Như chúng ta đã biết tác phẩm Việt Lam xuân thu ra
đời cuối thế kỷ XIX, do thất lạc về văn bản và liên quan một số vấn đề về tác giả Lê
Hoan nên tác phẩm không được chú ý nhiều, vì thế tác phẩm có nhiều dị bản. Ngày
nay, vấn đề về văn bản Việt Lam xuân thu cũng hết sức phức tạp và gặp nhiều khó
khăn. Vì vậy, khi nghiên cứu tác phẩm Việt Lam xuân thu, sau khi so sánh đối chiếu

tôi dựa vào quyển Việt Lam xuân thu của Trần Nghĩa dịch và giới thiệu của Nhà xuất
bản Thế giới, Hà Nội năm 1999 để làm tài liệu tham khảo chính và kết hợp một số tư
liệu liên quan đến tác giả, tác phẩm để tham khảo và dẫn chứng trong quá trình làm
luận văn.

5. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi đề tài đều có đặc trưng riêng của nó, với đề tài “Nội dung và nghệ thuật tác
phẩm Việt Lam xuân thu”, tôi sử dụng hai phương pháp cơ bản nhất là ngữ văn học
và văn bản học để nghiên cứu. Phương pháp ngữ văn học với các thao tác phân tích
bình luận, tổng hợp để làm nổi bật các vấn đề liên quan đến tác phẩm. Phương pháp
văn bản học với các thao tác đối chiếu, so sánh giúp tôi phân tích chính xác, khách
quan hơn trong quá trình nghiên cứu để thấy được đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm.

5


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM VIỆT LAM XUÂN THU
1.1. Tác giả
Như chúng ta đã biết, tác phẩm Việt Lam xuân thu từ khi ra đời chưa thật sự
hoàn chỉnh và chưa có một tên gọi chính thức. Ai là tác giả của tác phẩm Việt Lam
xuân thu vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau chưa thật sự thống nhất. Như trong bài viết
Đọc Việt Lam xuân thu (bản duy tân) nghĩ về người khắc in công bố và một vài nhân
vật thời đại của Chương Thâu, được Trần Nghĩa trích dẫn ở cuối tác phẩm. Với bài
viết này, Chương Thâu đã có những nhận xét về tác giả của tác phẩm và đã đưa ra ý
kiến “Chúng ta chưa có điều kiện tra cứu để biết chính xác tác giả của Việt Lam xuân
thu là ai. Theo Trần Văn Giáp trong cuốn Tìm hiểu Kho sách Hán Nôm (tập 2. NXB.
KHXH. 1990) thì đó là Vũ Xuân Mai, Tri huyện Phúc Thọ (Hà Tây)” [5; tr. 394].
Trần Nghĩa có trích dẫn bài viết của PGS. Tạ Ngọc Liễn với nhan đề “Việt Lam

xuân thu qua các bản dịch”. Tạ Ngọc Liễn đã đưa ra ý kiến “Theo ý kiến tôi thì Việt
Lam xuân thu vẫn là tác phẩm khuyết danh. Chính Lê Hoan, người đã phát hiện rồi
bỏ nhiều công sức sửa chữa, khắc in cuốn Việt Lam xuân thu cũng không nói ai là tác
giả?” [5; tr. 402].
Trong lời tựa Việt Lam xuân thu, Lê Hoan đã viết rằng mình không phải là người
khởi thảo, mà là tình cờ tìm được và chỉnh sửa lại “Mới vừa rồi, từ hòm sách về sử
của một gia đình nổi tiếng, tôi tìm được cuốn Việt Lam xuân thu. Mở ra xem, thấy
tường tận bản sắc anh hùng của vua Lê Thái Tổ…. Chỉ đáng tiếc là tác phẩm về mặt
bút pháp, từ khế mạch, giáp cổ, đấu tranh, phục tuyến, cho đến khai thừa, chuyển hợp
đều chưa thật sự tinh xảo, diệu kỳ. Bởi vậy nhân lúc rỗi rãi, tôi đã mạn phép đem
sách ra sửa sang chau chuốt thêm rồi đưa in và công bố, nhằm giúp người đời sau ai
muốn biết Lê Thái Tổ sáng nghiệp gian nan vất vả như thế nào, có thể lật sách này
mà nắm được những nét lớn”[5; tr. 16]. Thông qua lời tựa của Lê Hoan ta biết rằng
ông không phải là người khởi thảo tác phẩm này, ông chỉ có công chỉnh sửa và công
bố tác phẩm.
Trong lời giới thiệu văn bản, Trần Nghĩa cũng đã đồng ý rằng người khởi thảo là
Vũ Xuân Mai, biên tập và đề tựa là Lê Hoan “Người khởi thảo tương truyền là Vũ
Xuân Mai (xem Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, NXB, Khoa học xã hội, Hà Nội,
1990, tr.179). Người biên tập và đề tựa là Lê Hoan”[5; tr. 10].
6


Với một số nhận định của các nhà nghiên cứu, ta có thể thấy việc xác định tác
giả của tác phẩm Việt Lam xuân thu là hết sức khó khăn và cần có thời gian dài để có
thể xác định đúng tác giả của tác phẩm này. Do quá trình làm luận văn, chúng tôi sử
dụng quyển Việt Lam xuân thu của Trần Nghĩa dịch và giới thiệu, với những thông tin
mà chúng tôi tìm hiểu và đọc được từ các nhà nghiên cứu, chúng tôi đồng tình với ý
kiến của Trần Nghĩa là Vũ Xuân Mai khởi thảo và Lê Hoan là người biên tập và đề
tựa.
Về Vũ Xuân Mai, tài liệu có được rất ít, hiện chưa rõ năm sinh năm mất, chỉ biết

quê phường Xuân Yên, Hà Nội, đậu cử nhân năm Phúc Kiến thứ 2 (1884) từng làm tri
huyện Phúc thọ ( Hà Tây).
Lê Hoan (1856- 1915) còn có tên là Lê Tôn, tự là Ưng Chi, hiệu là Mục Đình,
thụy là Vân Nghị, quê ở làng Mọc, xã Nhân Mục, tổng Khương Đình, huyện Thanh
Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay là quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông có người
con trai là Lê Phổ, họa sĩ Pháp gốc Việt nổi tiếng thế kỷ XX. Người con trai thứ mười
của ông là Lê Tuân, năm 1928 tham gia hoạt động của An Nam Cộng sản Đảng.
Thời trẻ Lê Hoan đi lính triều Nguyễn đóng ở Tây Sơn. Khi quân Pháp chiếm
Bắc Kỳ, ông phối hợp với Quân cờ đen đánh Pháp. Sau vì phạm quân lệnh bị khép án
tử hình, nhưng được giảm án.
Năm 1886, dưới triều vua Đồng Khánh thân Pháp, Lê Hoan quy thuận Pháp, nên
được làm thông phán ở Lạng Sơn, rồi Hưng Yên. Sau đó ông thăng tiến rất nhanh.
Năm 1892, dưới triều vua Thành Thái, ông được thăng chức Bố chánh Tây Sơn,
rồi lần lượt trải qua các chức: Tuần phủ Hưng Hòa kiêm Tiểu phủ sứ Tam Nguyên
(gồm các tỉnh Tây Sơn, Hưng Hóa, Tuyên Quang), Tổng đốc Ninh Thuận.
Năm 1896, Lê Hoan bị cắt chức Tổng đốc Bắc Ninh vì để hai người Pháp bị giết
và về tội ăn hối lộ. Người Pháp nghi ngờ ông làm gián điệp khai man, vừa công tác
với Pháp vừa kín đáo ủng hộ các hoạt động chống Pháp, tuy nhiên họ không thể công
khai chuyện này vì ảnh hưởng đến công cuộc cai trị của người Pháp.
Năm 1905, Lê Hoan được lệnh về Huế làm Thượng thư bộ binh kiêm Đô sát
viên Hữu đô ngự sử.
Dưới triều nhà vua yêu nước Duy Tân ông vẫn tiếp tục được trọng dụng. Năm
1909, ông làm tổng đốc Hải Dương, được phong Khâm sai đi tiêu trừ Đề Thám với
400 lính. Cuối năm 1909, ông bị người Pháp kết án với tội thương lượng, lấy lòng Đề
7


Thám. Hội đồng điều tra sau đó kết luận là Lê Hoan vô tội, nhưng thực dân Pháp
không trọng dụng ông nữa .
Năm 1915, Lê Hoan mất ở tuổi 59. Sinh thời ông được triều đình nhà Nguyễn

phong tước Phú Hoàn nam.
Ngoài ra, Lê Hoan đóng góp cho sự nghiệp văn học nước nhà qua việc năm
1905 ông tổ chức cuộc thi thơ Đề Thanh Tâm Tài Nhân và một số tác phẩm được các
nhà nghiên cứu sưu tầm công bố như tiểu thuyết chữ Hán Việt Lam xuân thu (gồm 60
hồi), Lê Lựu Thanh Trì thị thế phả và các văn bút văn bia và câu đối.

1.2. Tác phẩm Việt Lam xuân thu
Việt Lam xuân thu còn gọi là Việt Lam tiểu sử hay Hoàng Việt xuân thu, biên soạn
bằng chữ Hán vào cuối thế kỷ XIX, được sửa sang lại và xuất bản vào năm Duy Tân
Mậu Thân (1908). Người khởi thảo tương truyền là Vũ Xuân Mai, người biên tập và
đề tựa là Lê Hoan.
Về tên gọi của tác phẩm Việt Lam xuân thu hiện nay cũng chưa có sự thống nhất.
Tên gọi đầu tiên của tác phẩm là Việt Lam xuân thu, sau khi Lê Hoan chỉnh sửa và
công bố để phân biệt với chính sử nên đặt tên tác phẩm là Việt Lam tiểu sử. Với tên
gọi Việt Lam xuân thu, đây có thể xem là cách đặt tên chịu ảnh hưởng của văn học
Trung Quốc. Như chúng ta đã biết, giai đoạn văn học trung đại chịu nhiều ảnh hưởng
của văn học Trung Quốc, nên cách đặt tên tác phẩm văn học trong giai đoạn này cũng
chịu sự chi phối. Cách đặt tên tuy cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều nhưng vẫn thể hiện
được tinh thần dân tộc và chủ ý của tác giả. Có thể tác phẩm Việt Lam xuân thu chịu
ảnh hưởng từ cách đặt tên Kinh Xuân thu của Khổng Tử. Kinh Xuân thu là một tác
phẩm ghi lại những biến cố của nước Lỗ, được Khổng Tử ghi chép lại và thể hiện
quan niệm của mình về giai đoạn lúc bấy giờ của Trung Quốc.
“Xuân Thu” (春秋) là từ bắt nguồn từ Kinh Xuân Thu của Khổng Tử, xuất phát
từ câu “Thưởng dĩ xuân hạ, hình dĩ thu đông”. Tác phẩm Kinh Xuân Thu được xếp
vào năm loại kinh của nho gia và thuật ngữ “Xuân Thu” ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều
nhà sử học thế hệ sau này. “Xuân Thu” (春秋) có nghĩa là mùa xuân và mùa thu.
“Xuân Thu” (春秋) còn là một từ hoán dụ thường chỉ tổng thể thời gian trong năm,
thể hiện những biến cố trong một giai đoạn lịch sử.

8



Tác giả sử dụng từ “Xuân Thu” ở cuối tên tác phẩm Việt Lam xuân thu, nhằm
phản ánh một giai đoạn lịch sử của dân tộc ta, có một số nét tương tự với giai đoạn
Xuân Thu Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Tác phẩm đã thể hiện giai đoạn lịch
sử từ năm Khai Hữu triều Trần Hiến Tông đến năm Bính Ngọ, Thuận Thiên năm thứ
nhất. Trong giai đoạn này, đã xảy ra những biến cố trọng đại như: Hồ Quý Ly cướp
ngôi, nhà Trần suy vong, quân Minh xâm lược, anh em Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa,
nhà Hồ sụp đổ, quân Minh thua cuộc, Lê Lợi lên ngôi lập nên nhà Hậu Lê.
Tác phẩm Việt Lam xuân thu là tiểu thuyết lịch sử được tác giả mượn lại nhân
vật, sự kiện từ trong lịch sử rồi hư cấu theo ý đồ sáng tác của mình. Lê Hoan đã biên
tập và đề tựa lại nhằm phân biệt với chính sử và cũng để khẳng định đây là một tác
phẩm văn học chứ không phải là một tác phẩm lịch sử. Nội dung chính của tác phẩm
là viết về sự nghiệp của Đức Lê Thái Tổ gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lãnh
đạo nhân dân ta kháng chiến chống quân Minh xâm lược ở thế kỷ XV. Việt Lam xuân
thu là tiểu thuyết lịch sử được viết theo kết cấu chương hồi gồm 60 chương được chia
làm ba quyển, quyển một gồm có hai mươi mốt hồi, quyển hai có mười chín hồi và
quyển ba có hai mươi hồi. Các hồi được xây dựng theo chuẩn, hầu hết ở mỗi hồi có
hai câu đối ngẫu tóm tắt nội dung và cuối mỗi hồi thường có hai câu thơ thất ngôn
mang tính bình luận của “thời đại” hay của “hậu thế” nhằm đánh giá về con người
hoặc sự việc vừa được kể trước đó. Đi kèm với hai câu thất ngôn là một lời hứa hẹn.
Hầu hết các hồi đều giống nhau chỉ có một số hồi như cuối hồi 23 không có lời hẹn,
cuối hồi 33 sau hai câu thơ thất ngôn và lời hẹn, được chép thêm bài thơ thất ngôn
Cảm hoài của Đặng Dung, riêng hồi thứ 60 không có thơ thất ngôn cũng không có lời
hẹn. Khi đọc tác phẩm ta dễ dàng thấy được ngay mỗi hồi có cụm từ “lại nói” trừ hồi
một. Việc lặp lại cụm từ “lại nói” nhằm sâu chuỗi các sự kiện trên một trục thời gian
giúp người đọc luôn bắt được mạch kể của câu chuyện, đồng thời làm cho trình tự của
các sự kiện được liền mạch tạo nên sự liên kết về mặc nội dung.
Việt Lam xuân thu hiện có 12 dị bản: Năm bản của Thư viện Viên Nghiên cứu
Hán Nôm mang các kí hiệu VHv.1819/1-3 (sách in mang tiêu đề Việt Lam xuân thu,

thiếu 10 hồi cuối), A.13 (viết tay), A.3215 (viết tay mang tiêu đề Hoàng Việt xuân
thu, gồm sơ tập, trung tập và hạ tập), VHv.1683 (viết tay thiếu 32 hồi cuối) và
VHv.2085 (viết tay, thiếu 9 hồi đầu và hồi 60 ở cuối sách). Hai bản của Thư viện
Viện sử học mang kí hiệu HV.84 (sách in đủ cả 3 quyển và 60 hồi) và Hv.141 (viết
9


tay). Một bản của Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu R.451 (viết tay, chỉ có 2 quyển
với các hồi từ 22 đến 40). Một bản của Thư viện Hiệp hội Châu Á Paris, kí hiệu
HM.2184 (viết tay). Một bản của Thư viện Quốc gia Paris kí hiệu A.69/1-2. Một bản
của Bảo tàng Guimet Paris, kí hiệu MG.FV.55732 (sách in) và 1 bản của Đông
Dương khố Nhật Bản (sách in).
Những thông tin về tác phẩm Việt lam xuân thu rất ít, trên đây là một số thông
tin chính về tác phẩm, một phần nào cũng cung cấp cho chúng ta biết về tác phẩm.
Với những thông tin về tác phẩm giúp, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về nội dung mà tác
giả muốn truyền đạt đến người đọc.

10


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TÁC PHẨM VIỆT LAM XUÂN THU
2.1. Vạch trần tội ác của Hồ Quý Ly và miêu tả sự suy vong của nhà Trần
Việt Lam xuân thu là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
với sự lãnh đạo của Lê Lợi. Tác phẩm chủ yếu ca ngợi về sự nghiệp dựng nước của
Lê Thái Tổ. Nhưng bên cạnh đó, tác phẩm còn lên án tội ác của cha con Hồ Quý Ly
và sự suy vong của nhà Trần. Mở đầu tác phẩm tác giả có dẫn hai câu đối ngẫu: “Con
cháu nhà Trần cậy mạnh, mất nước; Cha con họ Hồ ngang ngược chuyên quyền”.
Dưới triều của vua Trần Nhân Tông đất nước phát triển, nhân dân sống yên ổn, thái
bình. Nhưng chính sự phát triển phồn thịnh đó đã làm cho con cháu họ Trần cậy mình
lớn mạnh không lo việc triều chính, ăn chơi sa đọa không lo nghĩ đến cuộc sống của

nhân dân“Truyền qua sáu đời, đến khoảng năm Khai Hựu triều Hiến Tông, nhà vua
cậy vào uy tín của thiên tổ, thừa hưởng một cơ nghiệp lớn lao, không lo sửa sang
triều chính, hoang chơi vô độ, đến nỗi bị người anh là Thúc Minh bức hại để tự lên
ngôi làm vua tức Dụ Tông”. Sự bạc nhược của vua, quan, chính là cơ hội để cho Hồ
Quý Ly thực hiện kế hoạch cướp ngôi. Để thực hiện việc cướp ngôi, Quý Ly tàn bạo
giết lần lượt con cháu họ Trần “Quý Ly ngày đêm bạo ngược, truất ngôi Nhật Hôn,
lập con của Nghệ Tông là Ngung lên ngôi tức Thuận Đế, rồi lại giết Thuận Đế, lập
con của vua Xung Lợi đang tuổi nằm trong tả lên ngôi, sau đó cũng giết luôn”. Sau
khi giết hàng loạt con cháu họ Trần, Quý Ly tự xưng mình là con cháu của Hồ Công
Mãn thuộc dòng dõi của vua Thuấn và đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên, con trai đổi tên
thành Huyễn “Sau một phen làm cỏ người họ Trần, Quý Ly tự xưng là con cháu của
Hồ Công Mãn thuộc dòng dõi vua Thuấn, từ đó sửa lại tên là Hồ Nhất Nguyên. Hán
Thương, con của Quý Ly cũng đổi tên là Huyễn”. Khi đã đổi họ Quý Ly tiến hành
cướp ngôi, lấy tên nước là Đại Việt, đặt niên hiệu là Thiên Thánh. Sau một năm trị vì
ở ngôi vua, Quý Ly truyền ngôi cho con là Hán Thương và đổi niên hiệu là Thiệu
Thành.
Để giữ được ngôi vua bền vững, Hán Thương lật lộng, xảo trá “Năm Tân Tỵ,
Thiệu Hoàng Thành 1, Hán Thương gửi tờ biểu sang Bắc triều nói dối rằng họ Trần
không còn ai nữa, chỉ có người cháu ngoại tên là Huyễn, xin tạm thay thế để trông coi
việc nước”. Được sự chấp nhận của Minh Thành Tổ, Hán Thương ăn mừng cho tập tụ
ăn uống, chè chén suốt canh thâu, xa hoa trong ba ngày liền. Trong khi đó không quan
tâm đến cuộc sống của người dân, bắt họ phải phục dịch “Trẫm nay đã làm vua mà
11


quan dân hưởng ân đức chưa được khắp. Hãy cho họ tập tụ ăn uống vui chơi trong 3
ngày. Chiếu ban xuống, trong triều đình dân dã, đâu đâu cũng tổ chức tiệc tùng linh
đình đàn sáo râm ran, đèn đóm sáng rực, đêm hóa thành ngày…”. “Hán Thương tiếp
tục cho lũ bề tôi tiếp tục vui chơi say sưa cho đến sáng bảnh, chè chén suốt canh thâu,
xa hoa hết chỗ nói trong 3 ngày liền. Nhân Dân phải nai lưng phục dịch mà Hán

Thương thì không hề hay biết”. Sau khi ăn chơi xa đọa “Hán Thương lại ra lệnh cho
viên Nội giám đi sục sạo khắp thiên hạ, hễ có gái đẹp thì bắt cống nạp cho vua, ai
không nghe sẽ bị giết ba họ”. Còn Quý Ly thì du ngoạn khắp chốn, bắt nhân dân phải
phục dịch “Núi Thôi Ngụy là một nơi danh lam cổ tích, điện ngọc cung châu, trẫm
muốn đến để ngắm phong cảnh. Hãy sai trăm họ sửa sang đường sá, chờ trẫm giá
lâm. Nhân dân được lệnh, phải chạy như đèn cù, phục dịch vất vả không nói sao cho
xiết”. Sau khi chiếm được ngôi, cha con Hồ Quý Ly đã bộc lộ bản chất xấu xa,
chuyên quyền bạo ngược của mình.
Vốn dĩ Hồ Quý Ly muốn giết hết tất cả con cháu nhà Trần để trừ mối họa về sau
này. Hồ Quý Ly đã đuổi cùng giết tận, nhưng may thay Trần Thiên Bình trốn thoát
chạy sang nhà Minh để kêu cứu “Sau khi nghe họ Hồ cướp nước, Thiên Bình muốn
dấy nghĩa phục thù, nhưng bị Hán Thương sai biên thần truy nã, bèn bàn cùng viên
Tuyên ủy sứ Lão Qua tên là Điêu Lục giúp mình kêu nài Trung Quốc rủ lòng
thương”. Khi biết được cớ sự, Minh Thành Tổ cho người mang sắc thư hỏi tội cha
con Hồ Quý Ly và buộc Quý Ly phải rước Thiên Bình về nước. Trước tình hình đó,
cha con họ Hồ ngầm thực hiện một ý đồ đen tối, bèn chấp nhận rước Thiên Bình về
nước.
“ Quần thần cúi đầu lạy tạ, nói:
- Thượng hoàng có mưu lược gì để thoát khỏi mối lo?
Quý Ly đáp:
Soạn tờ biểu sai sứ giả mang đi, trước để tạ lỗi, sau mời Thiên Bình về
nước. Như thế chẳng có gì phải lo nữa.
Quần thân chấp tay hỏi:
Thiên Bình về nước, sao lại không lo?
Quý Ly đáp:
Khi đó sẽ thấy, hà tất phải hỏi”.

12



Khi biết Thiên Bình về gần tới biên giới, Quý Ly lập kế để giết Thiên Bình “Tiên
lễ hậu binh, ấy là cách hay nhất. Trước hết, ta hãy cử đại tướng đem quân mai phục
những nơi hiểm yếu. Tiếp đó cho người chuẩn bị rượu thịt thết đãi quân Thiên Bình,
rồi dụ chúng vào rừng giết sạch để trừ mối họa về sau”. Sự phục tùng của Hồ Quý Ly
làm cho mọi người đều tin rằng hắn đã biết tội lỗi của mình gây ra nên không đề
phòng. Chính việc không đề phòng Quý Ly đã tạo cơ hội cho hắn giết Thiên Bình một
cách dễ dàng “Chợt nghe một tiếng súng nổ, phục binh bốn mặt nổi lên, tiếng hò hét
vang động cả rừng núi. Dân Hiến từ bên trái đánh thốc xuống, Bá Nhạc từ bên phải
đánh ập vào. Thiên Bình vừa đi đến đầu cầu, kinh hồn mất vía, bị Dân Hiến đâm cho
một nhát, rơi xuống nước chết”. Sau khi giết Thiên Bình, Hán Thương mở tiệc linh
đình mừng chiến thắng và khen thưởng các tướng lĩnh. Tuy đã giết được Thiên Bình
nhưng Hồ Quý Ly vẫn chưa yên tâm về con cháu họ Trần. Quý Ly đã truyền lệnh
xuống dân hễ thấy con cháu họ Trần phải bắt nộp, nếu không sẽ bị giết cả ba họ
“Trẫm nghe nói người họ Trần như một mối họa tiềm tàng hiện còn lẩn lút trong dân,
các khanh phải bí mật sức cho các nơi hễ thấy con cái nhà Trần thì bắt giải nộp ngay
để lĩnh thưởng. Ai cố tình che giấu, sẽ bị giết cả ba họ”.
Ta có thể thấy được một trong những tội ác của cha con Hồ Quý Ly là tìm diệt
con cháu nhà Trần bằng mọi thủ đoạn. Những tội ác như giết vua cướp ngôi, bạo
ngược chuyên quyền, thâm độc là không thể tha thứ, bọn chúng phải bị trừng trị thích
đáng về những tội lỗi mà chúng đã gây ra. Chính những tội ác của Hồ Quý Ly đã giúp
cho quân nhà Minh có cớ để xâm lược nước ta “Tân Thành Hầu Trương Phụ tâu
rằng: Quý Ly phản phúc, bạo ngược đủ điều, tội ác không gì lớn hơn. Nay nhân dân
trong nước biến loạn, phúc tội họ Trần đã hết, ta nên đưa quân đi bắt cha con họ Hồ
đem về đây, rồi đặt dân nước họ vào chế độ quận huyện, để đứt nối lo cho đất nước”.
“Cứ theo ngụ ý, trước hết ta sai người sang hỏi tội cha con họ Hồ, khiến chúng phải
đón Thiên Bình, trả việc nước lại cho ông ta. Nếu chúng tham quyền cố vị, thì đem
quân đi diệt, lập lại họ Trần cai quản người Giao, mãi mãi là thần thiếp của ta”.
Trong nước thì Hồ Quý Ly bạo ngước chuyên quyền đi khắp nơi lùng sục con
cháu họ Trần, ngoài nước thì giặc Bắc muốn xâm chiếm nước ta. Cuộc giao tranh
giữa hai nước là khó tránh khỏi nhưng tình hình trong nước thực sự chưa ổn định. Từ

đó cho thấy sự suy vong của nhà Trần là không thể tránh khỏi. Nhưng Lê Lợi, Lê
Thiện, một số anh hùng khác đã đứng lên đấu tranh, cùng với sự đoàn kết của nhân
13


dân đã tiêu diệt được cha con Hồ Quý Ly “Ngày Ất Mão, Liễu Thăng dẫn vệ binh
Vĩnh Định gồm Vương, Sài, Hồ v.v. cả thảy 7 người đi tầm nã, biết Quý Ly đang ẩn
trong núi, liền xua quân vào lùng sục, bắt được Quý Ly và con trai là Lý Trừng trói
đưa lên xe”. Tiêu diệt được quân Hồ, Lê Lợi, Lê Thiện và các quan văn trong triều
tôn Giản Định lên làm vua, đặt niên hiệu là Hưng Khánh. Sau khi lên ngôi, với sự phò
trợ của anh em Lê Lợi và các tướng, quân ta giành thắng lại trong nhiều cuộc giao
tranh với quân Bắc. Những thắng lợi bước đầu, làm cho Giản Định đắc ý và nghe theo
lời Nguyễn Cảnh Dị “Vua Trần đắc ý, việc nước bắt đầu buông lơi. Nguyễn Cảnh Dị
khéo đón ý bề trên, tìm mọi cách làm cho vua thỏa mãn, do vậy mà được tin sủng, cất
nhắc làm Tướng quốc”. Với sự trọng dụng của vua Trần, Nguyễn Cảnh Dị ngày càng
ngang ngược, hống hách, chuyên quyền. Vua Trần bù nhìn không thèm lo việc triều
chính, chỉ lo đi du ngoạn đây đó. Lê lợi và Lê Thiện can ngăn nhưng không nghe. Với
mưu đồ muốn đuổi anh em Lê Lợi ra khỏi triều đình, Nguyễn Cảnh Dị tìm cơ hội tâu
vua Trần làm cho vua Trần nổi giận và cắt chức anh em Lê Lợi làm dân thường
“Ngay ngày hôm đó xuống chiếu lột hết chức tước của anh em Lê Lợi cùng phe cánh,
truất làm dân thường, để khỏi mang tiếng là bất trung”. Sau khi truất anh em Lê Lợi,
Giản Định nhường ngôi cho Quý Kháng, còn Giản Định làm Thái thượng hoàng.
Quân Bắc ngày càng mạnh, anh em Lê Lợi thì bị truất khởi triều đình, tình hình lúc
bấy giờ rất căng thẳng. Cuối cùng vua Trần bị bắt “Bấy giờ Thượng hoàng mất hết
quân, sau lưng thì quân Minh đang đuổi theo rất gấp, sinh sợ hãi, vứt cả ngựa chạy
lên núi Cát Lợi. Phụ chia quân bốn bề lùng sục. Thượng hoàng trốn vào hang sâu.
Chu Vinh cuối cùng cũng tìm tới, Thượng hoàng không kịp trở tay, bị Chu Vinh đấm
ba bốn đấm rồi bắt trói”. Với những tính toán sai lầm, không biết trọng dụng người
tài, đó là nguyên nhân dẫn đến kết cuộc thảm hại và chấm dứt sự trị vì của họ Trần
“Phúc vận nhà Trần đến đây là hết”.

Với những chương đầu của tiểu thuyết, đã vạch trần tội ác của cha con Hồ Quý
Ly và kết cuộc thảm hại mà chúng phải gánh chịu bởi những tội ác tài trời chúng gây
ra. Và đã cho thấy sự suy vong của nhà Trần khi bị những thế lực trong nước hãm hại,
ngoài nước có ý xâm lược. Những cuộc đấu tranh diễn ra, làm cho nhân dân lầm than,
đói khổ. Một nguyên nhân dẫn đến sự suy vong của nhà Trần đó là do sự bù nhìn của
vua, không biết cớ sự, chỉ biết ăn chơi nghe theo lời nịnh hót, không biết trọng dụng
người tài. Chính vì thế sự suy vong của họ Trần là không thể tránh khỏi.
14


2.2.

Hình tượng người anh hùng Lam Sơn

2.2.1. Hình tượng anh hùng Lê Lợi
Như chúng ta đã biết, Lê Lợi là một nhật vật có thật trong lịch sử Việt Nam. Lê
Lợi là một người anh hùng kiệt xuất, một vị lãnh đạo tài giỏi và sáng suốt trong các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tên tuổi của ông được lưu truyền trong sử sách và
trong các tác phẩm văn học. Những tác phẩm viết về Lê Lợi cũng khá nhiều như: Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, tiểu thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân,
tiểu thuyết Việt Lam xuân thu,… Mỗi tác phẩm có một cách khắc họa riêng biệt về
hình ảnh của Lê Lợi nhưng có một điểm chung là các tác phẩm đều ca ngợi về con
người, tài năng cũng như trí tuệ của ông. Trong mỗi tác phẩm hình tượng của Lê Lợi
là một tâm điểm trong cho tác phẩm.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tác phẩm Việt Lam xuân thu, Lê
Hoan đã xây dựng Lê Lợi là một người hội tụ đủ cả ba mặt của một vị anh hùng đó là
nhân, trí, dũng. Đó là những yếu tố quan trọng của một người anh hùng để có thể lãnh
đạo nhân dân khởi nghĩa và đặc biệt là trở thành một vị vua anh minh, chính trực, trị
vì đất nước.
Việt Lam xuân thu, đã khắc họa hình tượng Lê Lợi khá đặc sắc trong vai trò là

một vị lãnh đạo tài giỏi. Tác giả không giới thiệu trực tiếp về tài năng của Lê Lợi mà
thông qua một nhân vật trong truyện nói về Lê Lợi, từ đó làm nổi bật lên hình ảnh Lê
Lợi “Đoàn Phát nói: Lê Lợi lúc sinh, nhà có đóa mây hồng che phủ suốt ba ngày liên
tục không tan. Ông tính tình cởi mở, ít nói, có kiến thức, Ngũ kinh, Chư sử xem qua là
nhớ”. Đó còn là một điềm báo rằng sau này Lê Lợi sẽ là một người tài giỏi, sẽ hoàn
thành đại nghiệp một cách vinh quang, lừng lẫy như áng mây hồng lan tỏa. Tài năng
của Lê Lợi được nhiều người biết đến và muốn ông cộng sự với họ.
Lê Lợi là một người khôn khéo trong ứng xử và rất khiêm tốn không kiêu ngạo
về tài năng của mình. Khi quân Bắc có ý mời Lê Lợi về cộng sự, ông đã khéo léo từ
chối “Lê Lợi nói: Thần chỉ là hạng phàm phu bé mọn, do tin đồn thất thiệt mà đến tai
Thánh thượng, khiến thiên sứ phải vất vả tới đây, rồi sẽ làm cho triều đình thất vọng.
Lợi tôi không dám phụng chiếu”. Lời từ chối khéo léo của Lê Lợi, đã làm cho tướng
giặc không thể nào ép buộc ông cộng sự với họ. Biết là lời từ chối của mình sẽ làm
Minh Thành Tổ tức giận nên Lê Lợi đưa gia đình vào rừng, chiêu binh mãi mã “Lê
Lợi nói: rất hợp ý ta! Liền đưa vợ con vào trong rừng trốn”.
15


Là một người tài giỏi, Lê Lợi đứng lên gây dựng cuộc khởi nghĩa từ hai bàn tay
không. Nhờ tài trí của mình, Lê Lợi đã chiêu binh, dần dần tập hợp những người yêu
nước thành một lực lượng lớn để chống giặc ngoại xâm “Hồi nay thiên hạ đang chán
ghét sự tàn bạo của họ Hồ nên chưa đầy ba ngày, đã có 8000 người tới đầu quân.
Người giàu giúp của, người khỏe giúp sức”. Khi đã chiêu binh, tập hợp được lực
lượng, Lê Lợi bàn bạc cùng Lê Thiện chọn nơi an toàn để dựng trại, ngày đêm tập
luyện binh mã chờ thời cơ khởi nghĩa “Lại nói tướng quân Lê Lợi sau khi đem quân
ra Mỹ Lương, đã thiết lập đồn trại, chiêu hiền đãi sĩ…Lợi xây dựng đội ngũ, ngày
luyện võ, tối dạy binh thư”. Muốn cuộc khởi nghĩa thắng lợi trước nhất là phải tập
hợp được lực lượng, có lực lượng không chưa đủ mà còn phải rèn luyện võ nghệ, hiểu
biết về chiến thuật thì mới có thể thắng lợi. Hiểu được vấn đề đó, Lê Lợi luôn cho các
tướng sĩ luyện tập võ nghệ, chờ thời cơ tốt nhất để khởi nghĩa. Với tài điều binh khiển

tướng của mình, Lê Lợi đã giành những thắng lợi quan trọng như dùng kế lấy Đông
Đô “Ngày Tân Dậu, lấy được Đông Đô. Lê Lợi vào thành vỗ yên trăm họ. Nhân dân
trong thành đốt hương phủ phục bên đường nghênh đón”. Tiếp theo dùng kế đánh
thắng Trương Phụ, làm cho hắn thất kinh hồn vía “Lê Thạch từ trên cao sắp cung nỏ
bắn xuống, Phụ năm lần bảy lượt tổ chức tấn công, nhưng không tài nào lên nổi. Chợt
Phạm Yến từ bên trái đánh ra, Sùng Quang từ bên phải, làm cho tướng nhà Minh vứt
cả áo giáp, kéo lê giáo mác mà chuồn. Phụ thất kinh, bèn quay ngựa chạy”. Những
thắng lợi đó, đã phần nào khẳng định tài năng lãnh đạo của Lê Lợi trong cuộc chiến.
Dù là một người lãnh đạo có quyền quyết định mọi chuyện nhưng Lê Lợi bao
giờ cũng thận trọng, họp tất cả mọi người lại để cùng bàn bạc công việc “Nay giặc Hồ
ngông cuồng, quân Bắc phóng túng, ta đóng quân tại đây xa gần lắm người theo. Các
ông bảo thế nào là tiện hơn cả ?”. Lê Lợi là người không cậy vào vị trí, quyền thế
của mình mà ông biết lắng nghe những ý kiến hay để áp dụng vào cuộc chiến, đó là
yếu tố góp phần thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.
Lê Hoan đã xây dựng nhân vật Lê Lợi là một vị tướng tài giỏi, đầy mưu lược.
Trong quá trình khởi nghĩa, Lê Lợi giành nhiều thắng lợi nhưng đôi lúc ông cũng vấp
phải những thất bại khôn lường do tính toán sai lệch. Như hồi 47, sau khi nhận tin của
Đoàn Mãng về tình hình quân Bắc, Lê Lợi đã thân chinh dẫn 5000 quân ra trận “Thế
giặc đang mạnh, trẫm phải thân chinh mới được; bằng không, các tướng khó mà
đương đầu nổi với bọn chúng”. Do không lường trước được thế mạnh của giặc nên Lê
16


Lợi bị bao vây: “Thái Tổ lúc này chỉ còn hơn 300 quân, vùng vẫy thế nào cũng không
thoát ra được. Phạm Liễu kéo quân tới đánh, bị Trần Trung chặn lại, cuối cùng cũng
thua chạy. Hậu bộ Phạm Đán giương cung bắn chết mấy chục người, cứu Thái Tổ
ra”. Hồi 55, khi nhận thư chiêu hàng của Thái Tổ, Lý An trả lời thư xấc xược. Do bực
tức, Lê Lợi nóng vội cho quân tấn công Giao Chỉ “Thái Tổ tiến quân đến bên ngoài
thành Giao Chỉ, truyền lệnh hạ trại. Tướng sĩ tất bật dựng lều trại. Bỗng thấy một hồi
còi đồng vang lên, Lý Cát từ Đông Đô xông ra, Chu Thường từ Tây Đô lao tới. Quân

Nam trận địa dở dang nên thua chạy, Tư không Đinh Lễ quát thế nào cũng không
được… Thái Tổ bị địch vây chặt lớp trong lớp ngoài. Vua than rằng:
Chỉ vì ta coi thường địch nên mới đến nông nổi này!
Nói đoạn, rút bảo kiếm trỏ thẳng về phía quân Bắc. Những quân Nam theo
vua đều tử trận. Cùng lúc ấy, Thiếu Ngại và Công Soạn đều bị thương nặng, đang
dẫn quân chạy tới kêu rằng:
Chúa thượng hãy khoan đã, bọn thần xin liều mình cứu chúa.
Hai người cố mở đường máu xông vào đưa Thái Tổ ra ngoài”.
Những phân tích trên cho thấy khi xây dựng hình tượng nhân vật Lê Lợi, Lê
Hoan đã xây dựng ở nhiều khía cạnh khác nhau. Dù là một vị tướng tài giỏi việc thắng
lợi hay thất bại là đều thường gặp. Thông qua những thất bại, tác giả nhằm tô đậm ý
chí quật cường của người anh hùng Lê Lợi, tuy thất bại nhưng không lùi bước. Qua
đó, cho thấy Lê Lợi là một người có ý chí, quyết tâm cao, đã vượt qua những gian khổ
để lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn làm nên những thắng lợi vang dội.
Tuy có ý chí quật cường, cứng rắn nhưng Lê Lợi là một con người đầy tình cảm,
nhiều khi con người ấy như sụp đổ hoàn toàn không còn muốn chiến đấu, muốn ngã
quỵ trước thời cuộc. Như khi được tin Lê Lai mất, Lê Lợi rất đau đớn “Thái Tổ nghe
tin liền khóc òa lên rồi ngã vật xuống đất ngất lịm, muốn tự vẫn. Đoàn Mãng khuyên
hãy gắng gượng mà đi, nhưng Thái Tổ không chịu dậy…. Đại huynh đã chết, trẫm
sống làm gì nữa”. Với sự thương tiếc về cái chết của người anh, Lê Lợi đã ngã quỵ,
không còn tinh thần để tiếp tục chiến đấu. Nhưng với sự giúp đỡ và động viên của các
tướng lĩnh, Lê Lợi đã đứng dậy tiếp tục lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Ông là một người rất nghiêm khắc “Lại nói Lê Lợi cai quản gia đình rất nghiêm.
Con trai thì chuyên việc cày cấy, con gái thì trăm bề thêu dệt”; “Hành quân phải có
phép tắc. Tướng lĩnh phải biết tình hình quân đội, quân lính phải theo ý người chỉ
17


huy. Thấy giặc đừng rút, thấy lợi đừng tranh”. Với sự nghiêm khắc trong việc quản lí
cũng như trong lãnh đạo quân sĩ, thấy được Lê Lợi là một người có khí phách của một

vị anh hùng, một vị tướng lĩnh tài ba biết cách điều binh khiển tướng. Lúc nào Lê Lợi
cũng thể hiện sự oai phong của mình trước các tướng lĩnh và đặc biệt là trước quân
giặc “Lợi tuyên bố:
Thiên binh tới đây là để giúp dân chứ không phải để hại dân. Vậy để các
ngươi sống làm gì?
Lập tức đem chém. Tướng tá nhà Minh trông thấy đều thất sắc, nhưng vì
đuối lý nên không dám hé môi”.
Lê Lợi là một người sáng suốt, biết tôn hiền đãi sĩ. Như Nguyễn Trãi đến tìm Lê
Lợi và trốn trong phòng không dám ra, Lê Lợi phát hiện định chém Nguyễn Trãi. Lê
Lợi vô cùng vui sướng khi biết Nguyễn Trãi là một người tài giỏi “Lê Lợi nghe xưng
là Tiến sĩ, lòng thấy kính mộ, liền bước xuống dìu Nguyễn Trãi lên giường cùng
ngồi”; “Tiên sinh nếu không từ bỏ kẻ cô quả yếu kém này, thì xin hãy chỉ vẽ, dạy bảo
giúp các tướng sĩ, khiến họ hiểu được muôn một, sau đó bắt tay vào đại sự cũng chưa
muộn”. Dù có tài trí thế nào, một mình Lê Lợi cũng không tài nào đánh thắng giặc,
chỉ có sự giúp đỡ từ những người có tài, có trí cùng nhau nghĩa ra những kế sách mới
có thể đánh thắng. Từ đó, cho thấy Lê Lợi là một người anh minh, chính trực biết
dùng và tôn trọng người tài, đó là một yếu tố quan trọng trong cuộc khởi nghĩa. Ông
luôn lo lắng cho các tướng sĩ khi chiến đấu, họ sẽ gặp những khó khăn, vất vả.
“Đinh Lễ và Lê Trãi cùng tâu:
Bọn thần thờ bệ hạ là muốn lập chút công lao để làm vẻ vang cho tiên tổ…
Thái Tổ nói:
Lẽ nào trẫm lại không biết đều đó, chẳng qua thấy các tướng vất vả vì binh đao,
quân sĩ sa vào nơi hòn tên mũi đạn, trẫm không nỡ”. Lê Lợi luôn xót thương cho
những tướng sĩ tử trận, ông luôn cho người chôn cất cẩn thận, phong tặng chức vị để
người đời sau biết đến công lao của họ. Như khi biết tin Phạm Yến bị giết “Thái tổ
nghe xong khóc òa lên, rồi sai làm lễ truy điệu Phạm Yến trong quân, vua đến bên
bàn thờ khóc lóc rất thảm thiết”. Khi Hoàng Tất chết “Thái Tổ thương xót, sai dân sở
tại lập miếu thờ Hoàng Tất trong núi để bốn mùa cúng tế, phong làm trung trinh hiển
ứng uy linh đại thần”.


18


Lê Lợi thấy cuộc sống của nhân dân khó khăn, phải chịu sự thống trị, bị bóc lột
sức lao động, chính vì thế Lê Lợi đứng lên đấu tranh. Lê Lợi thể hiện một tình thương
yêu đối với nhân dân, biết lo cho cuộc sống của nhân dân bất chấp nguy hiểm trước
mắt “Lợi tôi vì dân mà diệt giặc, không ngờ bị nguy khốn ở đây, cúi mong Hoàng
thiên, Hậu thổ hãy cứu đám sinh linh”. Khi chiếm đóng các thành Lê Lợi luôn vỗ về
nhân dân, coi nhân dân là trên hết “Ta đến đây là để trừ bạo cứu dân, không làm hại
đều gì. Ra lệnh trong quân tơ không được đụng tới của dân, ai vi phạm sẽ xử trảm,
trăm họ vui mừng khôn xiết”. Vì lo cho dân, Lê Lợi ngày đêm không ngủ tìm kế đánh
giặc để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân “Lợi sai người gọi Lê
Thiện tới bàn công việc. Nhưng Thiện lúc ấy ra ngoài chưa về, Lợi lui vào phòng
buông màn nằm nghỉ, song vì lo cho dân nên trằn trọc mãi không sao ngủ được, bèn
trở dậy châm đèn tính Thất ất”. Dù đang trong tình cảnh nguy hiểm nhưng Lê Lợi
vẫn thể hiện sự thương xót của mình đối với người dân vô tội bị hại, tự trách bản thân
mình đã làm nên chuyện này “Lại nói Thái Tổ sau khi được Phạm Đán cứu thoát, liền
cướp đường cùng Đoàn Mãng và Lê Lai chạy tháo thân. Đến giữa đường thấy một mỹ
nữ bị quân Bắc hiếp chết nằm ngay lối đi, Thái Tổ than rằng:
Vì trẫm mà trăm họ phải chịu cảnh thê thảm như thế này sao!
Bèn dừng lại để đào hố chôn cất người xấu số. Vừa mai táng xong, đã thấy
Trần Trung xua quân ồ ạt tới”. Không chỉ thương xót nhân dân trong nước, Lê Lợi
còn thể hiện sự thương xót của mình đối với quân giặc khi họ tử trận “Lại nói Lê Lợi
sau khi thắng trận, dẫn quân sĩ đi thu nhặt trang phục khí giới mang về. Sai Triệu Hộ
đốc thúc binh lính lượm xác quân Bắc đem chôn dưới chân núi Đông Sơn trước khi
rút quân”; “Thái Tổ lại sai đem các tướng nhà Minh tử trận trước đây thiêu thành
tro, dựng thành hộp gỗ mang về để ngoài cửa thành Đông Đô, lập đàn cho tướng sĩ
Bắc. Thái Tổ sau khi dẫn tướng đi cúng điếu, cho phép quân Bắc chở hộp tro về nội
địa an táng, Vương Thông từ biệt Thái Tổ lên đường”. Là một người biết lo cho dân,
thương dân và đặc biệt là thương xót cho những quân sĩ tử trận của quân giặc. Cho

nên, Lê Lợi đi đến đâu cũng được mọi người nghênh đón nồng nhiệt và tôn trọng.
Bọn giặc thấy vậy, cũng phần nào phải kiêng nể về đức độ của Lê Lợi.
Lê Lợi luôn canh cánh trong lòng là tiêu diệt giặc lập lại triều đình nhà Trần để
nhân dân an cư lạc nghiệp “Ta dẹp giặc là để khôi phục nhà Trần, không ngờ lại hóa
thành trò bù nhìn! Không biết Giản Định giờ ở nơi đâu?”. Là một người tài trí song
19


toàn nhưng Lê Lợi không cầu danh lợi, một lòng trung thành với họ Trần. Bị vua Trần
khiển trách cắt chức đuổi Lê Lợi ra khỏi triều đình về làm dân thường. Lê Lợi không
một lời oán trách, vẫn ngày đêm chiêu tập binh mã lấy rừng núi làm chỗ nương tựa và
vẫn một lòng với vua Trần “Tới Nghĩa An, Lợi cho quân dừng lại, dẫn các tướng vào
thành bái yết vua Trần. Nhưng khi đến nơi, không thấy ai cả. Lợi gọi người địa
phương đến hỏi, dân sở tại nói:…”; “Lê Lợi nói: Muốn vào gặp mặt vua, may được
rủ lòng thương để mình được dốc tâm phụng sự. Nay lại không gặp phải chăng tại
trời ?”.
Với tài năng của mình, Lê Lợi có thể lên ngôi vua để bình trị đất nước nhưng lúc
nào cũng từ chối. Ông cho rằng mình đứng lên khởi nghĩa là vì nước vì dân chứ
không có “mưu đồ bá vương”. Khi Đoàn Phát yêu cầu Lê Lợi lên làm vua thì Lê Lợi
đã khước từ “Tiên sinh mới đến, sao lại đẩy tôi vào chỗ bất nghĩa?. Tôi mặt mũi nào
đang tâm chiếm đoạt thiên hạ của họ Trần”. Đến lược Nguyễn Trãi yêu cầu thì Lê
Lợi vẫn không chấp nhận “Trãi nói:
Trời sinh ra dân ai cũng có đều ham muốn, nếu không có chúa thì loạn
ngay. Xin minh công hãy lên ngôi Hoàng đế rồi sau đó dấy binh là hợp nhất.
Lê Lợi sợ hãi nói:
Sao ông lại thốt ra những lời như vậy?Ta có đức độ gì đâu mà làm vua !...
Lợi nhất định không nghe, phủ áo đứng dậy”.
Mọi người đều mong mỏi Lê Lợi lên ngôi nhưng ông từ chối. Đến khi Nguyễn
Trãi dùng kế mới chịu lên ngôi, nhưng khi lên ngôi Lê Lợi nói rằng: “Lợi tôi do số
đông nài ép lên làm vua để dấy binh khởi nghĩa, điếu dân phạt tội. Cúi mong Hoàng

thiên Hậu thổ giám lâm, mãi mãi ban phúc cho đất nước”. Lên ngôi chỉ là do sự ép
buộc của mọi người nên khi dấy binh khởi nghĩa gần như thắng lợi, Lê Lợi lại muốn
tìm con cháu họ Trần để tôn lên ngôi báo cho thỏa lòng mong đợi “Ta trước đây bị
các ông cùng trăm họ bức ép, dựng lên làm vua. Nay thiên hạ mười phần đã giành lại
được tám chín phần, giá có ai giúp ta đi khắp nơi dò la con cháu nhà Trần đưa về tôn
lên ngôi báu, ta sẽ tôn thờ, với tư cách bề tôi, để thỏa lòng mong mỏi của ta”. Nhưng
với lí do trên, Lê Lợi không thể nào thuyết phục được mọi người, lòng dân đã quyết
thì không thể nào thay đổi. Mọi người cố khuyên răn nhưng Lê Lợi không nghe “Thái
Tổ nói: Chẳng lẽ trẫm lại phải gánh cái tiếng bất nghĩa hay sao ?”. Lê Lợi luôn kiên
quyết rằng mình không thể nào lên ngôi vua vì còn con cháu họ Trần. Nhưng khi Trần
20


Cao là hậu duệ cuối cùng của nhà Trần đã qua đời, Lê Lợi vẫn không chấp nhận “Nếu
mỗ làm như vậy, đời sau sẽ bảo Lê Lợi cướp nước Trần Cao, mỗ không đâu”. Cuối
cùng, lòng dân đã hướng, ai nấy đều ủng hộ Lê Lợi lên ngôi, ông đã nhận lời theo
ước nguyện của nhân dân “Lòng dân đã như vậy, tránh sau cho được? Đến lúc này
Thái Tổ mới chịu nghe, bèn soạn tờ biểu kêu người mang sang Trung Quốc”. Lê Lợi
lên ngôi trị vì đất nước, làm cho cuộc sống nhân dân ấp no hạnh phúc, đất nước thái
bình thịnh trị “Thiên hạ thái bình, sĩ nông công thương đều vui với nghề nghiệp.
Triều đình nhàn nhã, bên cảnh yên tĩnh, đất nước trở thành xứ sở ấm no hạnh phúc”.
Với tài năng của mình, Lê Hoan đã xây dựng một hình tượng nhân vật Lê Lợi vô
cùng độc đáo. Bằng những hiểu biết lịch sử của mình và một phần do bản thân hư
cấu, ông đã xây dựng hình tượng Lê Lợi khác hẳn so với nhân vật nguyên mẫu và
những tác phẩm khác viết về Lê Lợi. Hình tượng Lê Lợi hiện lên trong tác phẩm
không oai phong lẫm liệt như trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Nhưng trong Việt Lam xuân thu, Lê Lợi hiện lên là một người có đầy đủ cả ba yếu tố
“nhân, trí, dũng”. Hình ảnh Lê Lợi luôn gắn liền với cuộc khởi nghĩa và trong vai trò
là một vị tướng lãnh đạo kiệt xuất. Trong quá trình khởi nghĩa, Lê Lợi và nghĩa quân
đã từng vào sinh ra tử, cùng nhau chiến đấu đối mặt những khó khăn gian khổ. Nhưng

Lê Lợi vẫn bền trí, ngày đêm nung nấu quyết tâm đánh giặc, một lòng hi sinh vì nước
vì dân. Với những ý chí, quyết tâm không sợ gian khổ, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn vượt qua mọi thử thách để giành thắng lợi huy hoàng cho dân tộc.
Tóm lại, Lê Lợi là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước, dám hi sinh
quên mình đứng dậy chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập cho đất nước. Qua tác
phẩm này, còn cho ta thấy Lê Lợi là một người nhân đức không tham danh lợi, là một
vị vua anh minh, sáng suốt đáng được người đời tôn trọng.

2.2.2. Hình tượng anh hùng Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi chắc hẳn không xa lạ với chúng ta, ông là một nhà văn, nhà thơ kiệt
xuất mà còn là một người hoạt động chính trị tài ba. Ông có công rất lớn trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, với tài trí của mình ông đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa.
Trong tác phẩm Việt Lam xuân thu, Nguyễn Trãi hiện lên với vai trò là một vị
quân sư tài ba. Với những hiểu biết và mưu lược của mình, ông đã giúp Lê Lợi giành
thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi, xuất hiện trong Việt Lam
21


xuân thu được tác giả giới thiệu một cách rõ ràng về tiểu sử cũng như tài năng “Lại
nói người vén màn sụp lạy Lê Lợi chính là Nguyễn Trãi, người Nhị Khê, huyện
Thượng Phúc. Trãi tấm bé đã côi cút bần hàn, nhưng vốn tính thông minh, các phép
bói Nhâm, Cầm, Độn, Ất không thứ nào không thạo. Cuối đời Trần, Trãi đỗ thái học
sinh”. Là một người yêu nước, thương dân nên Nguyễn Trãi luôn tìm mọi cách để có
thể cứu nước, cứu dân “Từ lúc họ Hồ cướp nước, tướng Minh đem quân sang đánh,
chiếm cứ đất đai, cho đến lúc họ Trần trung hưng, Trãi biết vận nhà Trần không còn
được mấy nên đã bỏ trốn không chịu ra, muốn ngầm tìm các bật hào kiệt trong thiên
hạ để cùng lo tính việc nước”. Nguyễn Trãi đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gần
như là do mệnh trời sắp đặt “Đó là vị danh thần mở nước theo sứ mệnh trời trao”.
Cuộc hành trình Nguyễn Trãi tìm đến với Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa được tác giả

miêu tả rất chi tiết. Nguyễn Trãi tới trọ ở một túp liều tình cờ gặp được thần nữ Sùng
Sơn, thần nữ cung cấp một thông tin cho Nguyễn Trãi biết “Thượng đế sẽ cho Lê Lợi
làm vua, Nguyễn Trãi làm phụ tá để ổn định tình hình”. Với những thông tin của thần
nữ, Nguyễn Trãi vô cùng sung sướng vì hào kiệt mà bấy lâu nay mình tìm kiếm đã
xuất hiện “Trãi vừa sợ vừa mừng, vội xách kiếm trở vào nhà nằm”. Khi biết được
mình cần phải làm gì, Nguyễn Trãi liền tìm gặp Lê Lợi nhưng sau 6, 7 tháng ở Nghĩa
An, Trãi không gặp được Lê Lợi, chỉ nghe lời của nhân dân nói lại. Nguyễn Trãi luôn
tìm mọi cách để gặp Lê Lợi, nhân cơ hội một cụ già trong làng đi thăm hỏi Lê Lợi,
ông liền đi theo tìm cách vào phòng Lê Lợi. Khi vào phòng, Nguyễn Trãi đợi Lê Lợi
bày gần xong Thái ất thì vén màn xông vào, hành động của Nguyễn Trãi làm cho Lê
Lợi “Lợi giật mình rút kiếm ra định chém”. Nguyễn Trãi sụp lạy Lê Lợi và trình bày
những suy nghĩ của mình với Lê Lợi, đặc biệt là trổ tài nghệ của mình cho Lê Lợi
thấy. Cuộc gặp gỡ ở giữa khuya đầy bất ngờ giữa hai người tạo nên dấu ấn trọng đại
khi “vua sáng” và “tôi hiền” gặp nhau và họ sẽ cùng sát cánh bên nhau xây dựng đại
nghiệp.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là môi trường thuận lợi để Nguyễn Trãi bộc lộ tài
năng, tâm huyết và nhân cách của mình. Hình ảnh Nguyễn Trãi hiện lên trong tác
phẩm là một người thông minh, mưu lược và đầy nhân nghĩa. Trước hết, Nguyễn Trãi
là một người thông minh, học rộng hiểu nhiều kinh sử, ông luôn mong muốn đem
những sự hiểu biết của mình truyền đạt lại cho dân “Ta vâng mệnh thiên tử tới đây dạy
học, chính là để cứu dân, không phải cố ý hại người”. Từ đó cho thấy tấm lòng nhân
22


nghĩa của ông và trong suốt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính tư tưởng đó giúp
Nguyễn Trãi vượt qua những khó khăn thử thách để đánh đuổi giặc ngoại xâm giành
độc lập, làm cho cuộc sống nhân dân ấm no hạnh phúc. Những ngày đầu đến với nghĩa
quân Lam Sơn, ông đảm nhiệm việc dạy chữ cho binh lính và người dân nếu họ có nhu
cầu “Tướng sĩ sáng tới lớp, chiều về doanh trại. Con em nhân dân trong vùng lân cận
nghe tiếng đều tới xin nhập học đông vô kể. Tiếng đọc sách hòa cùng âm thanh rừng

núi, vẻ văn chương hợp với cảnh sắc mây ngàn”. Nguyễn Trãi rất được Lê Lợi và các
tướng sĩ kính nể “Trãi thiên văn địa lý không mặt nào là không thạo, tam giáo cửu lưu
không thứ gì không học, hơn Thiện gấp mười lần”.
Là một vị quân sư biết nhìn xa trong rộng, Nguyễn Trãi biết rằng cuộc khởi
nghĩa phải có người lãnh đạo mới có thể giành thắng lợi hoàn toàn. Chính vì vậy
Nguyễn Trãi đã thay mặt tất cả các tướng sĩ khuyên Lê Lợi lên ngôi hoàng đế để lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa và có thể dễ dàng tập hợp lực lượng. Nhưng sợ mang tiếng là bất
nghĩa nên Lê Lợi không chịu lên ngôi, Nguyễn Trãi đã dùng kế và kêu gọi tất cả mọi
người cùng thực hiện theo kế sách “Trãi nảy ra một kế: lấy mật ong vẽ lên cây cổ thụ
dòng chữ “Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm phụ tá, để cho kiến tụ tập tới ăn, làm
trống chỗ vỏ cây có mật ong, đâu đâu cũng thế”. Tin đồn được truyền đi khắp nơi làm
cho Lê Lợi tin rằng là là do ý trời nên quyết định lên ngôi “Hẳn là trời khiến ta làm
vua thật”. Nhờ kế của Nguyễn Trãi, Lê Lợi lên ngôi giúp cho lòng dân quy thuận,
triều đình được tổ chức sắp xếp rạch ròi, trên dưới được sắp đặt theo thứ bậc rõ ràng từ
các quan văn, quan võ. Nhân dân vui mừng kéo nhau đến xin Lê Lợi dấy binh chống
quân Minh, Lê Lợi phê chuẩn mọi người hăm hở bước vào cuộc kháng chiến “Những
kẻ hào trưởng lũ lượt kéo nhau tới theo. Quần thần tâu xin dấy binh. Thái Tổ giáng chỉ
cho phép”.
Không những là một người thông thiên văn giỏi về địa lý, Nguyễn Trãi còn là
một vị tướng có tài thao lược. Với khả năng tính toán như thần lại khá am hiểu về binh
pháp, Nguyễn Trãi luôn lường trước những âm mưu của địch vì vậy trong các cuộc
chiến ông đều giành thắng lợi. Nhờ sự mưu trí mà các trận Nghĩa An, Cầm Bành,
Nguyễn Trãi đã giành thắng lợi lớn. Như trận Nghĩa An, khi tướng bên giặc qua xin
hàng, ông biết là trá hàng nên đã cho quân lính uống rượu, gươm giáo vứt lung tung để
lừa tướng giặc “Trãi nói: Đã biết rồi ! Ta cố ý bảo sĩ tốt giả vờ lười nhát để cho địch
coi thường, sau đó mà dùng kế tóm địch”. Tiếp theo, Nguyễn Trãi bày kế cho các
23


tướng sĩ để ứng phó với bọn giặc. Bọn giặc biết tình hình của quân ta nên chúng tỏ ra

khinh địch. Với kế sách của Nguyễn Trãi, quân ta đã giành thắng lợi “Trãi vờ tức
giận, lệnh cho tướng sĩ đánh vào thành. Chu Quảng mở cửa thành ra ứng chiến. Phan
Liêu vỗ ngựa tới nghênh địch…. Vừa tới nơi, đã thấy Phạm Liễu đứng trên thành nói
rằng: Ta vâng lệnh Quân sư lấy ngôi thành này rồi, sao ngươi không đầu hàng đi?
Phúc hết hồn, vội vàng xuống ngựa xin hàng”.
Sau chiến thắng vẻ vang ở trận Nghĩa An là đánh Cầm Bành. Trong cuộc giao
tranh với Cầm Bành, Nguyễn Trãi bày binh bố trận, cho quân mai phục để dụ Cầm
Bành ra hàng. Nhưng Cầm Bành kiên quyết chống đối “Cầm Bành nói: Bọn các ngươi
đồ mọi rợ mà lại dám xưng vương xưng tướng ư? Ta quyết lấy cho được đầu ngươi,
đâu có chuyện hàng”. Với sự chống cự kiên quyết của Cầm Bành, Nguyễn Trãi đã
dùng kế, ông vờ tức giận sai Đoàn Mãng ra đánh và giả vờ thua chạy nhưng Cầm Bành
biết bị lừa nên không đuổi theo. Nguyễn Trãi thấy mưu kế bị lộ nên liền tiến hành kế
hoạch khác “Trãi thấy mưu kế bị lộ, bèn sai người gọi Phan Liêu và Xa Tam cho quân
theo đường tắt tới, từ hai bên đánh kẹp lại… Cầm Bành một mình địch không nổi ba,
liền quất ngựa chạy vào trong thành, kéo cầu dây lên rồi đóng cửa thành cố thủ,
không trở ra nữa”. Trước tình hình đó, Nguyễn Trãi “lệnh cho quân sĩ đem đất lấp
hào, dùng thang mây áp sát vào thành leo lên…. Trãi lại ra lệnh khoét một đường hầm
xuyên vào trong thành”. Qua mấy ngày mà vẫn chưa hạ được thành, Nguyễn Trãi cho
1000 quân mai phục ở ngoài thành phía tây, lại cho một số khác đi lấy rơm củi chất
thành phía đông và chuẩn bị đốt thành. Với kế sách trên, Nguyễn Trãi cùng với các
tướng sĩ đã giành thắng lợi “Quân Bắc tất cả 6000 người đều xin hàng. Đến lúc trời
hửng sáng, châu Trà Long được bình định, Trãi ra ngoài thành an ủi vỗ về dân”.
Chiến thắng trận Nghĩa An, thắng Cầm Bành đã phần nào khẳng định tài trí của
Nguyễn Trãi. Thông qua những chiến thắng đó, làm cho các tướng sĩ có tinh thần hưng
phấn để đấu tranh giành những thắng lợi tiếp theo. Tiếp theo hai trận Nghĩa An và
Cầm Bành, Nguyễn Trãi cùng với các tướng sĩ lần lượt giành chiến thắng ở các trận
Lâm Thao, Tuyên Hóa, Tam Đới và Lạng Sơn. Ở trận Lâm Thao, do thăm dò tình hình
của giặc trước nên Nguyễn Trãi đã đưa ra kế sách và sự chỉ đạo nghĩa quân, cuối cùng
đã giành thắng một cách dễ dàng “Ông đem 1000 quân theo đường rừng xuôi vùng hạ
lưu, chờ trời tối chèo thuyền qua sông, đi đường tắt mai phục ở bên trái thành Lâm

Thao. Còn Xa Tam thì đem 1000 quân đi về phía thượng lưu bí mật sang sông, rồi đi
24


×